TỔNG QUAN KINH ĐẠI BÁT NIẾT BÀN
III. MỘT SỐ NỘI DUNG CHÍNH
Câu hỏi lớn nhất đặt ra cho nhân loại từ xưa nay hẳn không gì hơn vấn đề sống chết. Mặc dù luôn bất lực trước sự thách thức phải trả lời câu hỏi này, nhưng mỗi người trong chúng ta dường như vẫn không cưỡng lại được sức cuốn hút của nó, vẫn luôn mong muốn một ngày nào đó sẽ có thể tự mình tìm ra câu trả lời. Bản thân ta là ai? Từ đâu đến và sau khi chết sẽ đi về đâu? Bằng cách dựa trên sự suy diễn – và thậm chí là tưởng tượng – để trả lời những câu hỏi rất “hấp dẫn” này mà trong dòng lịch sử nhân loại đã sản sinh vô số những luận thuyết hay niềm tin khác nhau nhằm thỏa mãn sự hoang mang thắc mắc của con người. Luận thuyết tiêu biểu nhất – và có lẽ cũng tồn tại lâu nhất – là cho rằng con người có một linh hồn bất diệt. Chính linh hồn đã “đầu thai” để thành con người hiện nay của ta, và sau khi ta chết, linh hồn đó sẽ tiếp tục “đầu thai” về một nơi khác để có một đời sống khác. Dựa trên luận thuyết này mà nảy sanh những niềm tin vào một cõi thiên đàng cho những ai đã sống tốt đẹp, hiền thiện, và địa ngục dành cho những ai sống đời ác độc, xấu xa.
Những luận thuyết như trên không hề có trong giáo pháp mà đức Phật đã thuyết giảng, nhưng trong thực tế vẫn có không ít người Phật tử vì không học hỏi nhiều về giáo pháp nên đôi khi cũng lẫn lộn, lầm tưởng rằng những luận thuyết như thế là có trong đạo Phật.
Khi đặt câu hỏi “ta từ đâu đến” và “chết đi về đâu”, chúng ta đã mặc nhiên thừa nhận là có một cái “ta” thường tồn để đến và đi trong cuộc đời này. Nhưng trí tuệ quán chiếu của đức Phật đã chỉ rõ rằng không hề có một cái “ta” như thế! Sự tồn tại của chúng sanh thật ra chỉ là một tập hợp của những yếu tố năm ấm: sắc, thọ, tưởng, hành, thức và các nhân duyên thích hợp. Khi nói về người cha đã chết của vua A-xà-thế, đức Phật dạy:
“Vậy
cha đó là gì? Chẳng qua là cái tên gọi giả tạo, chúng sanh
đối với năm ấm mà hư vọng cho đó là cha. Trong mười hai
nhập, mười tám giới, cái gì là cha? Nếu sắc là cha thì
bốn ấm kia lẽ ra không phải. Nếu bốn ấm kia là cha, thì
sắc lẽ ra không phải. Nếu sắc và không phải sắc hợp
lại là cha thì không có lý. Vì sao vậy? Vì tánh của sắc
và không phải sắc không hợp lại.”
(trang
195, tập IV)
Vì thế, cái “ta” mà chúng sanh lầm tưởng là một thực thể cá biệt đó thật ra không hề tồn tại. Khi chưa có đủ nhân duyên thích hợp, năm ấm chưa tụ họp thành một thực thể chung thì không một cái “ta” nào có thể tìm thấy. Khi có đủ nhân duyên tụ họp, năm ấm cùng hiện hữu tạo thành cái “ta” của chúng sanh, nhưng năm ấm đó cũng chưa từng thực sự tồn tại mà chỉ là một dòng liên tục nối tiếp nhau sanh ra và diệt đi trong từng niệm tưởng. Vì thế, xét cho cùng thì ngay cả năm ấm tụ họp mà chúng sanh đang nhận biết đó cũng là không thật có.
