Đáp:
Mua
chim
về rồi tụng kinh để phóng sanh, mà nhiều con đã bị
chết. Việc làm này không đúng, phóng sanh không có ý để
mua; tức là gặp chỗ nào thì mua phóng sanh chỗ ấy liền.
Chứ không đến chỗ bán chim để mua, người ta đem vào chùa
bán cũng không được mua.
Người ta đem chim vào chùa bán mà mình mua để phóng sanh, là mình mướn người ta đi bắt chim. Chứ không phải phóng sanh.
Nếu mua chim về để bán thì bị tội nhân quả. Vì họ mua bán sinh mạng để kiếm lời, dù chim không bị chết nhưng nó cũng đau khổ, vì vậy người bán chim phải bị nhân quả.
Hỏi:
Những
đứa
con ngỗ nghịch bất hiếu, có phải cha mẹ bị mắc
nợ ở kiếp trước không?
Đáp:
Cũng
có
người sanh 2 đứa con, người con có hiếu thì đến trả
nợ, người con bất hiếu thì đến đòi nợ.
Hỏi:
Tự
tánh
vốn sẵn có, sao bộ não xen vào Tự tánh?
Đáp:
Bộ
não
là nghiệp tạo thành, do chủng tử thiện ác kiếp trước
của thức thứ 8 đem theo đầu thai. Vì ngã chấp của thức
thứ 7 khiến cho lục thức lục căn hợp tác nghe theo lệnh
của bộ não. Bộ não là hệ thống thần kinh theo ngã chấp
mà tạo nghiệp nhân thì phải chịu nghiệp quả, chứ không
phải Tự tánh bất nhị không có tương đối. Khi chuyển bát
thức thành tứ trí thì mới hiện Tự tánh bất nhị. Còn
bây giờ Tự tánh bị che khuất, nên lục căn và lục thức
theo lệnh của bộ não.
Hỏi:
Tại
sao
tâm ma ở trong thì khó trị, còn tâm ma ở ngoài thì dễ
trị?
Đáp:
Ở
ngoài
thì không phải tâm ma, tự tâm của mình sanh mới gọi
là tâm ma. Tâm ma ở trong ra thì khó trị, vì mình không biết;
còn tâm ma ở ngoài vô thì dễ trị. Nếu mình giữ được
chánh niệm nên ma không thể có. Thực hành được 9 chữ “vô
sở đắc, vô sở cầu, vô sở sợ” thì ma cũng không đến
được.
Hỏi:
Người
cư
sĩ thọ tam quy ngũ giới có bắt buộc phải ăn chay không?
Đáp:
Nên
ăn
chay, vì giới thứ nhất là cấm sát sanh; nếu không sát
sanh thì sao có thịt để ăn! Có người nói “tôi đi mua thịt
của người ta làm sẵn”. Thí dụ: Người ta làm sẵn 10 con
gà để bán thì phải có người mua, nếu 10 con gà được
bán hết thì ngày mai họ lại làm thêm 12 con, 12 con bán hết
thì bửa sau làm 15 con. Nếu 10 con gà bán không được thì
ngày mai họ phải nghĩ bán, không giết hại nữa. Cho nên người
mua là thúc đẩy cho họ giết thêm. Trong kinh Lăng Già nói:
“Mình dùng tiền bắt họ đi giết”.
Hỏi:
Tại
sao
chúng con ngồi tham thiền bị hôn trầm, trạo cử lắc
lư cựa quậy?
Đáp:
Lúc
bớt
vọng niệm thì tự nhiên sinh lý bị hôn trầm, còn vọng
niệm nhiều thì bì bị trạo cử. Khi hôn trầm phải mở mắt,
mở mắt còn hôn trầm thì lấy nước lạnh rửa mặt. Nếu
rửa mặt mà còn hôn trầm, nên đứng dậy đi kinh hành và
kiếm công việc để làm. Còn vọng niệm nổi lên thì nhắm
mắt lại, hỏi và nhìn liên tiếp.
Hỏi:
Phật
tử
tại gia tham thiền có những giai đoạn thử thách đau
khổ trong cuộc sống, vậy có phải trả nghiệp không?
Đáp:
Có
thử
thách mới gọi là tu, nếu không có thử thách giống
như người ta nhập thất tự nhốt trong phòng, việc ấy không
phải tu, mà lại có hại nữa, vì không có tiếp xúc cảnh
vật bên ngoài. Chuyện đó trong Thiền tông có công án:
Thiền sư ở trên núi một mình, có lần xuống núi gặp đứa bé bị bỏ, rồi đem về núi để nuôi. Nuôi bé được 20 tuổi, ở trên núi chỉ có 2 thầy trò, không có người khác ở. Đứa bé chỉ thấy chim cá cọp beo.
Một hôm, Thiền sư dắt đứa bé xuống chợ. Đứa bé thấy cái này cái kia không biết nên gặp cái nào cũng hỏi thầy.
Bé hỏi thầy: Cái này là gì?
Thầy nói: Cái bình.
Bé hỏi thầy: Cái này là gì?
Thầy nói: Cái tách.
Bé gặp cái nào cũng hỏi, rồi gặp người nữ lại hỏi: Cái này là gì?
Thầy nói: Con cọp chợ. Cọp ở trên núi mày đã biết rồi phải không? Cọp chợ lợi hại hơn cọp ở núi! Đừng có gần nó nghe không?
Bé nghe như vậy thôi. Khi trở về núi thầy mới hỏi bé: Lúc mày xuống núi chơi có thích nhất cái gì không?
Bé nói: Con không thấy cái gì thích, nhưng trong lòng con thích nhất cọp ở chợ.
Từ nhỏ bé đâu gặp cọp chợ, nhưng khi gặp lại thích. Cho nên bé ở trên núi như nhập thất 20 năm, đâu có ích lợi gì!
Hỏi:
Chúng
con
sơ cơ tham thiền chưa rõ cách nhìn. Kính xin Sư Phụ khai
thị?
Đáp:
Vì
không
có chỗ để nhìn, mà tánh con người muốn nhìn thì
phải có cái gì để nhìn; đã không có mục tiêu nhưng cũng
phải nhìn, thành ra mới thấy khó. Tập dần dần như tập
xe máy, ban đầu tập hai tay vịn nhưng cứ ngã, sau này tập
được thì hai tay vịn không ngã, tập được quen mà hai tay
buông cũng không ngã, tập thuần thục lúc quẹo cũng không
cần tay, rồi tập thêm nữa muốn ngừng muốn nhảy cũng được
nữa.
Người ta tập xe một bánh để chạy biểu diễn vẫn được. Nên tập dần dần quen thuộc thì nó tự động sẽ tham thiền được.
Hỏi:
Chúng
con
mới tham thiền học đạo, nhưng lỡ chết đi, chúng con
có gặp lại chánh pháp này không?
Đáp:
Theo
nhân
quả, khi gieo chánh nhân thì sẽ thành chánh quả, tà nhân
thì bị tà quả. Tham Tổ Sư thiền của Phật Thích Ca truyền
dạy là gieo chánh nhân. Giả sử ngày nay tham thiền mà ngày
mai chết, nhưng chánh nhân đã gieo rồi thì kiếp sau tiếp
tục cho đến cuối cùng kiến tánh thành Phật, tại vì nhân
quả rõ ràng.
Câu chuyện con dâu và mẹ chồng:
Mẹ chồng có bệnh đau nhức, con dâu biết châm kim, châm là hết liền, nhưng vài ngày sau đau nhức lại, nên phải châm kim. Cứ vậy mà châm đi châm lại hoài.
Mẹ chồng biết tu, cầu nguyện Quán Thế Aâm, thấy chiêm bao nghe nói: “Vì bà lúc trước châm kim con dâu nhiều lần, nên bây giờ con dâu phải châm kim bà lại, nhưng còn 19 lần châm nữa mới hết”. Mẹ chồng thức dậy chưa đau nhức lại bảo con dâu châm kim 19 lần.
