CHÍNH NIỆM - THỰC
TẬP THIỀN QUÁN
Nguyễn Duy Nhiên dịch,
Nguyễn Minh Tiến hiệu đính
Nhà xuất bản: Thanh Hóa 2009
Chương
Mười Hai
Đối trị với sự xao lãng - Phần II
Bây giờ đây, ta đang ngồi thiền thật đẹp. Thân ta bất động và vững chãi,
tâm ta
an vui và tĩnh lặng. Chúng ta nhẹ nhàng chú tâm theo dõi hơi thở của mình, ra,
vào, ra, vào... Tĩnh lặng và an định. Mọi việc đều thật hoàn hảo.
Bỗng dưng có một tư tưởng không biết từ đâu đột ngột khởi lên trong đầu:
“Phải
chi bây giờ mình có được một cây kem thì tuyệt biết mấy!” Đó rõ ràng là một sự
xao lãng. Ta ghi nhận nó, và đem mình trở lại chú tâm vào hơi thở, nhẹ nhàng
theo dõi, ra, vào...
Và rồi: “Mình đã trả tiền nước tháng này chưa nhỉ?” Lại là một sự xao lãng. Ta
lại ghi nhận nó, và mang sự chú ý trở về với hơi thở. Ra, vào, ra, vào... “Cuốn
phim mà mình chờ đợi sẽ ra ngày hôm nay. Chắc là mình sẽ đi coi tối thứ Ba này.
Không, thứ Ba không được, nhưng mà thứ Tư cũng bận lắm. Chắc là phải thứ
Năm...” Lại thêm một sự xao lãng nữa!
Bạn lại kéo mình ra khỏi nó và trở về với hơi thở, nhưng có điều là khi bạn chưa
kịp làm việc ấy thì đã có một giọng nói nhỏ trong đầu: “Ái chà, nhức mỏi
lưng
quá! Chịu không nổi!” Và rồi cứ tiếp tục mãi, hết xao lãng này đến xao lãng
khác, dường như là bất tận...
Thật là bực mình! Nhưng thật ra thiền tập là chỉ có vậy thôi. Những sự xao lãng
đó là vấn đề chính. Chủ yếu là làm sao để đối trị được chúng, học cách ghi nhận
chúng mà không để bị dính mắc. Đó là lý do chúng ta ngồi thiền. Những sự
xao
lãng, lo nghĩ vu vơ ấy rất là phiền toái, nhưng cái tâm bình thường của ta hoạt
động như vậy đó. Đừng bao giờ cho nó là kẻ thù. Nó chỉ đơn giản là một thực tại
của ta. Và nếu như bạn muốn thay đổi bất cứ một điều gì, trước hết bạn phải
thấy được thực chất của nó.
Lần đầu tiên, khi bạn mới ngồi xuống tập trung sự chú ý vào hơi thở, bạn
sẽ nhận
thấy rằng tâm ý của mình lung tung vô cùng. Nó như một con ngựa bất kham, chạy
nhảy khắp nơi. Nó húc đầu này, đá vó đầu kia. Nó rượt đuổi chính nó, chạy theo
một vòng tròn bất tận. Nó nói chuyện không ngừng. Nó suy nghĩ. Nó tưởng tượng
và mơ mộng viển vông. Nhưng bạn đừng bao giờ bực tức vì những chuyện ấy.
Đó
cũng là tự nhiên thôi. Mỗi khi tâm ta xao lãng, không còn chú tâm vào đề
mục
thiền quán, ta chỉ cần quán sát sự xao lãng ấy trong chính niệm.
Trong thiền quán, khi chúng ta nói đến sự xao lãng là nói đến bất kỳ một
vấn đề
nào lôi kéo sự chú ý rời xa hơi thở. Điều này khiến ta có thêm một quy luật mới
rất quan trọng trong sự hành thiền. Đó là, mỗi khi có một trạng thái tâm
thức
nào khởi lên, đủ mạnh để kéo ta ra khỏi đề mục thiền quán, hãy tạm thời chú tâm
vào chính sự xao lãng ấy. Tạm thời dùng sự xao lãng ấy làm đối tượng thiền quán
trong lúc đó. Xin bạn nhớ rõ là chỉ tạm thời. Điều đó rất quan trọng. Tôi không
bao giờ khuyên bạn giữa đường đổi ngựa. Và tôi cũng không khuyên bạn cứ vài ba
giây lại đổi đề mục thiền quán của mình một lần. Hơi thở lúc nào cũng là
đối
tượng tập trung chủ yếu của ta. Bạn chuyển sự chú ý của mình sang sự xao
lãng
chỉ trong thời gian vừa đủ để có thể nhận diện được những đặc tính của nó. Nó
là gì? Nó mạnh đến đâu? Và nó kéo dài đến bao lâu?
Vừa khi bạn có được câu trả lời cho những câu hỏi ấy, không cần bằng lời, là
bạn đã xong việc với nó và có thể đem sự chú ý trở về với hơi thở. Ở đây
cũng
vậy, xin bạn để ý đến cụm từ không cần bằng lời. Những câu hỏi ấy không phải là
sự mời gọi chúng ta “nhiều chuyện” thêm. Vì làm như thế là chúng ta đang
đi
ngược chiều về phía gia tăng sự suy nghĩ. Chúng ta muốn mình bớt lại sự suy
nghĩ. Chúng ta muốn trở về với một kinh nghiệm thuần túy của hơi thở, không cần
ngôn từ, không cần ý niệm. Những câu hỏi ấy là để giúp bạn thoát ra được
sự xao
lãng, thấy được tự tính của nó, chứ không phải để bạn trở nên bị dính mắc hơn.
Chúng có mục đích, chỉ trong một bước, giúp bạn nhận diện được cái gì làm mình
xao lãng và rồi buông bỏ nó - một công mà hai chuyện!
Vấn đề là thế này: Khi một sự xao lãng, hay bất cứ một trạng thái tâm thức nào
khác khởi lên trong tâm, nó xuất hiện trước trong phần tiềm thức của ta.