Khi nhân duyên không còn đủ, năm ấm đều tan rã, vậy cái “ta” đó dựa vào đâu mà tồn tại? Vì không hề có một cái “ta” hoặc “tự ngã” tồn tại theo cách như chúng sanh lầm tưởng nên việc đặt câu hỏi “ta từ đâu đến” và “sau khi chết sẽ đi về đâu” tự nó đã là một điều không hợp lý. Đức Phật giảng rõ hơn về ý nghĩa này:
“Thiện nam tử! Cũng như lìa khỏi nước thì không có con sông; lìa khỏi năm ấm thì không thể riêng có chúng sanh.
“Thiện
nam tử! Cũng như lìa khỏi thùng xe, trục, bánh, nan hoa, vành...
thì không riêng có cái xe. Chúng sanh [và năm ấm] cũng giống
như thế.”
(trang
494, tập V)
Quả thật là ý nghĩa rất tương tự như vậy. Như chiếc xe sau khi hư hỏng đã bị tháo rã thành từng mảnh vụn vung vãi khắp nơi, nếu có người đặt câu hỏi “chiếc xe đi về đâu?” liệu có thể xem là hợp lý chăng?
Tuy vậy, việc nhận thức rõ là không có một cái “ta” hay tự ngã thường tồn không đồng nghĩa với thuyết đoạn diệt, vốn cho rằng sau khi chết là dứt mất tất cả, không còn lại gì. Đức Phật dạy:
“Này
thiện nam tử! Vì sao gọi là ý nghĩa rất sâu xa? Tuy biết
chúng sanh thật không có tự ngã, nhưng nghiệp quả trong tương
lai không hề dứt mất. Tuy biết rằng năm ấm tan rã trong
đời này, nhưng nghiệp lành nghiệp dữ đều chẳng mất.
Tuy có các nghiệp nhưng không có người tạo tác; tuy có chỗ
đến nhưng không có người đi đến; tuy có sự trói buộc
nhưng không có người bị trói buộc; tuy có Niết-bàn nhưng
không có người nhập Niết-bàn. Đó gọi là ý nghĩa rất
sâu kín.”
(trang
290, tập IV)
Những ý nghĩa này thật rất sâu xa, tinh tế, không dễ dàng nhận hiểu. Theo lời Phật dạy như trên thì không hề có sự tồn tại một cái “ta” cá biệt nào, nhưng mọi hành vi tạo thành nghiệp quả trong tương lai lại không hề dứt mất! Và vì thế, người ta không khỏi phải nảy sanh nghi vấn: “Vậy ai là người thọ nhận nghiệp quả trong tương lai?” Hơn thế nữa còn có một câu hỏi thiết thực hơn: “Ngay trong hiện tại này nếu năm ấm của chúng sanh vốn không hề thật sự tồn tại mà chỉ là một dòng sanh diệt tương tục, vậy ai là người tu tập để cầu giải thoát?” Bồ Tát Sư Tử Hống đã thay mặt thính chúng nêu lên thắc mắc này:
“Bạch
Thế Tôn! Năm ấm của chúng sanh vốn là không, không thuộc
về ai cả, vậy ai là người nhận sự giáo hóa, tu tập Chánh
đạo?”
(trang
494, tập V)
Đức Phật giải đáp vấn đề này như sau:
“Thiện
nam tử! Tất cả chúng sanh đều có tâm nhớ nghĩ, tâm trí
tuệ, tâm phát khởi, tâm chuyên cần tinh tấn, tâm tin nhận,
tâm an định. Các pháp như vậy tuy nối nhau diệt mất trong
từng niệm tưởng, nhưng vì có sự tương tự, tiếp nối
nhau không dứt cho nên gọi là [có người] tu tập Chánh đạo.”