Con dâu nói: Không có đau nhức mà châm làm chi?
Mẹ chồng nói: Kệ cứ châm đi, năn nỉ con dâu.
Con dâu bất đắc dĩ châm 19 lần thì bệnh đau nhức của mẹ chồng từ đó về sau không còn nữa.
Hỏi:
Tại
sao
các Thiền Viện chỉ thờ Phật Thích Ca và các Tổ Ma Ha
Ca Diếp,… mà không thờ các vị Phật khác, như Phật Di Đà,
Phật Quan Thế Aâm,…?
Đáp:
Thiền
Đường
ở Trung Quốc không có thờ Phật gì hết. Ngày xưa
Bá Trượng sáng lập Tòng Lâm không có thờ Phật. Bây giờ
có chùa chỉ thờ Phật Thích Ca, lại có chùa thờ đủ thứ,
nói ra cũng không nói ra hết được. Nhưng Thiền tông không
nói đến việc thờ, nếu nói đến thờ thì không phải Thiền
tông. Thiền tông có chùa là bắt đầu ngài Bá Trượng.
Hỏi:
Phật
Thích
Ca nhập diệt rồi, có phải theo sự sanh tử của người
thế gian để cứu độ họ hay là về ở cõi thiên, không
còn ở cõi này nữa?
Đáp:
Người
hỏi
có đọc Bát Nhã Tâm kinh không? Mỗi ngày ở chùa có
đọc Bát Nhã Tâm kinh ba lần. Bát Nhã Tâm kinh nói: “Vô vô
minh diệc vô vô minh tận, vô lão tử diệc vô lão tử tận”.
Vô lão tử là không có sanh tử, người kiến tánh triệt để
là ngộ không có sanh tử. Người hỏi luôn Bát nhã Tâm kinh
còn không đọc! Tưởng Phật Thích Ca còn ở trong sanh tử
thì thành Phật có ích lợi gì!
Hôm qua nói: “Không phải tu mới thành, chứng mới đắc, tức là đã thành đã đắc rồi”. Thiền tông ngộ vốn không có sanh tử thì liễu thoát được sanh tử, chứ không phải có sanh tử, rồi tu đến thành Phật lại còn ở trong sanh tử nữa!
Hỏi:
Kinh
Pháp
Hoa có từ năm nào? Và do vị nào làm tác giả?
Đáp:
Kinh
Pháp
Hoa là Phật Thích Ca thuyết, nhưng Phật Thích Ca nói trong
kinh Pháp Hoa: “Vị Phật nào cũng đều thuyết kinh Pháp Hoa”,
chứ đâu phải có ai làm tác giả!
Hỏi:
Câu
thoại
đầu chưa khởi niệm là như thế nào?
Đáp:
Nếu
không
có khởi niệm thì làm sao nói như thế nào được! Như
thế nào là đã khởi niệm rồi, mới biết là “như thế
nào”. Còn chưa khởi niệm làm sao biết như thế nào, phải
mâu thuẩn không?
Hỏi:
Chiếu
cố
thoại đầu là gì?
Đáp:
Chiếu
cố
thoại đầu là nhìn chỗ không biết để giữ cho không
biết được kéo dài.
Hỏi:
Có
người
nói: Chỉ cần chăm chú hỏi rõ ràng câu thoại đầu
là được rồi, có được không?
Đáp:
Không
được
chăm chú, không được tập trung tinh thần, không được
cố gắng. Chư Tổ nói “ít phí sức chừng nào thì tốt chừng
nấy”. Tức là chỉ hỏi và nhìn để giữ nghi tình (không
biết), nếu không biết làm sao chăm chú! Chăm chú là đã biết
rồi. Kéo dài nghi tình một chút bằng sợi chỉ cũng được,
chứ không được chăm chú để phí sức.
Hỏi:
Ở
thế
gian muốn học Đại học thì phải tốt nghiệp Trung học
rồi mới đi vào Đại học. Nếu muốn rút ngắn thời gian
thì phải nhảy lớp, nhưng căn bản ở mỗi lớp phải học
qua. Còn đối với pháp xuất thế gian, chúng con tu pháp Tối
thượng thừa thì phải tu từ Tiểu thừa, Trung thừa,
Đại thừa để có thể nắm bắt căn bản của các thừa
trên không?
Đáp:
Giáo
môn
là từ cấp từ cấp mà lên, còn Thiền môn là địa vị
phàm phu tu chứng lên Đẳng Giác, nên không có giai cấp. Giáo
môn thường có 52 cấp: Thập Tín, Thập Trụ, Thập Hạnh,
Thập Hồi Hướng, Thập Địa, gồm có 50 cấp và Đẳng Giác,
Diệu Giác, tổng cộng là 52 cấp.
Kinh Lăng Nghiêm có 57 cấp. Mặc dầu Thiền môn có nói tam quan là “Sơ Quan, Trùng Quan Và Mạc Hậu Lao Quan”, ấy là phương tiện tùy theo căn cơ. Có người không cần phải qua Sơ Quan, Trùng Quan mà thẳng tới Mạc Hậu Lao Quan, chứ không có cấp nào hết.
Hỏi:
Con
là
Phật tử tại gia có quy y thọ 5 giới, con chỉ giữ được
10 ngày ăn chay trong mỗi tháng, không biết như vậy có phạm
giới sát sanh không?
Đáp:
Theo
nhân
quả thì ăn cục thịt phải trả lại cục thịt, giết
1 mạng phải trả 1 mạng. Người Phật tử thọ 5 giới, mà
giới đầu tiên là cấm sát sanh, nếu ăn chay 10 ngày trong
mỗi tháng, còn 20 ngày kia thì sao? Khỏi trả nợ chăng? Để
cho người ta làm sẵn cho ăn sao!
Việc ấy là nhân quả, Phật muốn mình đừng gây ác nhân mà phải bị ác quả. Mình không ăn người ta thì không bị người ta ăn lại. Còn nói “tôi không có giết mà người ta giết sẵn cho tôi ăn”. Hôm qua tôi có thí dụ, người ta giết 10 con gà đem ra chợ bán, nếu bán hết thì ngày mai sẽ giết 12 con, 12 con bán hết thì ngày mốt sẽ giết 15 con. Giả sử 10 con gà không bán được thì họ nghĩ bán, không giết hại nữa. Vì người mua nên thúc đẩy họ giết.
Cho nên kinh Lăng Già nói: “Người dùng tiền mua thịt ăn, tức là dùng tiền để sát sanh thì cũng phải trả quả”.
Hỏi:
Chúng
sanh
do nghiệp mà có, rồi chừng nào mới hết nghiệp?
Đáp:
Kiến
tánh
triệt để mới hết nghiệp. Cho nên, chư Phật chư Tổ
muốn mình kiến tánh triệt để. Vì nghiệp là ở trong mở
mắt chiêm bao, kiến tánh triệt để là ở trong mở mắt chiêm
bao được thức tỉnh, nhân quả và nghiệp ở trong chiêm bao
đều chấm dứt. Vì nhảy ra ngoài chiêm bao thì không dính
líu với chiêm bao nữa.
Nếu chưa giác ngộ triệt để thì còn dính líu trong chiêm bao, nên đầu thai thành con heo, con bò,… mà không có biết!
Như nhắm mắt chiêm bao mà tạo tội, bị chánh phủ chiêm bao bắt rồi tuyên bố tử hình; trong nhắm mắt chiêm bao phát tài thấy rất mừng, thức dậy tìm lại những việc trên không có. Nên chư Phật chư Tổ cần mình thức tỉnh ở trong mở mắt chiêm bao. Hiện nay mình ở trong mở mắt chiêm bao. Tôi đang giảng và các vị đang nghe cũng ở trong mở mắt chiêm bao.