Và
ngay sau đó, nó mới hiển lộ lên trên phần ý thức. Cái khoảnh khắc sai biệt ấy
rất là quan trọng. Vì chính ngay trong khoảng thời gian tích tắc ấy, sự dính
mắc xảy ra. Sự dính mắc ấy có mặt gần như là tức thì, và nó xảy ra ngay trong
phần tiềm thức của mình. Khi sự dính mắc ấy khởi lên trên phần ý thức, khi ta
bắt đầu nhận diện được, là ta đã bị nó kiềm chế mất rồi! Và chừng ấy, mỗi lúc
ta quán sát nó, ta lại càng bị nó trói chặt vào thêm. Lúc này, thật ra ta không
còn có khả năng quán sát bằng một sự nhận diện đơn thuần nữa, ta chỉ suy
nghĩ
về nó mà thôi. Những việc ấy diễn ra trong một chớp mắt. Và vấn đề nằm ngay ở
chỗ đó. Khi ta có ý thức về một sự xao lãng nào, thì ta đã bị sự xao lãng ấy
kiềm chế mình rồi!
Ba câu hỏi: “Nó là gì? Nó mạnh đến đâu? Và, nó kéo dài bao lâu?” là một phương
thuốc thần diệu để chữa trị cho chứng bệnh này. Muốn trả lời được ba câu
hỏi
đó, ta bắt buộc phải hiểu được tính chất của sự xao lãng ấy một cách sâu
sắc.
Và muốn làm được việc ấy, ta phải tách rời ra khỏi nó, bước lùi lại một bước,
và nhìn một cách khách quan. Chúng ta phải thôi không suy nghĩ cái tư tưởng ấy,
hoặc cảm nhận cái cảm thụ ấy, thì mới có thể quán sát nó một cách khách quan
được. Tiến trình đó chính là một bài thực tập về chính niệm, một ý thức và sự
nhận diện đơn thuần. Năng lực kiềm hãm của sự xao lãng sẽ bị phá vỡ và chính
niệm sẽ được thiết lập trở lại. Và từ đó, chính niệm sẽ nhẹ nhàng trở về
với
đối tượng chính của nó là hơi thở.
Khi bạn mới bắt đầu thực tập phương pháp này, có lẽ bạn sẽ phải nhờ đến ngôn
từ. Bạn đặt câu hỏi thành lời và bạn có câu đáp lại cũng bằng lời. Nhưng
chỉ
sau một thời gian ngắn, bạn sẽ không phải cần đến chúng nữa. Một khi bạn
thực
tập quen rồi, bạn chỉ cần đơn giản ghi nhận sự xao lãng, nhận diện những
đặc
tính của nó, và trở về với hơi thở. Đó là một quá trình không cần ý niệm
và rất
nhanh. Sự xao lãng tự nó có thể là bất cứ một điều gì: một tiếng động, một cảm
giác, một cảm thụ, một mơ tưởng, bất cứ là một điều gì... Nhưng cho dù là gì đi
chăng nữa, ta cũng đừng bao giờ đàn áp nó, đừng cố xua đuổi nó ra khỏi tâm
mình. Việc ấy hoàn toàn không cần thiết. Chỉ cần quán sát nó trong chính
niệm,
bằng một sự nhận diện đơn thuần. Lặng lẽ khảo sát sự xao lãng ấy, rồi tự
nó sẽ
biến mất. Và tự nhiên bạn sẽ thấy sự chú ý tự nhiên nhẹ nhàng trở về với
hơi
thở. Cũng đừng bao giờ tự trách mình vì đã có những xao lãng ấy. Sự xao lãng là
tự nhiên. Chúng đến và chúng đi.
Nhưng cho dù đã có những lời khuyên, rồi bạn vẫn sẽ tự trách mình sau mỗi lần
xao lãng. Và điều đó là tự nhiên. Hãy quán sát cảm giác hối trách ấy như
là một
sự xao lãng khác, và rồi trở lại với hơi thở của mình.
Hãy theo dõi chuỗi tiến trình ấy: Thở. Thở. Một tư tưởng vu vơ khởi lên.
Sự bực
mình khởi lên vì thấy mình suy nghĩ. Tiếp đó, một sự tự trách mình. Bạn trở về
với hơi thở. Thở. Thở. Nó là một chu kỳ rất tự nhiên và nhịp nhàng, nếu bạn
biết thực hành cho đúng. Dĩ nhiên, chìa khóa của vấn đề là sự kiên trì. Nếu bạn
có thể nhận diện những xao lãng này mà không bị dính mắc, mọi việc sẽ trở nên
rất dễ dàng. Bạn sẽ nhẹ nhàng lướt xuyên qua những xao lãng ấy, và trở về với
hơi thở.
Lẽ dĩ nhiên, cũng cùng một sự xao lãng ấy có thể sẽ khởi lên trong giây phút kế
tiếp. Nhưng ta chỉ cần nhận diện nó bằng chính niệm. Nếu đó là một tư tưởng xao
lãng có gốc rễ lâu đời, nó có thể sẽ còn tiếp tục trong một thời gian dài,
nhiều khi là hàng năm. Nhưng đừng bao giờ bực mình. Đó cũng là chuyện tự
nhiên.
Hãy nhận diện sự xao lãng ấy và trở về với hơi thở. Đừng chống cự lại chúng,
chỉ tốn công vô ích mà thôi. Mỗi năng lượng bạn đưa vào sự chống cự sẽ nuôi
dưỡng cho những tư tưởng ấy, và làm cho chúng mạnh thêm. Vì vậy, đừng bao giờ
cố gắng xua đuổi những tư tưởng ấy ra khỏi tâm mình. Bạn sẽ không bao giờ thắng
được trận chiến đó. Chỉ cần quán sát nó bằng chính niệm, và tự nó cuối cùng sẽ
đi mất. Thật kỳ lạ, nhưng bạn càng đơn thuần nhận diện nó bao nhiêu thì nó sẽ
càng trở nên yếu đi bấy nhiêu. Nếu bạn quán sát đủ lâu, và đủ năng lực của
chính niệm, nó sẽ biến mất vĩnh viễn. Còn khi bị chống cự lại, nó sẽ càng mạnh
thêm. Hãy quán sát nó một cách khách quan, nó sẽ héo hon và tàn tạ đi.