(trang
494, tập V)
Nhưng xét cho đến cùng thì ngay cả sự “diệt mất trong từng niệm tưởng” đó cũng không phải là những phân đoạn thời gian thật có sự tồn tại, mà cũng được hình thành từ những phần sanh diệt nối nhau không dứt, như lời Bồ Tát Sư Tử Hống thưa hỏi:
“Thế
Tôn! Các pháp ấy đều diệt mất trong mỗi một niệm. Sự
diệt mất trong mỗi một niệm ấy cũng tương tự, tiếp nối
nhau không dứt, vậy làm sao tu tập?”
(trang
495, tập V)
Đức Phật giải thích vấn đề này một cách cặn kẽ và chi tiết hơn:
“Thiện nam tử! Như ngọn đèn kia tuy [có sự liên tục] diệt mất trong mỗi một niệm, nhưng vẫn có ánh sáng phá tan sự tăm tối. Tất cả các pháp như tâm nhớ nghĩ.v.v... cũng là như vậy.
“Thiện nam tử! Như món ăn của chúng sanh, tuy [có sự liên tục] diệt mất trong mỗi một niệm, nhưng cũng giúp cho kẻ đói được no lòng. Ví như phương thuốc hay, tuy [có sự liên tục] diệt mất trong mỗi một niệm, nhưng cũng có thể làm cho khỏi bệnh. Ánh sáng mặt trời mặt trăng, tuy [có sự liên tục] diệt mất trong mỗi một niệm, nhưng cũng có thể làm tăng trưởng cỏ cây rừng rậm.
“Thiện
nam tử! Ông có hỏi rằng: Nối nhau diệt mất trong từng niệm,
làm sao [tu tập] tăng trưởng? [Đó là] vì tâm thức không
dứt đoạn nên gọi là tăng trưởng.”
(trang
495, tập V)
Như vậy, thật sự không hề có một bản ngã tồn tại độc lập mà chỉ là sự tiếp nối không ngừng của một chuỗi sanh diệt liên tục chuyển biến theo dòng thời gian, và trong đó không có bất cứ một khoảnh khắc nào là dừng trụ, là không biến đổi. Như một dòng nước đang chảy, tất cả những điểm chuyển dịch trong đó đều góp phần tạo thành dòng chảy, nhưng không ai có thể tìm thấy trong đó bất cứ một điểm dừng cố định nào, dù chỉ là trong khoảnh khắc. Tuy nhiên, chính vì có dòng tâm thức liên tục không dứt đoạn như thế mà có thể có sự tu tập để sự chuyển biến luôn đi theo hướng ngày càng tốt đẹp hơn.
Về dòng tâm thức không dứt đoạn này, đức Đạt-lai Lạt-ma dựa theo giáo pháp Trung quán tông đã giải thích như sau:
“Đây là đề tài rất khó, nhưng có lẽ ta có thể nói rằng nguyên nhân chính yếu của thức có thể được hiểu như là dòng tương tục của thức vi tế, mặc dù ta nên cẩn thận không dừng lại ở chỗ ngụ ý rằng nguyên nhân vật chất của bất kỳ vật nào cũng hoàn toàn giống hệt như bản thân vật đó. Nhận thức này không đứng vững được. Chẳng hạn, ta không thể duy trì quan điểm cho rằng những nguyên nhân chính yếu của các cảm giác luôn là các cảm giác, vì các thức cảm thụ thuộc về những cấp độ thô của tâm thức và phụ thuộc vào các giác quan của mỗi người, trong khi đó dòng tâm thức tương tục nên được hiểu ở cấp độ thức vi tế.” [9]
Ở đây, cấp độ thô của tâm thức là những tâm nhớ nghĩ, tin nhận.v.v... như đức Phật đã giải thích trong lần thưa hỏi thứ nhất của Bồ Tát Sư Tử Hống; và cấp độ thức vi tế chính là khi cứu xét đến chỗ “nối nhau diệt mất trong từng niệm tưởng”, bởi xét đến ý nghĩa này thì mọi khái niệm về tự ngã tất nhiên phải hoàn toàn sụp đổ, chỉ còn lại hình dung về một dòng tâm thức tương tục mà trong đoạn văn trích dẫn trên được cho là “nguyên nhân chính yếu của thức”. Cách giải thích này rất hợp lý, vì các thức rõ ràng đều được sanh khởi trên chính nền tảng là dòng tâm thức tương tục này.