Nhắm mắt chiêm bao là một thức biến hiện, còn mở mắt chiêm bao là đồng thời 2 thức biến hiện đều là do tâm tạo. Tâm tạo thì không phải thật, không phải thật nên nói là chiêm bao.
Hỏi:
Tự
tánh
cùng khắp, sao có bộ não?
Đáp:
Bộ
não
không phải Tự tánh, vì bộ não là vật chất, còn Tự
tánh không phải vật chất. Bộ não có lục căn là hệ thống
thần kinh đều là vật chất, nếu dùng kính hiển vi thì thấy
được. Bộ não gồm 3 bộ phận (tìm hiểu, suy nghĩ, ghi nhớ).
Bộ phận ghi nhớ, nhà khoa học bắt chước chế ra máy vi
tính. Bộ phận tìm hiểu và suy nghĩ cũng có nhà khoa học
tuyên bố vài năm sẽ ra đời, họ cũng bắt chước chế tạo
ra được, vì nó thuộc về vật chất.
Tự tánh chẳng phải vật chất nên không thể bắt chước chế tạo được. Ở trong Vũ Trụ Quan Thế Kỷ 21, tôi có giải thích từng căn từng thức.
Hỏi:
Vay
trả
nhân quả không biết chừng nào mới hết nhân quả?
Đáp:
Kiến
tánh
triệt để thì hết nhân quả, vì nhân quả ở trong mở
mắt chiêm bao. Kiến tánh là ra ngoài chiêm bao thì hết nhân
quả. Chư Phật chư Tổ muốn mình ngộ triệt để. Nghĩa chữ
“Phật” là giác ngộ. Bất cứ nghiệp chướng nặng cách
mấy khi được giác ngộ là xong.
Hỏi:
Người
tu
Tịnh Độ có “tín, nguyện, hạnh” kiên cố, tuy hiện
thời chưa được nhất tâm hay vào cảnh giới niệm Phật
tam muội, giờ phút lâm chung giữ được chánh niệm thì được
chư Phật, chư Bồ Tát hiện thân tiếp dẫn nên được vãng
sanh, mà trong kinh gọi là “đới nghiệp vãng sanh”. Vậy
người tu thiền chỉ cần phá được nghi tình của câu thoại
đầu thì kiến tánh thành Phật, nhưng thực hành đến lúc
lâm chung vẫn chưa kiến tánh, rồi chết sanh về đâu?
Đáp:
Người
hỏi,
Tịnh Độ không biết, Tổ Sư thiền cũng không biết.
Phật dạy các pháp môn để tu, căn bản là thiền. Tu Tịnh
Độ có 3 cách tu đều là thiền: Thật tướng niệm Phật
là thiền, gần giống như Tổ Sư thiền; Quán tưởng niệm
Phật là thiền quán gồm có 16 pháp thiền quán, ghi trong kinh
Quán Vô lượng Thọ; Trì danh niệm Phật cũng là thiền, niệm
đến nhất tâm bất loạn là thiền định.
Tịnh Độ có 3 cuốn kinh: Kinh Vô Lượng Thọ, Quán Vô Lượng Thọ và kinh Di Đà. Tại người hỏi không biết Tịnh Độ là như thế nào? tưởng thiền không phải Tịnh Độ.
“Tín, nguyện, hạnh”, người đó không hiểu rõ. Quyết định vãng sanh là do cái nguyện, niệm Phật là phẩm vị cao thấp. Nhưng phải có nguyện thì niệm Phật mới có phẩm vị. Nếu cái nguyện không đúng thì niệm Phật cũng có thể lọt vào ngoại đạo.
Có người cho tụng kinh là Tịnh Độ thì không đúng. Tụng kinh là thiền quán tưởng của giáo môn, tức là vừa tụng vừa quán tưởng.
Thật tướng niệm Phật là thiền không cần vãng sanh, tức là tâm tịnh Phật độ tịnh.
Nếu đúng “tín, nguyện, hạnh” khỏi 10 niệm mà chỉ 1 niệm cũng được vãng sanh. Nếu không đúng “tín, nguyện, hạnh” thì muôn triệu ngàn niệm cũng không được vãng sanh.
Thí dụ: Nguyện của Phật Di Đà như tổng đài phát ra làn sóng rất mạnh, mình có radio nhỏ ở bất cứ nơi đâu đều thâu được, nhưng phải vặn đúng làn sóng của tổng đài, làn sóng đó tương ưng mới được.
Cũng như cái nguyện của người tu Tịnh Độ với cái nguyện của Phật Di Đà phải tương ưng thì người niệm Phật mới được vãng sanh. Nếu mình vặn làn sóng xê xích một chút cũng không được. Nhưng người hỏi ấy còn cách xa biết bao nhiêu dặm! Làm sao vãng sanh được?
Nguyện có 2 thứ: Đại nguyện và tiểu nguyện. Nếu phát tiểu nguyện thì nghịch với nhân quả không được vãng sanh. Còn phát đại nguyện thì thực hành đại nguyện của mình phát, nếu miệng phát nguyện và cũng nhớ cái nguyện của mình, tức là miệng nói tâm nghĩ mà không có thực hành thì thành nguyện suông nguyện giả, làm sao được vãng sanh?
Như mình mở trương mục ngân hàng, không có tiền mà lại thiếu nợ rất nhiều, không đủ trả. Như mình từ hồi nhỏ đến bây giờ nghĩ lại có giết con muỗi, con kiến nào không? Có ăn thịt heo, gà, vịt không? Một bửa cơm ăn mấy chục con cá, con tép,… như ăn 10 con thì phải đầu thai 10 lần để cho người ta ăn lại.
Đâu phải chỉ niệm Phật là được vãng sanh ư! Được đới nghiệp vãng sanh giống như ký ngân phiếu, tức là bây giờ không có tiền trả, nhưng hẹn lại 10, 20, 30 năm sau.
Còn
đại nguyện của người tu Tịnh Độ là sau khi được vãng
sanh thì nhất định thành Phật, sau đó mới trả. Nhưng mình
phát đại nguyện là muốn độ hết tất cả chúng sanh, mà
lại giết hại chúng sanh, làm sao được đới nghiệp vãng
sanh? Vì đã phát đại nguyện mà lại ăn thịt chúng sanh và
còn giết hại chúng sanh. Đối với chúng sanh cũng không coi
bình đẳng. Như con chó dơ dấy gần mình, mình lại đá nó
đi thì cũng không được.
Mỗi
buổi
chiều các chùa có tụng kinh A Di Đà, trong kinh chú trọng
cái nguyện, nói 3, 4 lần cái nguyện ấy là đại nguyện và
thực hành đại nguyện.
Lúc trước, tôi chưa hoằng Thiền tông, tôi hoằng Tịnh Độ được mười mấy năm, mà chưa gặp người nào tu đúng tông chỉ Tịnh Độ, lúc đó tôi ở chùa Từ Aân Chợ Lớn, duy nhất chỉ gặp một người tu đúng tông chỉ Tịnh Độ, y thông suốt giáo lý, cũng biết phát đại nguyện nhưng thiếu một điều là không thực hành đại nguyện của mình phát. Còn nhiều người nói “tín, nguyện, hạnh” cũng không đúng.
Ban đầu, ông đến chùa Từ Aân muốn vấn nạn tôi, bài xích thiền. Rồi tôi giảng tông chỉ Tịnh Độ, ông ấy phát hiện mình không thực hành đại nguyện, mới biết mình nguyện suông nguyện giả. Như ký ngân phiếu giả thì bị chính phủ bắt, còn có tội thì làm sao có công đức để được vãng sanh?