Chính niệm là một chức năng có thể tháo gỡ và hoá giải sự xao lãng. Những xao
lãng nho nhỏ có thể được giải trừ chỉ bằng một cái nhìn thoáng qua thôi.
Đem
ánh sáng chính niệm chiếu lên nó, và lập tức nó tan biến ngay, không bao
giờ
trở lại nữa. Còn những ý tưởng có gốc rễ sâu xa, đã trở thành tập quán thói
quen, đòi hỏi ta phải có nhiều kiên trì, dùng chính niệm tinh chuyên quán chiếu
cho đến khi nào sợi dây trói buộc bị đứt tung. Thật ra, sự xao lãng cũng
giống
như một con cọp giấy! Tự nó không có một quyền lực nào hết. Nó phải được
nuôi
dưỡng thường xuyên, nếu không nó sẽ chết. Và khi ta từ chối không nuôi dưỡng nó
bằng sự sợ hãi, sân hận và lòng ham muốn của mình nữa, nó sẽ bị tiêu diệt.
Chính niệm là khía cạnh quan trọng nhất của thiền quán. Nó là yếu tố chủ
yếu mà
ta đang cố gắng trau giồi. Vì vậy, ta không cần phải chống lại sự xao lãng.
Điều quan trọng là có chính niệm về việc gì đang xảy ra chứ không phải kiểm
soát những gì đang xảy ra. Bạn nên nhớ, định lực chỉ là một phương tiện.
Nó là
thứ yếu so với sự nhận diện đơn thuần. Dưới cái nhìn của chính niệm thì không
có một cái gì là xao lãng hết. Bất cứ điều gì khởi lên trong tâm cũng đều được
xem như một cơ hội để giúp ta thực tập chính niệm. Hơi thở được chọn làm
đối
tượng cơ bản giúp ta tập trung tâm ý. Và sự xao lãng là đối tượng thứ hai để giúp
ta chú tâm. Nó cũng có thật và là một phần của thực tại, cũng như hơi thở. Thật
ra, đối tượng chính niệm của ta là gì, việc ấy không quan trọng. Bạn có thể có
chính niệm về hơi thở, hoặc có chính niệm về sự xao lãng của mình. Bạn có thể
có ý thức rõ rằng tâm mình đang an tĩnh và có định lực mạnh mẽ, hoặc thấy rõ
rằng tâm mình đang hỗn độn, rối ren và định lực hoàn toàn suy sụp. Tất cả đều
là chính niệm. Ta chỉ cần tiếp tục duy trì sự chính niệm đó, và cuối cùng định
lực sẽ được phục hồi.
Mục đích của thiền quán không phải là để chú tâm vào hơi thở mãi mãi và không
bị gián đoạn. Đó là một mục tiêu vô cùng vô ích. Mục đích của thiền quán
cũng
không phải để đạt được một tâm hoàn toàn bất động và an tĩnh. Mặc dù đó là một
trạng thái rất tốt đẹp, nhưng tự nó không thể nào đưa ta đến giải thoát được.
Mục tiêu của thiền quán là để có được một chính niệm liên tục, không gián đoạn.
Chính niệm, và chỉ có chính niệm, mới có thể đưa ta tới giác ngộ.
Sự xao lãng có đủ mọi hình tướng, mức độ, và mùi vị. Tâm lý học Phật giáo phân
chia chúng ra thành nhiều loại. Một trong những loại đó là chướng ngại. Chúng
được xem như là chướng ngại vì chúng ngăn trở hai yếu tố thiền quán của ta:
chính niệm và định lực. Ta cũng nên thận trọng chỗ này: Chữ “chướng ngại” có vẻ
mang một ý niệm hơi tiêu cực, mà thật ra chúng là những trạng thái tâm thức mà
ta muốn loại trừ. Nhưng điều ấy không có nghĩa là ta phải đàn áp chúng, trốn
tránh hoặc ghét bỏ chúng.
Chúng ta hãy lấy lòng ham muốn làm một ví dụ. Ta muốn tránh không kéo dài bất
cứ một trạng thái ham muốn nào khi nó khởi lên, vì nó sẽ dẫn đến sự ràng
buộc
và phiền não. Nhưng điều đó không có nghĩa là mỗi khi có những tư tưởng ham
muốn khởi lên, ta phải xua đuổi nó ra khỏi tâm mình. Chúng ta chỉ cần đừng
khuyến khích và nuôi dưỡng nó ở lại mà thôi. Ta để cho nó đến, và ta để cho nó
đi.
Khi ta nhận diện lòng ham muốn một cách đơn thuần, sẽ không có sự phê phán,
khen chê nào hết. Chúng ta chỉ đơn giản bước lùi lại và nhìn nó khởi lên. Cả
quá trình sinh động của sự ham muốn, từ đầu cho đến cuối, cần được quán sát với
cùng một thái độ ấy. Chúng ta không giúp thêm, cũng không ngăn chận, và cũng
không xen vào một chút nào hết. Nó ở bao lâu thì nó sẽ ở bấy lâu. Và trong khi
nó có mặt, ta sẽ học hỏi hết những gì mình có thể học được. Chúng ta quán sát
tác dụng của sự ham muốn. Ta nhận thức việc nó gây phiền não cho ta và là gánh
nặng cho kẻ khác như thế nào. Ta ý thức rằng nó khiến ta lúc nào cũng cảm thấy
không thoả mãn, luôn ở trong một trạng thái thèm khát và thiếu thốn. Từ kinh
nghiệm trực tiếp đó, ta hiểu được sâu sắc sự ham muốn là một chướng ngại
cho
ta. Và sự hiểu biết đó không phải là lý thuyết, mà là một thực nghiệm.
