TỔNG QUAN KINH ĐẠI BÁT NIẾT BÀN
Trong phần Tổng quan này, chúng ta đã cố gắng tìm hiểu cấu trúc tổng thể của kinh Đại Bát Niết-bàn và sau đó điểm qua một số nội dung chính yếu trong kinh. Cụ thể đã có 10 nội dung chính đã được chúng tôi trích dẫn từ kinh văn để tìm hiểu.
Như đã nói ngay từ đầu, tâm nguyện của chúng tôi chỉ là muốn chia sẻ một phần kiến thức hạn hẹp với những Phật tử sơ cơ. Vì thế, điều tất nhiên là phần Tổng quan này không thể xem như đã đề cập hết các nội dung trong kinh, và ngay cả với các nội dung đã đề cập cũng không thể xem là đã nói được đầy đủ. Tuy nhiên, sở dĩ chúng tôi quyết định chọn ra 10 nội dung chính như trên là vì chúng tôi tin rằng đối với những Phật tử sơ cơ thì nắm rõ những nội dung này cũng có thể xem là có được chút vốn liếng ban đầu để cất bước trên con đường tu tập. Hơn nữa, sau khi nắm vững được những nội dung này rồi thì người đọc chắc chắn sẽ có thể tự mình tìm hiểu các nội dung khác, cũng như mở rộng hơn các ý nghĩa nội dung đã được trình bày trong phần này.
Mặt
khác, tuy những gì trình bày trong phần Tổng quan này là dựa
trên sự nhận hiểu chủ quan và hạn hẹp của chúng tôi,
nhưng trong khi biên soạn chúng tôi đã cố gắng chọn và trích
dẫn rất nhiều đoạn kinh văn có liên quan để người đọc
cũng có thể qua đó tự mình nhận hiểu về nội dung đang
được đề cập. Trong hầu hết các trường hợp, những gì
được trình bày ở đây chỉ mang tính gợi ý, và người
đọc qua đó sẽ nhận ra được phần kinh văn nào cần phải
quay lại đọc kỹ hơn nhằm nắm hiểu được nội dung đang
được nói đến.
Điều
cuối cùng chúng tôi muốn nói ở đây là sự khác biệt giữa
việc đọc kinh với việc đọc các loại sách thông thường.
Chúng ta không thể hy vọng chỉ đọc qua một hoặc hai lần
mà có thể nắm hiểu được ý nghĩa trong kinh. Chính vì thế
mà chúng tôi hy vọng phần Tổng quan ngắn gọn này sẽ có
thể được người đọc kinh sử dụng như một bản lược
đồ thuận tiện để có thể mang theo và đọc lại nhiều
lần, nhằm nhắc nhở và ôn lại những ý nghĩa đã học được
trong lúc đọc kinh. Trong trường hợp có những ý nghĩa chưa
thực sự nắm vững, người đọc cũng có thể qua đây để
nhận ra và tìm đến đúng phần kinh văn đó để đọc lại.
Giáo pháp đức Thế Tôn để lại trong kinh này là cả một kho tàng vĩ đại! Chính Bồ Tát Ca-diếp khi được nghe thuyết giảng kinh này đã nói lên một câu hết sức thiết tha, cảm động:
“Bạch
Thế Tôn! Con nay thật sự có thể nhẫn chịu sự lột da mình
làm giấy, chích máu tự thân làm mực, lấy tủy trong xương
mình làm nước, chẻ xương mình làm bút để sao chép kinh
Đại Niết-bàn này. Khi sao chép ra rồi, con sẽ đọc tụng
cho được thông suốt, sau đó sẽ vì người khác mà giảng
rộng nghĩa kinh này.”
(trang
200, tập III)
Theo tinh thần truyền bá kinh điển như thế thì công việc của chúng tôi quả thật quá nhỏ nhoi, không thể so sánh được dù chỉ là trong muôn một, chẳng khác nào như một chú kiến tí hon loay hoay với mẩu bánh mỳ khổng lồ! Mặc dù vậy, chúng tôi vẫn luôn vững tin là mình không cô độc trong công việc này. Như chú kiến tí hon kia chắc chắn rồi sẽ kêu gọi được cả đàn kiến đến chung sức với mình để thực hiện được kỳ tích là cùng nhau xê dịch mẩu bánh khổng lồ. Chúng tôi cũng luôn hy vọng rằng, tuy việc chuyển dịch, chú giải và lưu hành bản kinh này của chúng tôi hôm nay chỉ như sự loay hoay của chú kiến bé tí kia, nhưng rồi đây chắc chắn sẽ có thêm nhiều người khác quan tâm đến và góp sức cùng chúng tôi trong việc hoàn thiện bản dịch kinh này. Được như vậy thì kinh điển quý giá này mới thực sự có thể được mọi người Phật tử nhận hiểu một cách đầy đủ và cùng nhau tu tập hành trì, mang đến sự lợi lạc vô biên cho tự thân mỗi người cũng như tất cả mọi người chung quanh.