Ông đó là chủ tiệm vàng Mỹ Nữ ở Thị Nghè, lúc nghe tôi giảng thì y mới phục. Rồi lấy ra 2.000 đồng cúng dường tôi, khi ấy đất nước mới giải phóng và còn hứa sau này tôi làm Phật sự sẽ ủng hộ thêm. Khi đả Thiền thất ở chùa Sùng Đức, cần tu sửa nhà vệ sinh thì y đem 50.000 đồng để tu sửa. Y cũng dự Thiền thất không tu Tịnh Độ chuyển sang tu thiền.
Phật dạy 84.000 pháp môn đều có thiền, cho đến ngoại đạo, tà ma muốn tu cũng phải có thiền, vì có thiền mới tu được. Nhưng những người chấp lại không biết, chỉ biết bài xích thiền, không biết mình đang tu thiền.
Kinh Quán Vô Lượng Thọ có 16 pháp thiền quán. Tại sao người tu Tịnh Độ mà không biết? Chùa nào mỗi ngày đều tụng tiểu A Di Đà.
Người không tin tự tâm, không tin Tổ Sư thiền mà lại bỏ thiền Tịnh Độ vì người ấy không biết. Nếu họ được vãng sanh cực lạc thì Phật A Di Đà mới dạy tu Tổ Sư thiền là từ nghi đến ngộ. Nhưng mình tin Tổ Sư thiền là bắt đầu tham thiền ở cõi này.
Pháp thế gian và xuất thế gian đều từ nghi đến ngộ. Vì nghĩa chữ “Phật” là ngộ, muốn ngộ thì phải nghi. Nhà khoa học cũng vậy, như Newton thấy trái bôm trên cây rơi xuống đất mà lại nghi sao không rơi trên trời? Sau này ông được ngộ sức hấp dẫn lực của trái đất, vì ông dùng bộ não đi nghiên cứu nên gọi là hồ nghi.
Tổ Sư thiền không cho dùng bộ não đi tìm hiểu, lại còn chấm dứt cái tìm hiểu, nghịch lại hồ nghi trên nên gọi là chánh nghi. Chánh nghi thì ngộ được chân tâm của mình.
Hồ nghi thì ngộ pháp thế gian, có giá trị ở thế gian nhưng không ngộ được bản tâm. Nên không giải thoát, không được tự do tự tại. Như có nhiều tiền nhưng chết rồi tiền cũng không mang theo được.
Hỏi:
Như
Sư
Phụ nói “trước đây Sư Phụ hoằng dương Tịnh Độ
mười mấy năm”, vậy sao Sư Phụ giờ đây chuyển sang tham
thoại đầu?
Đáp:
Vì
tôi
hoằng dương Tịnh Độ chưa gặp người nào tu đúng tông
chỉ Tịnh Độ, nên tôi mới hoằng dương Tổ Sư thiền, không
bao lâu có kết quả người hạ căn chuyển sang người thượng
căn.
Ngài Bác Sơn nói: “Mạt pháp có thể chuyển thành chánh pháp, hạ căn có thể chuyển thành thượng căn”. Mạt pháp chuyển thành chánh pháp thì tôi chưa chứng tỏ được, còn hạ căn chuyển thành thượng căn thì tôi chứng tỏ được.
Tại sao? Vào năm 1980 có một số người theo tôi tham thiền được 2 năm. Những người này chưa tham thiền coi kinh không hiểu, khi tham thiền tức là không học giáo lý Phật pháp, thì mở được trí huệ thông suốt kinh điển mà không cần ghi nhớ. Còn những người học Phật học đến Cao đẳng phải mất qua thời gian khoảng 15 năm học để ghi nhớ mới có trí huệ.
Những người được trí huệ ghi nhớ thì phải quên, nên hỏi cái nào còn nhớ thì mới trả lời được, cái nào quên thì không trả lời được. Còn hỏi những người tham thiền được trí huệ thì cũng trả lời được, mà những người đó chỉ có 1, 2 năm hay nửa năm tham thiền. Cho nên, chứng tỏ hạ căn chuyển thành thượng căn.
Hỏi:
Lúc
mới
tham thiền, vọng tưởng nhiều mà nghi tình mạnh nên
con dụng công liên tục; còn bây giờ các vọng tưởng lắng
dịu, tâm con được thanh tịnh. Vậy sự dụng công không còn
như trước, thường hay bị gián đoạn; con biết những căn
bản phiền não vẫn còn nằm sâu trong tàng thức chưa trừ
diệt hết. Vậy làm cách nào để cho sự dụng công được
liên tục?
Đáp:
Vị
này
không phải vì sanh tử, chỉ vì hứng thú mà tu, khi hết
hứng thú thì hết tham. Nên ngài Hư Vân nói: “Năm đầu sơ
tham, năm thứ nhì lão tham, năm thứ ba hết hứng thú thì không
tham”. Ban đầu hứng thú thì công phu mãnh liệt, sau này hứng
thú bớt dần, đến năm thứ 3 cũng nghĩ tham luôn.
Còn vì giải thoát sanh tử, khi nào giải quyết được sanh tử thì mới hết tham, tức là kiến tánh triệt để rồi mới xong việc. Việc này hứng thú thấy người ta tham thiền, bắt chước tham thiền; như thấy người ta mặc đồ đẹp, cũng bắt chước may một bộ đồ để mặc để có như thiên hạ.
Hỏi:
Làm
sao
biết được mình đã kiến tánh?
Đáp:
Người
kiến
tánh thì tự biết hay có thầy ấn chứng còn gọi là
truyền tâm ấn. Không có thầy ấn chứng thì dùng kinh Đại
thừa liễu nghĩa để ấn chứng, ngữ lục của Tổ dùng để
ấn chứng cũng được.
Hỏi:
Khi
tham
thoại đầu không được sợ, nhưng con hay sợ, cố gắng
giữ chánh niệm sao không hết sợ?
Đáp:
Nói
“chánh
niệm” nhưng không biết chánh niệm là gì? Lục Tổ
nói trong Pháp Bảo Đàn: “Vô niệm tức là chánh niệm”,
nghĩa là không có niệm nào mới gọi là chánh niệm. Người
này tưởng chánh niệm là cái gì! Tham thoại đầu là không
khởi một niệm nào, mới là chánh niệm.
Vô
niệm,
niệm tức chánh,
Hữu
niệm,
niệm tức tà.
Nổi lên một niệm gọi là nhất niệm vô minh tức là tà. Người hỏi đem tà niệm cho là chánh niệm!
Hỏi:
Nguồn
gốc
Phật giáo là tâm, tức là bản thể của nó là tri, mà
dụng của nó cũng là tri. Tại sao Phật không biết nó?
Đáp:
Nếu
Phật
biết nó thì nó sẽ thành sở tri, nên Phật thành năng
tri. Có năng sở thì không phải chân tâm, vì chân tâm là bất
nhị, nói Tự tánh bất nhị mà ai cũng biết. Nếu có năng
sở là nhị, vì Tự tánh không phải sở tri, nên không có
năng tri nào để tri nó. Nó tri là tự nó tri, thể cũng là
tri, dụng cũng là tri, mà cái tri đó trống rỗng không có
bản thể.
Cho nên dung nạp tất cả, gọi là không. Nhưng không này chẳng phải cái không chết, mà có cái tri. Tri mà có cái không để dùng, nên không cũng là nó, không này là chánh giác gọi là Diệu Giác cao nhất.
Hỏi:
Ngài
Long
Thọ Bồ Tát biết được tâm và dụng của tâm không?
Đáp:
Phật
Thích
Ca chứng quả là ngộ được bản tâm và ngài Long Thọ
cũng vậy. Vì tâm không có bản thể, nên Ngài nói: “Tâm
như hư không vô sở hữu”, tức là không có hư không mà
dung nạp tất cả vật. Như bây giờ mình thấy rõ ràng nhà
cửa, đất đai, cây cối, thấy bất cứ cái gì đều phải
nhờ cái “vô sở hữu” này dung nạp và ứng dụng.