Tất cả những chướng ngại khác cũng được đối trị cùng bằng một phương thức ấy,
và ở đây chúng ta sẽ xem xét chúng từng cái một.
Ham muốn
Giả sử như trong lúc ngồi thiền có một kinh nghiệm dễ chịu nào đó khởi lên
khiến bạn bị xao lãng. Nó có thể là một mơ tưởng thú vị hoặc một ý nghĩ tự hào.
Nó có thể là một cảm giác hãnh diện. Nó có thể là một ý tưởng thương yêu
hoặc
một cảm giác an vui do thiền quán mang lại. Cho dầu đó là gì đi nữa, chắc chắn
theo sau sẽ là một trạng thái ham muốn - ta muốn có được những gì mình đang mơ
tưởng, hoặc muốn kéo dài cảm giác thú vị, dễ chịu ấy. Và cho dầu bất cứ nó là
gì, bạn cần đối trị những sự ham muốn ấy như sau.
Ghi nhận tư tưởng hoặc cảm xúc dễ chịu ấy khi nó khởi lên. Ghi nhận trạng thái
ham muốn đi kèm theo nó như là một cái gì riêng biệt. Ghi nhận chính xác
cường
độ và tầm mức của sự ham muốn ấy. Và rồi, ghi nhận xem nó kéo dài bao lâu và
khi nào nó biến mất. Sau khi làm xong những việc ấy, bạn đem sự chú ý trở về
với hơi thở của mình.
Ghét bỏ
Giả sử như trong lúc ngồi thiền có một kinh nghiệm khó chịu nào đó khởi lên
khiến bạn bị xao lãng. Nó có thể là một cái gì làm bạn sợ hãi hoặc một sự lo
âu, phiền toái nào đó. Nó có thể là một mặc cảm tội lỗi, buồn chán hoặc một cái
đau. Cho dù ý nghĩ hoặc cảm thụ đó là gì đi nữa, bạn sẽ thấy mình tìm cách xua
đuổi hoặc đàn áp nó - cố gắng trốn tránh, chống cự hoặc chối bỏ nó. Và phương
cách đối trị của ta ở đây cũng tương tự. Hãy theo dõi sự phát sinh của tư tưởng
hoặc cảm thụ khó chịu ấy. Ghi nhận trạng thái ghét bỏ đi kèm theo nó. Quán sát
xem nó kéo dài bao lâu và khi nào thì qua mất. Và rồi đem sự chú ý trở về với
hơi thở.
Hôn trầm
Hôn trầm có nhiều cấp bậc và cường độ khác nhau, nó bao gồm từ một chút uể oải
cho đến một trạng thái hôn mê, không còn biết gì hết. Ở đây, chúng ta nói về
một trạng thái của tâm thức, chứ không phải là của cơ thể. Buồn ngủ hoặc
sự mệt
mỏi của cơ thể là những điều hoàn toàn khác hẳn và trong hệ thống phân loại của
Phật học thường được xếp vào những cảm thụ vật lý. Hôn trầm rất gần gũi với sự
ghét bỏ, vì nó là một cách khéo léo để tâm ta trốn tránh những vấn đề nào nó
cảm thấy khó chịu. Hôn trầm cũng giống như là ta tắt đi bộ máy tâm thức của
mình, làm lu mờ đi những tri giác và nhận thức của ta. Nó là một sự giả vờ ngu
ngốc như mình đang ngủ.
Kích động
Những trạng thái bất an và lo lắng là những biểu hiện của sự kích động trong
tâm. Tâm ta phóng nhảy khắp nơi, không chịu ở yên một chỗ. Bạn có thể cứ
suy
đi, nghĩ lại loanh quanh chỉ có một vài vấn đề. Cái mạnh nhất ở đây là một cảm
thụ không an ổn. Tâm ta từ chối không chịu dừng yên ở bất cứ nơi nào. Nó
chạy
nhảy không ngừng. Và phương thuốc cho tình trạng này cũng tương tự. Sự bất an
truyền đạt một cảm thụ đặc biệt đến tâm thức ta. Bạn có thể cho nó là có
một
mùi vị hoặc một kết cấu đặc biệt nào đó. Gọi đó là gì đi chăng nữa, cảm giác
bất an ấy vẫn có những đặc tính riêng biệt mà ta có thể nhận diện được. Hãy tìm
nó. Khi bạn đã thấy nó, hãy ghi nhận sự có mặt của nó. Ghi nhận khi nào nó khởi
lên. Theo dõi xem nó kéo dài bao lâu, và khi nào chấm dứt. Và rồi trở lại với
hơi thở.
Nghi ngờ
Nghi ngờ cũng có một cảm giác cá biệt của nó trong tâm thức. Kinh điển Pali
diễn tả tâm trạng nghi ngờ rất hay. Nó cũng giống như cảm giác của một người bị
lạc lối hoang mang trong sa mạc, và anh ta đến một ngã tư đường không có
bảng
chỉ dẫn. Nên đi theo lối nào đây? Không làm sao biết được. Và anh ta cứ đứng đó
phân vân mãi.
Một trong những hình thức nghi ngờ có mặt trong lúc ngồi thiền là những câu độc
thoại trong đầu, tương tự như thế này: “Tại sao mình lại cứ ngồi yên như
thế
này để làm gì? Có thật sự ích lợi gì không chứ? Ồ! Nhất định là có rồi. Nó giúp
ích cho mình nhiều lắm. Trong sách nói như vậy mà. Không đâu, việc này thật là
điên rồ. Mất công sức, mất thì giờ thôi, chứ chẳng có ích lợi gì hết. Nhưng
không, mình sẽ không bao giờ bỏ cuộc. Mình nói mình cố gắng học thiền, và mình
sẽ nhất định học thiền. Mà mình có cứng đầu quá không? Chẳng biết nữa. Mình
chẳng biết gì hết...” Đừng để bị rơi vào chiếc bẫy này. Nó cũng chỉ là một
chướng ngại mà thôi. Một làn hỏa mù của tâm thức, với mục đích không cho
ta
nhìn thấy được những gì đang xảy ra trong giờ phút hiện tại. Muốn đối trị tâm
ngờ vực, ta chỉ cần ý thức được trạng thái thay đổi không yên này của tâm, như
là một đối tượng thiền quán. Đừng để bị kẹt trong chiếc bẫy ấy. Bước lùi
lại và
nhìn nó cho rõ. Xem nó mạnh đến đâu. Xem khi nào nó đến và kéo dài bao lâu. Rồi
xem nó từ từ qua đi, và ta lại trở về với hơi thở.