Như vậy, hiện tượng mà tất cả chúng sanh cho là “chết đi” hay “sanh ra” thật ra chỉ có thể tạm xem như là những điểm chuyển hướng trong dòng tâm thức tương tục theo lời Phật dạy như trên. Những thuyết giảng của đức Đạt-lai Lạt-ma XIV, một bậc thầy đương đại tiêu biểu cho Phật giáo Tây Tạng, được một nhà khoa học phương Tây nhận hiểu và trình bày lại như sau:
“Phật giáo Tây Tạng xác nhận rằng trong tiến trình của sự chết các giác quan thông thường và năng lực nhận thức trở nên tiềm tàng. Kết quả cuối cùng của tiến trình này – khi tất cả năng lực tinh thần bình thường của chúng ta đã mất đi – không phải là sự đoạn diệt tâm thức, mà là sự hiển lộ của tâm thức rất vi tế mà từ đó tất cả các tiến trình tinh thần khởi nguồn. Theo Phật giáo Tây Tạng, sự hiện diện của tâm thức vi tế này không phụ thuộc vào não bộ, cũng không đòi hỏi sự mất đi của ý thức. Đúng hơn, kinh nghiệm của loại tâm thức này là kinh nghiệm của sự nhận biết trực tiếp và nguyên sơ, được xem như là nền tảng cấu thành của thế giới tự nhiên. Khi sự nối kết giữa tâm thức vi tế này và thân thể bị cắt đứt, cái chết xảy ra. Nhưng tâm thức này không biến mất. Ngược lại, từ nơi tâm thức này tạm thời khởi lên một “thân thể tinh thần” (thân trung ấm), tương tự như loại thân thể phi vật lý mà người ta có trong giấc mơ. Theo sau cái chết của một người là một chuỗi kinh nghiệm tương tự như trong giấc mơ, rồi sau đó “thân thể tinh thần” này cũng “ chết đi”, và ngay khoảnh khắc tiếp theo đó thì đời sống kế tiếp bắt đầu, chẳng hạn như trong tử cung của người mẹ tương lai.” [10]
Như vậy, tuy phần nào đó có thể tạm xem là tương tự, vì có sự tiếp nối giữa đời sống này và đời sống tiếp theo sau, nhưng hoàn toàn không có một “linh hồn” hiện hữu và rời khỏi thân xác hiện nay để “đầu thai” vào một đời sống tiếp theo như nhiều người lầm tưởng. Quan niệm sai lầm về một linh hồn thường tồn cũng là một kiểu tà kiến đã từng bị đức Phật bác bỏ, vì nó khiến cho người tu tập không nhận thức đúng về ý nghĩa của sự tu tập và thường thì đây chính là một kiểu chuyển hướng quan điểm bám víu tự ngã từ vật thể sang phi vật thể.
Theo lời Phật dạy, sự tu tập đạo pháp chính là dựa trên nền tảng của dòng tâm thức tương tục không dứt đoạn, vì tuy cái trước diệt mất cái sau sanh ra nhưng vẫn thật có một dòng tương tục chuyển biến, ví như dòng nước tuy không có bất cứ một điểm nào trong đó là tồn tại độc lập nhưng thật vẫn có dòng chảy và hướng chảy. Sự tu tập đạo pháp của chúng sanh cũng tương tự như vậy. Đức Phật dạy:
“Thiện nam tử! Ví như phép đếm số, một chẳng đến hai, hai chẳng đến ba, tuy mỗi một niệm đều nối nhau diệt mất nhưng vẫn [đếm được] đến số ngàn, số vạn... Chúng sanh tu tập đạo pháp cũng giống như vậy.