Bây giờ tôi đang giảng và các vị đang nghe, nếu không có không gian vô sở hữu này thì quý vị làm sao nghe được, tất cả quý vị nhìn thấy tôi, tôi nhìn thấy quý vị cũng đều nhờ vô sở hữu này, tức là không gian trống rỗng. Phật pháp gọi là Tánh không, Tánh không thì chẳng có gì nên gọi là vô sở hữu.
Như chỗ ngồi của quý vị đều có vô sở hữu, nên mới ngồi được. Cuộc sống hằng ngày của mình là ăn cơm, mặc áo, tiếp khách đều nhờ vô sở hữu này, mình ứng dụng hằng ngày mà chẳng tự biết. Lại đi tìm những danh từ, mò đoán bậy bạ.
Phật pháp là thực dụng cuộc sống hằng ngày của mình. Nếu lìa cuộc sống hằng ngày, làm sao có Phật pháp? Nên Lục Tổ nói: “Phật pháp ở thế gian, chẳng lìa thế gian mà giác ngộ”.
Hỏi:
Nếu
kiến
tánh thành Phật thì mình biết được tâm và dụng của
nó không?
Đáp:
Nếu
kiến
tánh triệt để thì cái dụng đó là cái dụng bát nhã,
dụng bát nhã là automatic, không qua bộ óc, nhưng làm xong công
việc của bộ não.
Thí dụ cảm giác lớp da khắp không gian và thời gian cơ thể, vì khắp không gian thì tự nhiên khắp thời gian, tại không gian và thời gian không thể lìa nhau được.
Có người cho là nó tiếp xúc nó mới biết, còn không tiếp xúc thì nó không biết, nhiều người tưởng như vậy. Nhưng sự thật có tiếp xúc nó cũng biết, không tiếp xúc nó cũng biết; tiếp xúc đau nó biết đau, tiếp xúc ngứa nó biết ngứa, không tiếp xúc nó cũng biết không tiếp xúc. Nếu không tiếp xúc nó không biết làm sao nó biết không tiếp xúc? Tiếp xúc cơ thể ở chỗ nào nó cũng biết, chứ không phải tiếp xúc tay thì tay mới biết, tiếp xúc đầu thì đầu mới biết! Vì nó cùng khắp.
Ngày đêm nó tiếp xúc không gián đoạn, tức là khắp thời gian. Như lúc mình ngủ mê bị muỗi cắn, tay tự động gãi chỗ đó, vì cảm giác của lớp da ngày đêm làm việc không ngưng; khắp không gian cơ thể thì chỗ nào trên cơ thể đều có cảm giác, chỗ nào tiếp xúc thì nó biết có tiếp xúc, chỗ nào không tiếp xúc thì nó biết không tiếp xúc là chứng tỏ khắp không gian.
Cái biết của bộ não thì không cùng khắp không gian, không cùng khắp thời gian, vì nó bị hạn chế.
Mặc dầu, mình chưa kiến tánh, nhưng cái chơn tâm cùng khắp không gian và thời gian. Vì nó bị che khuất nên bị hạn chế cái dụng. Khi nào kiến tánh triệt để thì dẹp hết che khuất cái biết và không biết của bộ não, mới hiện ra cái biết khắp không gian và thời gian.
Hỏi:
Hỏi
câu
thoại và nhìn vào một niệm chưa sanh khởi, không biết
là cái gì, nhìn mãi không thấy gì vẫn còn không biết. Như
vậy có đúng không?
Đáp:
Không
biết
là đúng rồi, nhưng đến thật không biết thì “không
biết” cũng không biết.
Hỏi:
Tự
tâm
và tánh có khác không?
Đáp:
Tánh
chấp
ngã cũng là tánh, còn “Tự tánh” có 2 nghĩa:
Tự tánh của thế gian thì việc nào cũng có Tự tánh.
Tự tánh của chân tâm là bất nhị.
Tự tánh thế gian, như nói ông này có tánh bỏn sẻn, tánh tham,… là tự tánh của người đó.
Tự tánh của chân tâm thì khác, không có tương đối là bất nhị.
Hỏi:
Phật
Thích
Ca đưa cành hoa lên, thấy Ma Ha Ca Diếp miệng mỉm cười,
Phật tuyên bố: “Ta có chánh pháp nhãn tạng, Niết bàn, Diệu
tâm, Thật tướng, Vô tướng. Nay ta trao truyền cho ngươi”.
Vậy Ma Ha Ca Diếp được thọ ký tâm ấn tâm là gì? Làm sao
có được?
Đáp:
Ấn
là
con dấu, người được ấn tâm là để chứng minh. Như
bây giờ các tiệm và các cơ quan ký tên còn có đóng dấu,
con dấu là để người ta tăng cường lòng tin. Aán chứng
là thầy chứng minh trò đã ngộ rồi, còn gọi là truyền
tâm ấn.
Thiền tông cần ngộ, không cần hiểu, ngộ thì tự biết. Nếu tìm hiểu thì không phải ngộ. Đầu tiên Phật đưa cành hoa trong hội cả triệu người, chỉ có một mình Ma Ha Ca Diếp mỉm cười, Phật ấn chứng cho Ma Ha Ca Diếp được ngộ.
Hỏi:
Trải
qua
bao nhiêu năm tu tập, con thấy có người hiển bày cái
dụng của Tự tánh, tạp niệm càng bớt thì cái dụng càng
rộng, tạp niệm là tà nên niệm khởi lên làm mất chánh
niệm. Như vậy có đúng không?
Đáp:
Không
phải
vậy, chánh niệm là không có niệm; không phải có cái
niệm mới gọi là chánh niệm. Lục Tổ nói: “Vô niệm, niệm
là chánh”, tức là không có niệm mới gọi là chánh. Lại
nói: “Hữu niệm, niệm là tà”, tức là bất cứ có niệm
gì đều là tà. Dẫu cho niệm Phật nhưng đối với Thiền
tông cũng cho là tà. Vì có niệm là tà.
Hỏi:
Hành
giả
tu đã lâu, tại sao tập khí không dứt bỏ được, thậm
chí bản thân của mình không biết đó là sai, trái lại phải
làm cho bao người khác phải khổ lụy?
Đáp:
Vì
đó
là do tập khí sâu nặng khó sửa. Như Lục Tổ là người
thượng căn thượng trí, đã kiến tánh triệt để làm Tổ
rồi, cũng phải trải qua 15 năm để dứt trừ tập khí, huống
là mình không bằng Lục Tổ. Cho nên, tập khí không phải
dễ mà dứt! Nhưng chỉ cần kiến tánh thì tập khí dần dần
sẽ hết.
Hỏi:
Nếu
một
người đã tạo nghiệp ác ở quá khứ, nhưng giờ đây
đã biết ăn năn sám hối, phát tâm đại nguyện làm các việc
lành như: Phóng sanh, giúp các vị xuất gia tu học, tu sửa
chùa, ấn tống kinh, đắp đường lộ. Như vậy có tiêu được
nghiệp quá khứ không?
Đáp:
Nhân
quả
không có trừ với nhau được. Nhân thiện thì được
phước báo, nhân ác thì bị khổ báo, không thể lấy nhân
thiện để trừ nhân ác được. Muốn sửa lại thì tâm
lực phải mạnh mới sửa được.
Như người làm thiện thì được giàu sang, nếu họ có làm ác cũng bị khổ báo, như bệnh nặng hay bị tai nạn gì đó, cũng phải chịu, chứ không lấy thiện mà trừ cái ác.
Hỏi:
Người
quen
cho con một món quà hay một món tiền, mà con không dùng
lại cho một người bạn. Vậy theo luật nhân quả thì con
phải trả hay người bạn con trả?