Đó là những phương cách chung bạn có thể sử dụng để hóa giải bất cứ một sự xao
lãng nào khởi lên. Tôi dùng chữ xao lãng để chỉ cho bất cứ một trạng thái nào
khởi lên và làm trở ngại cho sự thiền tập của ta. Có một số chướng ngại rất là
vi tế. Tôi nghĩ chúng ta cũng nên nêu ra một vài ví dụ. Những trạng thái
tiêu
cực đa số thường rất dễ nhận diện, như là: bất an, sợ hãi, nóng giận, bức rức,
chán nản và thất vọng.
Sự dính mắc và tham muốn thì hơi khó nhận diện hơn một chút, vì chúng có
thể
được áp dụng vào những gì chúng ta cho là cao thượng hoặc đáng quý. Ta có thể
ham muốn cho mình được hoàn thiện hơn. Ta có thể đeo đuổi những đức tính
tốt
lành. Ta có thể dính mắc vào những kinh nghiệm an tĩnh, hạnh phúc trong lúc ngồi
thiền. Buông bỏ những cảm giác cao quý ấy không phải là dễ. Nhưng cuối cùng,
chúng cũng chỉ làm tăng trưởng thêm lòng tham của ta mà thôi. Thật ra, chúng
chỉ là một sự mong muốn được thoả mãn và một cách khéo léo để tránh né thực
tại.
Nhưng khó nhận diện hơn hết là những trạng thái tâm thức tích cực mà nhẹ
nhàng
len lỏi vào trong sự thiền tập của ta. Hạnh phúc, an vui, hài lòng, cảm thông,
và từ bi đối với tất cả mọi người ở khắp mọi nơi. Những trạng thái này rất là
ngọt ngào và tốt lành, đến nỗi ta không có lòng dạ nào mà tự tách mình ra khỏi
chúng. Nó khiến ta cảm thấy như là mình đã phản bội nhân loại. Nhưng bạn
đâu
cần phải cảm thấy như vậy? Tôi không bao giờ khuyên bạn nên bác bỏ những
trạng
thái tâm thức ấy, hoặc biến mình trở thành gỗ đá. Tôi chỉ muốn bạn hãy nhìn
chúng như chúng thật sự đang hiện hữu. Chúng chỉ là những trạng thái của
tâm
thức. Chúng đến và chúng đi. Chúng sinh lên rồi chúng diệt đi. Khi bạn tiếp tục
thiền tập, những trạng thái này sẽ càng xảy ra thường xuyên hơn. Điều quan
trọng là đừng để bị dính mắc vào chúng. Chỉ cần quán sát từng cái một khi nó
khởi lên. Xem nó là gì, mạnh bao nhiêu, và kéo dài đến bao lâu. Rồi xem nó từ
từ trôi đi mất. Nó cũng chỉ là một vở tuồng nữa trên sân khấu tâm thức của mình
mà thôi.
Cũng giống như hơi thở có từng giai đoạn, những trạng thái tâm thức cũng
thế.
Mỗi hơi thở có phần bắt đầu, phần giữa và phần cuối. Mỗi trạng thái tâm thức có
các giai đoạn sinh khởi, tăng trưởng và hoại diệt. Bạn nên cố gắng quán sát để
thấy rõ được những giai đoạn này. Lẽ dĩ nhiên việc ấy không phải dễ. Như
chúng
ta đã biết, mỗi tư tưởng và cảm giác đều khởi lên bắt đầu trước hết từ trong
phần tiềm thức của ta, rồi sau đó mới khởi lên trên bề mặt của ý thức. Thường
thì ta chỉ ý thức được chúng sau khi chúng đã xuất hiện trên bình diện ý
thức,
và có mặt ở đó trong một thời gian. Thật ra, chúng ta chỉ ý thức được sự
xao
lãng sau khi nó đã thôi không còn quấy rầy ta nữa, và đang bắt đầu phai mờ đi.
Cũng chính ngay ở điểm này, ta đột nhiên ý thức tự nãy giờ mình đang lo nghĩ,
mơ tưởng xa xôi, viển vông, hoặc là gì đó. Rõ ràng, lúc đó mọi việc cũng
đã quá
trễ rồi. Chúng ta có thể gọi hiện tượng này là bắt con sư tử bằng đuôi, hành
động đó không khôn ngoan chút nào hết. Cũng giống như khi đối diện với một con
thú dữ, ta cũng phải tiến đến ngay trước những trạng thái tâm thức của mình. Và
với sự kiên trì, ta sẽ nhận diện được những xao lãng ấy, khi chúng vừa mới khởi
lên từ phần tiềm thức sâu kín trong tâm.
Vì những trạng thái tâm thức khởi lên từ dưới tiềm thức, muốn bắt được ngay khi
nó vừa xuất hiện, ta phải nới rộng nhận thức của mình xuống dưới phần tiềm thức
ấy. Việc này cũng hơi khó, vì ta không thể thấy được những gì có mặt ở nơi đó,
ít nhất là cũng không được rõ ràng như ở trên bình diện ý thức. Nó đòi hỏi một
sự thực tập. Và một định lực thâm sâu cũng có ảnh hưởng rất nhiều đến khả năng
ấy. Định lực sẽ làm chậm lại sự xuất hiện của những trạng thái tâm thức này. Nó
cho ta thời gian để cảm nhận từng cái một, khi chúng vừa mới khởi lên từ
phía
dưới tiềm thức, ngay cả trước khi ta thấy được sự có mặt của chúng trên phần ý
thức. Định lực sẽ giúp ta nới rộng nhận thức của mình xuống phần tăm tối
còn
nằm sâu ở phía dưới, nơi tư tưởng và cảm giác của ta bắt đầu phát khởi.