Trên tinh thần đó, chúng tôi luôn mong đợi mọi ý kiến đóng góp và chỉ dạy để chúng tôi tiếp tục sửa chữa bổ sung cho bản dịch này. Xin quý vị vui lòng liên hệ với chúng tôi qua địa chỉ điện thư: nguyenminh@rongmotamhon.net.
Cuối cùng, chính nhờ có sự gia trì của hồng ân Tam bảo và chư vị Hộ pháp; cũng như rất nhiều đạo hữu, thân hữu đã trực tiếp và gián tiếp tham gia giúp đỡ, hoặc hết lòng khuyến khích động viên chúng tôi trong công việc lớn lao này nên mới tạm có được chút kết quả như hôm nay. Chúng tôi xin đê đầu cảm tạ những ân đức lớn lao đó, và một lần nữa nguyện hồi hướng mọi công đức về cho tất cả chúng sanh trong pháp giới; nguyện cho tất cả chúng sanh đời đời kiếp kiếp luôn được sanh ra trong quốc độ có sự giáo hóa của chư Phật, luôn được làm thiện tri thức của nhau và cùng dắt dìu nhau trên con đường thẳng tới quả vị Vô thượng Bồ-đề.
NAM-MÔ
BỔN SƯ THÍCH-CA MÂU-NI PHẬT
Chú
Thích
[1] Thật ra, những bất hợp lý trong sự phân chia các phần, quyển cũng đã được những người thực hiện bản Đại Chánh tân tu Đại tạng kinh nhận ra, nên họ đã phân chia lại phần này thuộc về quyển 32. Tuy nhiên, như chúng tôi đã xác định từ đầu, sự phân chia quyển và phần chỉ để thuận tiện cho việc in ấn, nên chúng ta chỉ cần lưu ý đến sự phân chia các phẩm mà thôi. Do đó mà chúng tôi vẫn giữ nguyên sự phân quyển theo các bản khắc gỗ trước đây.
[2] Câu này nằm trong kinh văn Tây Tạng, được trích từ bản sớ giải Vimalaprabhā về Kālacakra. Chúng tôi dẫn theo tiến sĩ B. Alan Wallace trong Consciousness at the Crossroads (Snow Lion Publications, Ithaca, New York, 1999), phần dịch sang Anh ngữ của câu này như sau: “Monks, just as the wise accept gold after testing it by heating, cutting, and rubbing it, so are my words to be accepted after examining them, but not out of respect [for me].”
[3] Nguyên văn: “Tùy kỳ phát hành tắc đắc thâm tâm.” (隨其發行則得深心。) Duy-ma-cật sở thuyết kinh, phẩm thứ nhất, Cõi Phật, bản Việt dịch và chú giải của Đoàn Trung Còn và Nguyễn Minh Tiến, NXB Tôn giáo, 2004, trang 52.
[4] Chúng tôi rất ngạc nhiên khi đọc thấy câu chuyện đức Phật hóa độ ông Ca-diếp (Kassapa) được kể lại hoàn toàn khác biệt và thêm vào rất nhiều tình tiết “thú vị, lôi cuốn và hợp lý” hơn dưới mắt những người không tin kinh điển Đại thừa, nhưng không biết là tác giả đã dựa vào đâu. (Xem tại http://hoavouu.com/D_1-2_2-227_4-5643_5-75_6-3_17-278_14-1_15-2/#nl_detail_bookmark) Sau đó chúng tôi đọc thấy những lời tự trần của tác giả như sau:
“Có
những đoạn tôi cho là khó viết, như đoạn Bụt độ ba anh
em ông Ca Diếp. Tài liệu thường nói là Bụt độ ba anh em
đó nhờ thần thông của Ngài nhưng khi viết thì tôi đã không
để cho Bụt dùng thần thông mà cứ để Bụt sử dụng từ
bi và trí tuệ của Ngài để độ ba ông ấy.”