Đáp:
Người
ta
cho tiền không phải nợ, mình giựt đồ người ta hay mượn
mà không trả mới là nợ. Theo luật tự nhiên, như bố thí
thì người nhận sau này có dịp họ sẽ bố thí lại tức
là trả. Việc này gọi là duyên, Phật giáo gọi là kết duyên
hay gieo duyên, nghĩa là giúp đỡ lẫn nhau, cũng thuộc về
nhân quả.
Như mình ăn cục thịt phải trả cục thịt, giết một mạng phải trả một mạng vậy. Mình bố thí hay tặng người thì sau này người sẽ bố thí hay tặng lại.
Hỏi:
Tụng
kinh
thấu rõ ý nghĩa của Phật là sao?
Đáp:
Tụng
kinh
là tu, giáo môn tụng kinh là thiền quán, tụng đến đâu
là quán đến đó. Chứ không phải tụng cho Phật nghe.
Hỏi:
Có
người
tu trì danh niệm Phật, phát đại nguyện, mà nhà có
lu nước, con lăng quăng sanh ra muỗi, hoặc trời mưa kiến
ở dưới đất bò lên kéo thành đàng đi ngang qua nhà. Vì
muốn giữ vệ sinh và phòng bệnh, người phát đại nguyện
có nên đổ nước hay lấy dầu đốt kiến, dùng chổi quét
cho kiến ra khỏi nhà không?
Đáp:
Việc
này
không thể nói được hay không được. Tôi đã nói “theo
nhân quả là giết một mạng phải trả một mạng, ăn cục
thịt phải trả cục thịt”, còn người phát đại nguyện
thì không có tội ác nhân, nên không phải đi trả quả thì
mới được vãng sanh. Nếu phát đại nguyện mà không thực
hành đại nguyện là nguyện giả.
Hỏi:
Người
tu
mật tông ở thời Đức Phật Đại Nhật Như Lai. Vậy Đức
Đại Nhật Như Lai là Đức Phật thật hay là biểu trưng chỉ
cho Chơn tâm của người tu Mật tông?
Đáp:
Tất
cả
chúng sanh đều có chơn tâm, vốn cùng khắp không gian
thời gian. Cùng khắp không gian thì không có khứ lai nên gọi
là Như Lai, chứ không phải Đại Nhật Như Lai mới là Như
Lai! Vì Như Lai này bị che khuất, tham thiền là dẹp cái che
khuất thì Như Lai sẽ hiện ra. Còn Mật tông có cách tu của
Mật tông, nhưng bí mật truyền thọ, khác với hiển giáo.
Hỏi:
Người
phát
đại nguyện sanh về Tịnh Độ, nếu giết một con mèo
để cứu một vạn con chuột, thì người ấy có trái với
đại nguyện đã phát ra không?
Đáp:
Trái.
Hỏi:
Hữu
tình
và vô tình đồng thành Phật đạo là như thế nào?
Đáp:
Nếu
hữu
tình thành Phật thì vô tình cũng thành Phật. Sự thật
Phật đã thành sẵn rồi. Phật thí dụ trong kinh Viên Giác
như quặng vàng, vàng thật đã thành sẵn, chỉ là lộn đất
cát tạp chất nên nó không hiện ra, chứ không phải tu mới
thành, chứng mới đắc.
Hỏi:
Người
tu
thiền nói chung, người tham Tổ Sư thiền nói riêng. Nếu
đến lúc lâm chung tu chưa kiến tánh thì có thể biết được
sanh về nơi nào không?
Đáp:
Nếu
người
thật tu Tổ Sư thiền đã được ngộ thì tự nhiên
họ biết, còn các thiền khác như: Tà ma cũng có thiền, Tịnh
Độ cũng có thiền. Thiền là tổng danh. Phàm tu là phải có
thiền, nhưng Tổ Sư thiền khác hơn Như Lai thiền. Tất cả
thiền khác đều dùng cái biết, còn Tổ Sư thiền là dùng
cái không biết.
Hỏi:
Con
mới
tập tu, khi bao chuyện buồn vui hiện ra, khiến con không
giữ được miên mật. Vậy làm sao giữ được nghi tình miên
mật?
Đáp:
Phải
thực
tập “hỏi và nhìn” lâu ngày nghi tình mới miên mật
được.
Hỏi:
Vừa
tu
Tịnh Độ vừa tu Tổ Sư thiền lấy câu thoại đầu là
“Nam mô A Di Đà Phật”, khi chết có được vãng sanh không?
Đáp:
Không
được.
Tu Tịnh Độ phải đúng theo tông chỉ Tịnh Độ mới
được vãng sanh. Còn tham thiền là giữ cái không biết để
dẹp tất cả biết rồi đến thoại đầu mới có hy vọng
kiến tánh. Bây giờ dùng cái biết để niệm Phật, Thiền
cũng không thành, Tịnh Độ cũng không được vãng sanh, hai
cái đều không được kết quả.
Hỏi:
Tạo
si
phước là oan gia đời thứ ba, vậy nghĩa như thế nào?
Đáp:
Tạo
si
phước là đầu thai thành con heo. Nhưng người ta nuôi ăn
no ngủ hoài, không có bị người ta làm thịt.
Hỏi:
“Chỗ
ẩn
thân không tung tích, chỗ tung tích không ẩn thân” là
nghĩa như thế nào?
Đáp:
Công án là để cho người ta ngộ, nếu không ngộ thì không hiểu, giữ không hiểu đó là nghi tình, sau này sẽ được ngộ. Chứ không phải công án là để cho người ta hiểu.
Tham thiền là hỏi câu thoại, chứ không phải tìm hiểu đáp án của câu thoại để hiểu, chỉ khởi lên niệm không biết và giữ niệm không biết gọi là nghi tình. Còn nếu tìm hiểu là sai lầm, tìm hiểu là che khuất chơn tâm, như mây đen che khuất mặt trời. Nếu tìm hiểu như mây đen càng nhiều thêm thì mặt trời làm sao hiện ra được?
Hỏi:
“Vô
sở
đắc, vô sở cầu, vô sở sợ” là như thế nào?
Đáp:
Ấy
là
phá ngã chấp, tại có sở đắc là còn chấp ngã, tức
còn có ta, có sở cầu là còn có ta, có sở sợ là còn có
ta. Nếu “Vô sở đắc, vô sở cầu, vô sở sợ” là phá
được ngã chấp. Không có ta thì không thể tẩu hỏa nhập
ma, có ta nên ma mới nhập được, ta còn không có thì ma nhập
ở đâu?
Hỏi:
Chánh
trí
là gì? Có đồng nghĩa Như Lai không?
Đáp:
Chánh
trí
là trí Bát nhã không có qua bộ óc, diệu dụng của Phật
tánh không qua bộ não. Nhưng nó làm xong công việc của bộ
não mà bộ não làm không được. Dụng của nó là như như.
*
Ngũ pháp:
_
Ngũ
pháp gồm tướng, danh, phân biệt, chánh trí, như như.
Nay lược giải như sau:
1. Tướng: Phàm là vật thể hữu hình mỗi mỗi đều có sự cao thấp, dài ngắn, lớn nhỏ, màu sắc, chất lượng. Luôn cả những khái niệm vô hình như ảo tưởng của sự tưởng tượng dựa theo vật thể hữu hình cũng vậy. Cả hai thứ hữu hình và vô hình đều gọi là “tướng”.
2. Danh: Y theo tướng hữu hình và vô hình mà lập ra tên gọi, gọi là “danh”.
3. Phân biệt: Đối với danh tướng kể trên, trải qua sự tư duy phân tích để nhận thức sự thật giả, tốt xấu, giá trị, chất lượng, thị phi, tà chánh,… gọi là phân biệt.