“Thiện nam tử! Như ngọn đèn, trong mỗi một niệm đều nối nhau diệt mất. Ngọn lửa trước, khi diệt mất không bảo ngọn lửa sau rằng: Khi ta diệt thì mày phải sanh ra để xua tan bóng tối. [Nhưng do tánh tự nhiên của pháp là như vậy nên ánh sáng vẫn tự nhiên nối tiếp nhau mà xua tan được bóng tối.]
“Thiện
nam tử! Ví như con nghé vừa sanh ra liền tìm vú sữa mà bú.
Cái trí khôn biết tìm vú sữa đó thật không do ai dạy bảo.
Tuy mỗi một niệm đều nối nhau diệt mất, nhưng [thật có]
trước đói, sau no. Cho nên phải biết rằng, [việc trước
việc sau] chẳng phải tương tự; nếu là tương tự thì lẽ
ra chẳng sanh khác biệt. Chúng sanh tu tập đạo pháp cũng giống
như vậy; ban đầu chưa có sự tăng trưởng, nhưng nhờ tu
lâu mà có thể phá trừ tất cả phiền não!”
(trang
496, tập V)
Đến đây, nếu đọc kỹ kinh văn để nhận biết được về một dòng tâm thức tương tục không dứt đoạn như lời Phật dạy thì xem như chúng ta đã có thể nhận hiểu được phần nào về ý nghĩa thật sự của vấn đề sống chết, nhưng những thắc mắc sâu xa hơn có thể nảy sanh. Nếu sự tồn tại hiện nay của mỗi chúng sanh chỉ là sự giả hợp của năm ấm và khi năm ấm đó tan rã cũng hoàn toàn không chuyển dịch đến một đời sống khác để tạo thành năm ấm mới thì mối tương quan giữa đời sống cũ và đời sống mới do đâu mà được thiết lập? Còn nếu nói là không có tương quan thì sự tu tập liệu có ý nghĩa gì? Bồ Tát Sư Tử Hống đã nêu lên thắc mắc này trong câu hỏi sau đây:
“Thế
Tôn! Như Phật có dạy: Người đã chứng quả Tu-đà-hoàn
rồi, tuy sanh vào cõi nước xấu ác cũng vẫn giữ giới, không
phạm vào những việc giết hại, trộm cắp, dâm loạn, nói
đâm thọc, uống rượu say. Năm ấm của vị Tu-đà-hoàn đã
diệt mất ở cõi này, không đến nơi cõi nước xấu ác kia.
Việc tu tập đạo pháp cũng thế, không hề đến cõi nước
xấu ác kia. Nếu là tương tự, vì sao chẳng sanh nơi cõi nước
thanh tịnh nhiệm mầu? Nếu năm ấm ở cõi nước xấu ác
kia chẳng phải là năm ấm [trước đây] của vị Tu-đà-hoàn,
vì sao [có được khả năng] không tạo nghiệp ác?”
(trang
497, tập V)
Để giải tỏa sự thắc mắc này, đức Phật dạy:
“Thiện
nam tử! Vị Tu-đà-hoàn tuy sanh nơi cõi nước xấu ác vẫn
không mất đi danh hiệu Tu-đà-hoàn. Vì năm ấm [trước và
sau] không tương tự nên ta mới dẫn trường hợp con nghé
làm ví dụ. Vị Tu-đà-hoàn tuy sanh vào cõi nước xấu ác,
nhưng do có đạo lực nên không tạo các nghiệp ác.”