(Xem
tại http://hoavouu.com/D_1-2_2-227_4-5610_5-75_6-3_17-278_14-1_15-2/)
Trong lời tự trần này có mấy điểm chúng tôi không tán đồng. Thứ nhất, là người Phật tử nên chúng tôi không xem kinh điển của Phật là một dạng “tài liệu”. Cách dùng từ này có thể hoàn toàn chính xác đối với các nhà nghiên cứu, các học giả, nhưng đối với tất cả Phật tử thì không ai tu tập theo “tài liệu”, mà chỉ tu tập theo kinh điển, là những văn bản ghi chép lời Phật dạy. Câu chuyện này được chính thức ghi lại trong kinh điển như trên nên không thể nói là theo “tài liệu”. Thứ hai, tác giả “không để cho Bụt dùng thần thông” là một sự lạm quyền của người cầm bút. Tác giả có thể sáng tạo một nhân vật XYZ nào đó và tha hồ “để cho” hoặc “không để cho” nhân vật ấy thực hiện một sự việc; nhưng đức Phật là một nhân vật lịch sử, hơn thế nữa là một bậc thầy được tất cả Phật tử tôn kính noi theo trong sự tu tập thì không ai có quyền hư cấu những sự việc liên quan đến ngài. Ngay khi viết về những nhân vật lịch sử thế tục như Trần Hưng Đạo, Nguyễn Huệ.v.v... cũng chưa thấy ai dám tùy tiện hư cấu hành vi của các nhân vật này theo ý riêng của mình, huống chi là viết về đức Phật?
[5]
Xem thêm bài viết: Uy lực của quy giới (Nguyên Minh) tại:
http://hoavouu.com/D_1-2_2-57_4-19433_15-2/
[6] Bản Việt dịch trích từ sách Tăng đồ nhà Phật, Đoàn Trung Còn và Nguyễn Minh Tiến soạn dịch, NXB Tôn giáo, 2004.
[7] Đại thừa bản sanh tâm địa quán kinh, quyển 1: “Liễu đạt tam giới như hỏa trạch, bát khổ sung mãn nan khả xuất - 了達三界如火宅 八苦充滿難可出 (Rõ biết Ba cõi như căn nhà đang cháy, [trong đó] chất chứa đầy tám nỗi khổ, thật khó ra khỏi.)
[8]
Chúng tôi tình cờ đọc câu chuyện này được kể lại trong
một bài đăng trên mạng Internet, toàn văn như sau:
“Một
hôm nọ, trong khi Bụt và một số các thầy đi khất thực
trên con đường quen thuộc dẫn về thủ đô, đại đức Ananda
nhác thấy bóng một con voi lớn từ chuồng voi hoàng gia xổng
ra và đang chạy về phía mình. Đại đức hoảng kinh. Con voi
này ai cũng đã nghe tiếng. Đó là con voi dữ nhất trong vương
quốc. Nó tên là Nalagiri. Tại sao người ta lại để cho Nalagiri
xổng chuồng ra như thế. Vừa lúc đó những người đi đường
cũng đã nhận ra sự nguy hiểm. Họ hô hoán lên và cùng nhau
chạy núp ở hai bên vệ đường. Dân chúng hai bên đường
phố đều đã trông thấy con voi Nalagira. Con voi đưa vòi lên
cao, đuôi và hai tai thẳng đứng dậy, nó nhắm phía Bụt và
các vị khất sĩ mà chạy tới. Thấy tình trạng nguy hiểm
quá, Ananda vội nắm tay Bụt và đẩy người về phía vệ
đường, nhưng Bụt không theo Ananda, người đứng yên tại
chỗ, một số các vị khất sĩ núp sau lưng Bụt, một số
khác chạy tứ tán tìm chỗ núp hai bên vệ đường. Dân chúng
hai bên đường phố la hoảng lên. Mọi người nín thở, Ananda
vừa bước lên định đứng chận trước mặt Bụt thì bỗng
nghe Bụt hú lên một tiếng lớn và dài. Tiếng rú vọng lên,
nghiêm trang và oai vệ. Đây là tiếng hú của con voi chúa trong
rừng Rakkhita ở Parileyyaka. Bụt đã an cư một mình trong rừng
này, và trong thời gian ấy người đã học được tiếng hú
của con voi chúa thường đem bầy voi con tới uống nước bên
bờ suối. Voi Nalagiri đã xông tới chỉ còn cách Bụt chừng
mươi bước. Nghe tiếng hú vang dội, nó tự nhiên khựng lại.
Lập tức nó khuỵu hai chân trước xuống, rồi khuỵu luôn
hai chân sau, vòi nó hạ thấp xuống sát đất. Hai tai nó cụp
xuống, đuôi nó cũng vậy.”
Câu
chuyện con voi Hộ Tài được cố ý thả ra để làm hại Phật
được kể lại hoàn toàn khác biệt nhưng không thấy nói
là đã dựa theo những kinh điển nào! Quý vị có thể kiểm
chứng bài viết này tại địa chỉ: http://hoavouu.com/D_1-2_2-227_4-5699_5-75_6-3_17-278_14-1_15-2/#nl_detail_bookmark.
[9] Tứ diệu đế, Đạt-lai Lạt-ma XIV, bản Việt dịch của Võ Quang Nhân, NXB Tôn giáo, 2006, các trang 132, 134.