Khi định lực của bạn thâm sâu, bạn sẽ có khả năng nhìn thấy được những tư tưởng
và cảm giác chầm chậm khởi lên, riêng rẽ như những bong bóng nước, mỗi cái cá
biệt và có những khoảng trống ở giữa nhau. Nó nổi lên thật chậm rãi từ dưới
tiềm thức. Nó ở lại trên bề mặt ý thức một đôi chút, rồi từ từ trôi đi mất.
Nhận diện đơn thuần những trạng thái tâm thức là một công việc đòi hỏi một sự
chính xác đặc biệt. Nhất là đối với cảm thụ hoặc cảm xúc. Chúng ta dễ đi
quá đà
đối với những cảm xúc của mình, có nghĩa là cộng thêm vào đó những gì dư
thừa.
Và ta cũng rất dễ bị thiếu hụt, không tiếp xúc hết, không nhận thức được
hoàn
toàn cảm xúc của mình. Mục tiêu mà ta muốn đạt đến là kinh nghiệm được mỗi
trạng thái tâm thức một cách thật trọn vẹn, như nó thật sự đang hiện hữu, không
thêm thắt vào và cũng không bỏ sót bất cứ một điều gì hết.
Chúng ta hãy lấy một ví dụ về cái đau nơi chân của mình. Cái thật sự đang có
mặt ở đó chỉ là một dòng cảm giác thuần túy và biến chuyển. Nó luôn luôn
biến
đổi, không bao giờ là cùng một cái, từ giây phút này sang giây phút kế. Nó di
chuyển từ chỗ này sang chỗ khác, và cường độ nó tăng giảm khác nhau. Cái
đau
không phải là một vật. Nó là một sự kiện. Ta không nên dán lên nó bất cứ
một ý
niệm nào, hoặc liên kết nó với bất cứ một cái gì khác. Với một sự nhận diện đơn
thuần, ta sẽ kinh nghiệm nó đơn giản như là một dòng năng lượng có thứ tự trôi
chảy, và ngoài ra không là gì khác. Không có tư tưởng và không có sự bác
bỏ.
Chỉ là năng lượng.
Trên con đường thiền tập, chúng ta cần xét lại quan điểm của mình về vấn
đề
hình thành khái niệm. Đối với đa số chúng ta, sự thành công trong học đường và
trong cuộc đời, là nhờ vào khả năng biết sử dụng, sắp xếp những hiện tượng tâm
thức một cách hợp lý. Đó là khả năng biết nhận định. Công danh sự nghiệp, những
thành công trong đời sống hằng ngày, những liên hệ hạnh phúc... phần lớn
những
thành đạt ấy là nhờ vào khả năng biết nhận định của mình. Nhưng trong thiền
tập, chúng ta tạm gác bỏ qua một bên tiến trình nhận định và sử dụng khái niệm
ấy, và chú tâm trực tiếp đến cái bản chất của những hiện tượng tâm thức.
Trong
thiền tập, chúng ta muốn kinh nghiệm tâm thức mình một cách trực tiếp, khi mọi
khái niệm hoàn toàn chưa sinh khởi.
Nhưng tâm bình thường của chúng ta lại nhận định cái hiện tượng ở chân ấy là
đau đớn. Ta nghĩ đến nó như là một “cái đau”. Nhưng đó chỉ là một khái niệm. Nó
là một nhãn hiệu ta dán lên trên cái cảm giác ấy. Rồi chúng ta tạo nên một ảnh
tượng trong đầu, hình ảnh của một cái đau, có hình dạng rõ ràng. Bạn dường như
thấy được một biểu đồ của cái chân đau, và ngay chỗ bị đau được vẽ bằng những
đường nét rõ ràng, và còn có màu sắc nữa. Việc ấy rất sáng tạo và vô cùng thú
vị, nhưng không phải là cái ta muốn. Chúng chỉ là những khái niệm khô cứng được
ta gắn kết vào thực tại sinh động. Và thường thường ta sẽ tự cho rằng, “Chân
tôi bị đau.” “Tôi” là một khái niệm. Nó là một sự dư thừa cộng thêm vào cái
kinh nghiệm thuần túy của mình.
Khi bạn thêm cái “tôi” vào là bạn tạo ra một khoảng cách giữa thực tại và cái ý
thức quán sát thực tại ấy. Những tư tưởng như là “tôi” hoặc “của tôi” hoàn toàn
không có chỗ đứng trong một kinh nghiệm trực tiếp. Chúng không chỉ là những
“phụ gia” vô ích, mà còn rất là thâm hiểm. Khi ta mang cái “tôi” vào, tức là ta
nhận cái đau là mình. Ta chỉ làm cho cái đau ấy quan trọng thêm mà thôi.
Và khi
ta bỏ cái “tôi” ra ngoài, cái đau sẽ không còn là đau đớn. Nó chỉ là một
dòng
năng lượng thuần túy có cường độ cao. Nó còn có thể là kỳ diệu nữa kìa! Nếu bạn
thấy cái “tôi” ấy đang len lỏi vào trong kinh nghiệm của cái đau, hoặc bất cứ
một cảm giác nào khác, bạn hãy theo dõi nó trong chính niệm. Hãy nhận diện đơn
thuần cái hiện tượng nhận-cái-đau-làm-mình ấy của ta.
Mục tiêu chung của chúng ta thật ra rất đơn giản. Ta muốn thật sự nhìn thấy
được mỗi cảm giác của mình, cho dù đó là đau đớn, hỷ lạc hay là chán chường. Ta
muốn kinh nghiệm được nó một cách trọn vẹn và thuần túy, dưới một hình thái tự
nhiên nhất, chưa bị làm sai lạc. Và chỉ có một phương cách duy nhất mà thôi.