(trang
497, tập V)
Như vậy, điều mà người tu tập chắc chắn có được chính là “đạo lực”. Tuy chưa đạt được giải thoát nên vẫn phải trôi lăn trong dòng sanh tử luân hồi, như chính vị chứng quả Tu-đà-hoàn kia vẫn phải thọ sanh về cảnh giới xấu ác, nhưng nhờ có sự chuyên cần tu tập mà cho dù sanh ra bất cứ nơi đâu cũng có được phần “đạo lực” để nhờ đó sẽ ngăn ngừa được nghiệp ác và tiếp tục tu tiến. Vì thế, tuy chưa chứng được các thánh quả nhưng sự tu tập chân chánh theo lời Phật dạy chắc chắn sẽ luôn giúp ta có được phần vốn liếng quý giá trên con đường hướng đến sự giải thoát. Đức Phật giải thích rõ hơn về việc này:
“Vị Tu-đà-hoàn cũng vậy, tuy sanh nơi cõi nước xấu ác, không tu tập đạo pháp, nhưng do đạo lực [từ trước] nên không hề tạo các nghiệp ác.
“Thiện nam tử! Năm ấm của vị Tu-đà-hoàn thật đã diệt mất ở cõi này; tuy sanh năm ấm khác, nhưng vẫn không mất đi ấm của Tu-đà-hoàn.
“Thiện
nam tử! Như chúng sanh vì muốn được [ăn] quả nên đối
với hạt giống làm đủ mọi điều khó nhọc như bón phân,
chăm sóc, tưới nước... Trong khi chưa được ăn quả, hạt
giống đã diệt mất. Nhưng cũng có thể nói rằng, nhân nơi
hạt giống mà có được quả. Năm ấm của vị Tu-đà-hoàn
cũng vậy.”
(trang
498, tập V)
Đến đây chúng ta có thể tạm thâu tóm phần nội dung giảng giải của đức Phật trong kinh này về dòng sanh tử tương tục của tất cả chúng sanh trong cõi luân hồi. Mặc dù không có bất cứ một yếu tố vật thể hay phi vật thể nào để chúng ta bám víu vào đó như một tự ngã tồn tại độc lập, nhưng dòng tâm thức sanh diệt tiếp nối không dứt đoạn tự nó đã là một thực thể tồn tại khách quan mà trong đó mọi nghiệp quả đều không dứt mất.
“Tuy
biết chúng sanh thật không có tự ngã, nhưng nghiệp quả trong
tương lai không hề dứt mất.”
(trang
290, tập IV)
“Nghiệp quả trong tương lai không hề dứt mất” nên tất cả mọi cảnh giới thiên đàng hay địa ngục đều chính là sự biểu hiện của nghiệp quả ấy, và vì thế không có bất cứ một đấng thần linh ban phước giáng họa nào có thể quyết định được cảnh giới mà chúng ta sẽ thọ sanh. Chính nghiệp quả mà chúng ta đã tạo ra mới giữ phần quyết định điều đó. Ngay cả những người tu tập theo Tịnh độ tông, tuy hết lòng tin tưởng vào nguyện lực tiếp dẫn của đức Phật A-di-đà, nhưng nếu tự thân không có sự tu tập tích lũy nghiệp lành, không thường nhiếp tâm chánh niệm thì biết dựa vào đâu để được vãng sanh?
Và không chỉ là nghiệp quả không hề dứt mất mà mọi nỗ lực tu tập đạo pháp của chúng ta cũng không hề dứt mất và sẽ luôn góp phần tác động trong sự chuyển hướng dòng sanh tử tương tục. Cho dù không hề có một tự ngã tồn tại độc lập, nhưng những khổ đau của kiếp sống luân hồi là một sự thật mà mỗi chúng ta hiện nay đều cảm nhận rất rõ ràng. Vì thế, dù muốn hay không ta cũng không thể phủ nhận được sự cần thiết của việc tu tập đạo pháp để hướng đến giải thoát, và nền tảng của một sự tu tập chân chánh theo lời Phật dạy chính là phải có được nhận thức chân thật về dòng sanh tử tương tục mà mỗi chúng ta đang bị cuốn trôi không ngừng trong đó.