4. Chánh trí: Trí thức chẳng nhờ tác dụng của bộ não mà do công năng tự động của trí Bát nhã tự hiện, là vốn sẵn có của Diệu giác (bộ não chẳng thể biết được), là có sự thật tồn tại khách quan. Cái trí huệ chẳng cần tác ý của bộ não mà tự hiện này là trí huệ chẳng bị không gian và thời gian hạn chế, gọi là “chánh trí”.
5.
Như như: do nơi chánh trí tự động phát huy, chẳng kể ngày
đêm, cổ kim, luôn luôn như bổn lai thật tế từ vô thỉ
đã sẵn có, chẳng có tương đối, siêu việt biện chứng
của logic, gọi là “như như”.
Gọi chung là Ngũ pháp.
Hỏi:
Kính
xin
Sư Phụ kể lại sự tích con heo ăn bạc hà?
Đáp:
Việc
này
ghi trong tạng kinh là Bồ Tát thị hiện độ heo nên phải
đầu thai heo.
Đại thừa Bồ Tát có:
- Lục
Độ Ba La Mật là có 6 Ba La Mật (bố thí, trì giới, nhẫn
nhục, tinh tấn, thiền định, trí huệ).
-
Tứ Nhiếp Pháp (bố thí, ái ngữ, lợi hành, đồng sự).
Bố thí, ái ngữ, lợi hành thì người có tôn giáo và không có tôn giáo cũng làm được. Nhưng đồng sự thì Bồ Tát của Phật giáo mới làm được, tức là muốn độ người ăn xin thì phải làm người ăn xin để độ người đó.
* Có Tăng chơn tu đi hành cước đến một ngôi chùa nhiều chúng Tăng, trong đó một vị lão tu hành bệnh ghẻ hôi hám, bề ngoài thấy xấu xí, nhiều người ở chùa không ai ưa thích gần, chỉ có Tăng đi hành cước gần gủi giúp đỡ.
Qua thời gian khoảng 3 tháng, Tăng hành cước từ giả đi về kinh thành. Lão tu hành nhờ Tăng hành cước gởi một bức thư giao cho bạc hà ở cửa thành đông.
Tăng hành cước đến thành đông, nghe mấy con nít nói bạc hà. Ông mới hỏi con nít: Bạc hà đâu?
Con nít nói: Bạc hà ở ngay vách tường kia.
Thì ra một con heo già lớn, thường thường người ta nuôi heo một năm là bán thịt, nhưng con heo này thì được mười mấy năm rồi.
Tăng hành cước hỏi con nít: Tại sao mấy đứa gọi con heo này là bạc hà?
Con nít nói: Con heo này chỉ ăn bạc hà thôi.
Tăng lại hỏi: Chủ con heo này là ai?
Con nít mới chỉ chủ con heo là ông Triệu.
Tăng hỏi ông Triệu: Có phải con heo này của ông không?
Ông Triệu trả lời: Phải.
Tăng hỏi: Sao ông nuôi con heo mười mấy năm không bán và không làm thịt?
Ông Triệu nói: Tôi nuôi heo rất nhiều, nhưng heo thường đi mất; khi nuôi bạc hà thì nó kêu mấy con heo kia về, không mất con nào. Cho nên tôi không bán và làm thịt.
Tăng hành cước lấy thư ra coi thì thấy trong thư chỉ có 16 chữ, ý trong đó là “độ chúng sanh xong rồi, mau mau về đi, chớ đừng tiếp tục mà tạo nghiệp”. Ông nghĩ bức thư này là của con heo này, chẳng phải của ai khác. Vì vậy ông đem bức thư đến con heo rồi đưa cho nó. Con heo dùng 2 chân trước chụp bức thư đưa vào miệng nuốt, đứng 2 chân sau mà chết.
Hỏi:
“Nhất
niệm
bất sanh, vạn duyên buông bỏ” là như thế nào?
Đáp:
Câu
này
không phải tu Tổ Sư thiền, vì tu Tổ Sư thiền thì không
buông bỏ, mà chỉ giữ “không biết”. Nếu biết được
bản tâm mình như hư không vô sở hữu thì không có gì để
buông bỏ. Lục Tổ nói “bổn lai vô nhất vật”, tức là
không có vật gì để buông bỏ.
Câu này hơi có mâu thuẩn, nếu không có niệm sanh khởi thì lấy gì để buông bỏ? Nếu có sự buông bỏ thì đã sanh lên một niệm rồi.
Hỏi:
Chấp
thành
bệnh, trước thành ma, kế thành ngoại đạo. Kế có
phải là biến kế sở chấp không?
Đáp:
Trước
cũng
là chấp, kế cũng là chấp, Duy Thức gọi là biến kế
sở chấp.
Hỏi:
Tham
thiền
sợ nhất nhận thức thần làm Phật sự hoặc nhướng
mày chớp mắt, xoay đầu ngó lại cho là có ít nhiều kỳ
đặc. Nếu nhận thức thần làm việc chánh là tôi tớ của
ngoại đạo cũng chẳng được. Vậy có phải không?
Đáp:
Nếu
tham
Tổ Sư thiền thì chỉ hỏi và nhìn là giữ niệm không
biết gọi là nghi tình. Còn biết những cái này là không phải
Tổ sư thiền.
Hỏi:
Thế
nào
là nạp Tăng- núi bạc- vách sắt?
Đáp:
Đây
là
để thí dụ, nếu mình giữ được nghi tình (không biết)
thì cũng như núi bạc vách sắt, các thứ phiền não và các
thứ khác không vô được.
Hỏi:
Trong
Tham
thiền cảnh Ngữ có câu “khẩn, chánh, miên mật, dung
hoát”. Chúng con chưa hiểu, kính xin Sư Phụ khai thị?
Đáp:
Lời
nói
của chư Tổ là phương tiện để đối trị. Như mình
hôn trầm thì phải mở mắt to hay rửa mặt, nếu còn hôn
trầm thì phải đứng dậy đi kinh hành hoặc kiếm việc làm.
Vọng tưởng nhiều phải nhắm mắt lại. Hỏi và nhìn cho khẩn (vừa vừa). Hỏi và nhìn cho đúng gọi là chánh. Nói “chánh niệm” là không có niệm nào khởi lên.
Miên mật là liên tiếp không có kẻ hở, như hỏi câu thoại đầu có kẻ hở thì vọng tưởng từ kẻ hở nổi lên.
Dung hoát là không nghiêng về bên nào, không nghiêng về bên động và cũng không nghiêng về bên tịnh. Ngài Lai Quả nói: “Động cũng không động đến mình, tịnh cũng không tịnh tới mình”, tức là giữ cái không biết thì không lọt vào 2 bên gọi là dung hoát.
Hỏi:
Con
đường
Bồ Tát đạo là gì? Những ai thực hành được con
đường Bồ Tát đạo?
Đáp:
Người
thọ
giới Bồ Tát là học giới Bồ Tát. Bồ Tát tại gia
của người cư sĩ có 6 điều trọng và 28 điều khinh. Bồ
Tát xuất gia có 10 điều trọng và 48 điều khinh, những Bồ
Tát này không phải chứng quả, không phải như Bồ Tát Quán
Thế Aâm.
Không có tham thiền và chưa quy y đều được học đạo Bồ Tát. Thọ 5 giới của cư sĩ, thọ 10 giới của Sa Di và Sa Di Ni, thọ 250 giới của Tỳ Kheo, thọ 348 giới của Tỳ Kheo Ni là tiệm giới. Như muốn thọ 10 giới Sa Di thì phải thọ 5 giới rồi mới được thọ Sa Di.
Giới Bát Quan Trai và giới Bồ Tát gọi là đốn giới, tức là chưa thọ ngũ giới cũng được thọ giới Bồ Tát. Chưa quy Tam bảo cũng được thọ giới Bồ Tát, cũng được thọ Bát Quan Trai, nên mới gọi là đốn giới. Như mỗi lần truyền Bát Quan Trai đều phải tam quy, muốn truyền giới Bồ Tát đều phải qua tam quy. Bất cứ truyền giới gì đều phải qua tam quy. Cho nên chưa quy y đều được thọ giới, tức là trước thọ giới là đã quy y.