Thời điểm của bạn phải thật là chính xác. Ý thức về mỗi cảm giác phải được phối
hợp ngay cùng một lúc với sự sinh khởi của cảm giác ấy. Nếu bạn nắm bắt trễ một
chút, bạn sẽ hụt mất phần đầu, và không thấy được tất cả. Và nếu bạn vẫn
còn
nắm giữ cảm giác ấy, khi nó đã phai mờ rồi, thì cái mà bạn giữ đó chỉ là
ký ức
về nó mà thôi. Nó đã đi qua mất. Và trong khi bạn lo nắm giữ ký ức ấy, bạn sẽ
bỏ lỡ cơ hội nhìn thấy sự sinh khởi của một cảm giác kế tiếp. Đây là một
công
việc vô cùng tinh tế. Bạn lúc nào cũng phải có mặt trong giây phút hiện tại,
tiếp nhận và rồi buông bỏ, mà không được một chút chậm trễ. Nó đòi hỏi một sự
tiếp xúc rất nhẹ nhàng. Sự liên hệ của bạn với cảm giác, không bao giờ có thể
là của quá khứ hoặc tương lai, nhưng luôn đơn giản là cái ngay trong lúc
này.
Tâm bình thường của chúng ta lúc nào cũng tìm cách đặt khái niệm lên trên mọi
hiện tượng, và nó làm một cách rất khéo léo. Mỗi cảm giác sẽ khơi dậy một chuỗi
những ý niệm. Lấy ví dụ về cái nghe chẳng hạn. Bạn đang ngồi thiền, và có ai đó
ở phòng cạnh bên đánh rơi một cái đĩa. Âm thanh ấy chạm vào tai bạn. Ngay lập
tức trong đầu bạn hiện lên hình ảnh của căn phòng cạnh bên. Có lẽ bạn cũng thấy
luôn được người đánh rơi cái đĩa ấy. Nếu đây là một khung cảnh quen thuộc, như
là trong nhà bạn chẳng hạn, có thể bạn sẽ hình dung ra tất cả như trong một
cuốn phim 3 chiều, về ai làm rơi đĩa và chiếc đĩa nào bị đánh rơi. Và toàn bộ
chuỗi sự kiện ấy xảy ra trong một chớp mắt. Nó nhảy vọt lên từ tiềm thức
với
những chi tiết thật rõ rệt, trong sáng, và hấp dẫn đến nỗi nó tống khứ hết mọi
chuyện khác ra khỏi tâm ta. Chuyện gì đã xảy ra cho cái cảm giác nguyên sơ lúc
ban đầu, và cái kinh nghiệm nghe thuần tuý ấy? Nó hoàn toàn bị đàn áp và
lạc
mất đâu đó trong những sự lộn xộn và quên lãng. Ta bỏ lỡ thực tại. Ta đi
vào
một thế giới mộng tưởng.
Đây là một ví dụ khác: Bạn đang ngồi thiền và chợt có một âm thanh chạm đến tai
mình. Nó là một tiếng động không rõ rệt lắm, một tiếng lạo xạo đâu đó, mà có
thể do bất cứ một cái gì. Và những gì xảy ra kế tiếp có thể là thế này: “Cái gì
vậy? Ai thế? Âm thanh ấy xuất phát từ đâu vậy? Có xa chỗ mình ngồi không? Có gì
nguy hiểm không?...” Và cứ thế mà tiếp tục, không có câu trả lời, chỉ toàn là
những tưởng tượng và phỏng đoán của ta mà thôi.
Nhận định bằng ý niệm là một tiến trình rất xảo quyệt và khôn khéo. Nó len lỏi
vào trong kinh nghiệm của ta, và rồi hoàn toàn chiếm đoạt hết. Trong thiền tập,
nếu ta nghe một âm thanh, ta chỉ cần nhận diện đơn thuần về cái kinh nghiệm
nghe ấy. Nó và chỉ có riêng nó mà thôi! Thật ra, những gì xảy ra rất là đơn
giản, mà nhiều khi vì vậy chúng ta lại bỏ qua và không chịu nhìn thấy. Làn sóng
âm thanh chạm vào màng nhĩ của ta theo một phương cách đặc biệt nào đó. Những
làn sóng ấy được chuyển thành những tín hiệu điện trong bộ não, và rồi những
tín hiệu ấy biểu hiện thành một dạng âm thanh trong tâm thức của ta. Và chỉ có
vậy thôi. Không có hình ảnh. Không có phim chiếu. Không có ý niệm. Không
có sự
độc thoại, thắc mắc. Chỉ đơn giản là một tiếng động. Thực tại không trang điểm
và đơn sơ một cách kỳ diệu. Khi bạn nghe một tiếng động, hãy có chính niệm về
tiến trình nghe đó. Còn tất cả những cái khác chỉ là dư thừa, được thêm thắt
vào. Bỏ chúng đi. Và luật đó có thể áp dụng hết cho tất cả mọi cảm giác,
mọi
cảm thụ, mọi kinh nghiệm của bạn. Hãy nhìn lại kinh nghiệm của chính mình cho
thật kỹ. Đào xuyên qua hết những tầng lớp của mớ đồ cũ vụn vặt trong tâm
thức,
để xem cái gì thật sự có mặt. Bạn sẽ vô cùng kinh ngạc khi khám phá ra rằng nó
đơn giản và nhiệm mầu đến như thế nào!
Cũng có những lúc, sẽ có nhiều cảm giác cùng khởi lên một lượt. Bạn có một tư
tưởng sợ hãi, một cảm giác co thắt trong bụng, một cái lưng đau, ngứa ở lỗ tai
bên trái, tất cả cùng có mặt trong một lúc. Đừng ngồi đó bối rối. Đừng thay đổi
tới lui, hoặc phân vân không biết nên chọn cái nào làm đối tượng. Sẽ có một cái
là mạnh nhất. Chỉ cần bạn mở rộng ra, và hiện tượng nào dai dẳng nhất, nổi bật
nhất, tự nó sẽ bắt bạn phải chú ý đến nó. Hãy chú tâm đến nó một đôi chút, chỉ
lâu đủ để nhìn thấy nó phai mờ đi. Rồi trở về với hơi thở của mình. Nếu có một
cái nào khác nổi bật lên, hãy cho nó vào. Và khi xong rồi, lại trở về với hơi
thở.
Nhưng bạn nên cẩn thận, quá trình này cũng rất có thể bị lạm dụng. Đừng cứ ngồi
đó và tìm kiếm một cái gì để làm đối tượng chính niệm. Hãy luôn giữ chính niệm
trên hơi thở, cho đến khi có một cái gì khác xen vào lôi kéo sự chú ý của mình
đi. Khi nào bạn cảm thấy việc ấy xảy ra, đừng chống cự lại. Hãy để sự chú ý của
bạn nhẹ nhàng chuyển sang đối tượng xao lãng ấy một cách tự nhiên, và giữ chính
niệm ở đó cho đến khi nào nó phai nhạt đi. Rồi trở về với hơi thở của mình.
Đừng tìm kiếm thêm bất cứ một hiện tượng vật lý hoặc tâm lý nào khác. Chỉ trở
về chú ý đến hơi thở của mình. Hãy để cho những đối tượng tự động đến với ta.
Lẽ dĩ nhiên, cũng có những lúc bạn ngủ gật đi một chút. Cho dù bạn đã thực tập
lâu, có lúc bạn sẽ giật mình tỉnh dậy, ý thức rằng từ nãy giờ mình đang ở
đâu
đó! Đừng nản lòng. Hãy ý thức rõ rằng mình đã mê ngủ khoảng bao lâu và trở về
với hơi thở. Ta không cần phải có một phản ứng tiêu cực nào. Chính sự ý thức
rằng mình đã xao lãng tự nó đã là một hành động chính niệm. Tự nó chính là một
bài tập về sự chính niệm thuần túy, về sự nhận diện đơn thuần.
Chính niệm sẽ được tăng trưởng theo sự thực tập chính niệm. Cũng giống như khi
ta tập thể dục cho các cơ bắp vậy. Mỗi khi bạn tập luyện, bắp thịt của bạn sẽ
nở nang thêm một chút. Bạn làm cho nó được mạnh thêm một chút. Sự thật bạn có
cảm giác giật mình tỉnh giấc ấy, cũng là một bằng chứng rằng năng lượng chính
niệm của bạn đã được tăng trưởng. Nó có nghĩa là bạn đã thắng cuộc. Hãy trở về
với chính niệm và không hối hận. Mặc dù hối hận là một phản ứng tự nhiên, và nó
thế nào cũng có mặt - chỉ là một thói quen của tâm thức. Nếu bạn cảm thấy bực
mình, chán nản, hoặc tự trách móc mình, hãy quán sát chúng bằng chính niệm. Nó
cũng chỉ là một sự xao lãng khác mà thôi. Chú tâm đến nó một chút, quán sát nó
phai mờ đi, và trở về với hơi thở.
Những quy tắc tôi vừa trình bày có thể và cần được áp dụng cho mọi trạng
thái
tâm thức khác. Bạn sẽ khám phá ra rằng đây là một việc làm không phải dễ. Đây
sẽ là một công việc khó khăn nhất mà bạn đã từng thực hiện. Bạn sẽ khám phá ra
mình sẵn sàng áp dụng phương pháp ấy cho một số kinh nghiệm này, và lại hoàn
toàn không muốn áp dụng nó cho một số khác.
Thiền tập cũng giống như một loại axít của tâm thức vậy. Nó sẽ từ từ xói
mòn
bất cứ cái gì nó tiếp xúc. Loài người chúng ta rất kỳ lạ. Chúng ta ưa thích mùi
vị của một số chất độc, và ta cứ lì lợm tiêu thụ chúng mặc dù biết chúng
đang
tiêu hủy mình. Những tư tưởng mà ta bị dính mắc là những độc tố. Bạn sẽ thấy
rằng, có một số tư tưởng chúng ta sẵn sàng đào sâu và bứng nhổ tận gốc rễ,
trong khi có một số khác chúng ta lại cưng chiều, bảo vệ hết mình. Và đó
là
tình trạng của con người.
Thiền quán không phải là một trò chơi. Chính niệm không phải chỉ là một môn
thực tập giải trí. Nó là con đường dẫn ta thoát ra khỏi một bãi lầy, bãi
lầy
của sự thương yêu và ghét bỏ của chính ta! Áp dụng chính niệm để hoá giải những
vấn đề đau đớn, khó khăn trong cuộc sống, dầu sao thì tương đối cũng vẫn
dễ
hơn. Khi ta nhận thấy rằng sự sợ hãi và tuyệt vọng sẽ tiêu tan dưới ánh sáng
quán chiếu của chính niệm, tự nhiên ta sẽ muốn đem ra áp dụng mãi. Đó là
những
trạng thái tâm thức tiêu cực. Chúng làm ta đau khổ. Ta muốn loại trừ chúng vì
chúng mang cho ta phiền não. Nhưng sẽ khó khăn gấp bội phần khi ta đem áp dụng
cũng cùng quá trình đó cho những trạng thái tâm thức mà ta trân quý, như
là
lòng yêu nước, tình mẫu tử, hoặc một tình yêu chân thật. Nhưng việc ấy cũng vô
cùng cần thiết. Vì những dính mắc tích cực cũng sẽ giữ bạn lại trong bãi
lầy,
giống như những dính mắc tiêu cực vậy. Bạn sẽ có thể ngoi lên và thoát được ra
khỏi bãi lầy ấy để có thể hít thở dễ dàng hơn, nếu bạn biết chuyên cần thực tập
thiền quán. Thiền quán là con đường dẫn đến Niết-bàn. Và từ những gì được kể
lại do những người đã đi trước trên con đường ấy, nó rất xứng đáng cho sự cố gắng
hết sức của ta.