Hỏi:
Công
năng
của giới luật làm cách nào để người xuất gia giữ
đúng tất cả giới mà mình đã thọ?
Đáp:
Theo
giáo
môn thì nửa tháng bố tát một lần để kiểm thảo.
Bố tát là hội nghị làm việc, chứ không phải chỉ tụng
giới thôi. Trước khi tụng giới phải kiểm thảo, cũng như
cử ra chủ tịch lâm thời hỏi đại chúng “nửa tháng nay
có ai phạm giới không? Có thì ra sám hối trước đại chúng”,
vì người phạm giới mà sám hối thì được thanh tịnh, nên
người ấy có tư cách được nghe tụng giới. Hỏi 3 lần
mà không có ai lên thì tuyên bố tất cả đại chúng trong
sạch, rồi mới tụng giới.
Mỗi năm kiết hạ rồi giải hạ, có kiểm thảo là kiến, văn, nghi. Như hỏi đại chúng “có ai thấy tôi phạm giới không? Nếu không có. Có ai nghe không? Nếu không thấy không nghe, mà có ai nghi không? (Không biết người ấy có phạm giới hay không phạm giới, gọi là nghi. 3 cái này gọi là kiến, văn, nghi). Nếu có ai thấy xin cử tội tôi trước đại chúng hay là có ai nghe hoặc là có ai nghi thì ra cử tội”. Từng người ra trước đại chúng mà nói như thế, gọi là Tự tứ.
Hồi xưa truyền giới Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni vào ngày bố tát.
Hỏi:
Từ
bi
là gì? Làm sao được tâm từ bi?
Đáp:
Người
ta
thường hiểu lầm từ bi và bác ái giống nhau. Kỳ thật,
bác ái có ngã chấp, từ bi là không có ngã chấp.
Có người Mỹ đến Thiền Đường Từ Aân, y là người đạo Tin Lành cho bác ái và từ bi không khác. Nên tôi mới giải thích cho y hiểu:
Tôi nói: Mình ăn đồ ngon mới tự thấy vui, nếu người khác ăn mình không có cảm thấy vui, phải không?
Ông ấy đáp: Phải.
Tôi nói: Như mình chơi tự mình thấy vui, mình không có chơi mà thấy người khác chơi, mình cũng không thấy vui phải không?
Ông ấy đáp: Phải.
Tôi nói: Nếu mình thấy người ta chơi mà mình không có chơi thì mình cũng vui, thấy người ta ăn mà mình không ăn thì mình cũng vui.
Ông ấy nói: Không có lý này được!
Tôi nói: Chính ông cũng làm được.
Ông ấy nói: Tôi đã nói không làm được, sao nói tôi làm được?
Tôi hỏi: Ông có con ruột không?
Ông ấy đáp: Có.
Tôi hỏi: Con ruột của ông còn nhỏ phải không?
Ông ấy đáp: Phải.
Tôi hỏi: Vậy ông mua đồ ăn cho con ruột ông ăn mà ông không ăn, thấy con ruột ông ăn, vậy ông vui không?
Ông ấy đáp: Vui.
Tôi hỏi: Ông mua đồ chơi cho con ông chơi, mà ông không có chơi, ông thấy con ông chơi, vậy ông có vui không?
Ông ấy đáp: Vui.
Tôi nói: Phải không! Ông cũng làm được mà! Nhưng ông chỉ làm được với con ruột của ông thôi. Còn con của người khác thì ông làm không được. Nếu mình đối với tất cả chúng sanh như con ruột, làm sao có việc giết hại, làm sao có chiến tranh? Tất cả chúng sanh coi như con ruột của mình, nhưng chưa phải là từ bi. Vì còn thấy có đồ của tôi cho nó, đó chỉ là bác ái.
Từ bi lại khác, không có ta từ bi, không có người nhận từ bi của ta, cũng không có tài vật để tôi làm việc từ bi đó, mới gọi là từ bi. Phật giáo gọi là tam luân thể không. Ở trong phẩm Phổ Môn của yếu chỉ kinh Pháp Hoa, tôi có phụ lục.
Hỏi:
Tăng
Ni
và Phật tử chúng con phải thương yêu như thế nào mới
đúng theo lời Phật dạy?
Đáp:
Tăng
thì
phải giữ đúng vai trò của Tăng, Sa Di phải giữ đúng
vai trò của Sa Di, Tỳ Kheo phải giữ đúng vai trò của Tỳ
Kheo, Tỳ Kheo Ni phải giữ đúng vai trò của Tỳ Kheo Ni. Nếu
Sa Di không biết giới luật của Sa Di hay biết mơ hồ thì
làm sao giữ đúng vai trò của Sa Di được? Tỳ Kheo và Tỳ
Kheo Ni cũng vậy.
Người
thế gian thì cha phải giữ đúng vai trò cha, mẹ phải giữ
đúng vai trò mẹ, con cái phải giữ đúng vai trò của con cái,
chồng phải giữ đúng vai trò của chồng, vợ phải giữ vai
trò của vợ.
Tu
sĩ
giữ đúng vai trò của Tu sĩ, chứ không phải tu sĩ cạo
đầu mặc áo cà sa được người cung kính lễ bái, mà không
giữ đúng vai trò của mình. Nên có một bài kệ:
Một hạt gạo của Thí chủ,
Lớn bằng núi tu di.
Nếu không tu giải thoát,
Mang lông đội sừng trả.
Hỏi:
Người
mới
tham thiền thì căn tiếp xúc với trần, đương nhiên
ý thức phân biệt phát sinh làm cho tâm vọng động. Vậy tham
bằng cách nào để cho tâm khỏi giao động?
Đáp:
Nếu
giữ
được không biết thì sao bị giao động? Thấy cái nào
đẹp cũng không biết, làm sao có sự ham thích? Thấy cái nào
xấu cũng không có chê. Giữ được cái không biết thì tự
nhiên tất cả đều không bị giao động. Tức là giữ nghi
tình là được rồi.
Hỏi:
Tại
sao
là “sắc tức thị không, không tức thị sắc”?
Đáp:
Sắc
là
vật chất, không là chẳng phải vật chất. Nếu không
chấp sắc là thật sắc tức là sắc tức là không. Không
chấp cái không là thật không thì không tức là sắc.
Cho nên, ở trong thế lưu bố tưởng không sanh ra trước tưởng, tức là Phật pháp (không chấp thật). Như chấp thật có là bệnh còn nhẹ thì dễ trị, còn chấp thật không là bệnh nặng thì khó trị.
Hỏi:
Sao
có
pháp mà gọi là không pháp?
Đáp:
Nếu
không
có chấp trước thì tất cả pháp thế gian là Phật
pháp, tức có pháp cũng như không có pháp. Nên ăn cơm, mặc
áo đều là pháp, không có cái gì không phải là pháp! Tại
không còn tương đối thì pháp và không pháp không khác, vì
có tương đối nên mới khác.
Hỏi:
Sao
gọi
tu mà vô tu?
Đáp:
Vì
chấp
nên mới có tu, nếu ngộ rồi thì biết là không có
tu. Như thành Phật không phải tu mới thành, chứng quả không
phải chứng mới đắc. Tại vì đã thành sẵn, chứng sẵn.
Như Phật trong kinh Viên Giác dùng quặng vàng để thí dụ.
Vàng thật ở trong quặng đã thành sẵn, chứ không phải luyện
các tạp chất rồi mới thành. Nếu không có vàng sẵn, dù
có luyện cách mấy thì vàng không thể có được. Cho nên
không phải tu mới thành, chứng mới đắc. Vì người ta chấp
nên mới có tu mới thành, chứng mới đắc.