Qua
những
kinh điển Đại Tiểu thừa ghi lại cuộc đời đức
Phật trong 49 năm du hóa, chúng ta có được một hình ảnh
linh động về đấng Đạo sư. Nét độc đáo nhất trong nhân
cách Ngài là Ngài không bao giờ mất bình tĩnh. Ngài luôn luôn
giữ được phong độ, dù gặp những gian nguy sỉ nhục.
Nhưng,
một
nét độc đáo khác của Phật là Ngài rất ít khi cười
lớn, mà chỉ mỉm nụ nhiệm mầu. Cho nên mỗi khi Ngài cười
lớn, là cả một “đại sự nhân duyên”. Cái cười ấy
phóng ra muôn vàn ánh quang minh vốn là một thứ ngôn ngữ,
một cách truyền thông chân lý Ngài đã chứng cho các vị
Bồ tát cao cấp. Đối với kẻ phàm tục chúng ta, nụ cười
của Phật bởi thế trở thành một cái gì hết sức huyền
bí, vô cùng quyến rũ. Nhìn những tượng tranh trình bày tôn
dung Ngài (cố nhiên không phải những bức tượng đủ 32 tướng
xấu 80 vẻ tệ do thợ tồi đúc nên) chúng ta luôn luôn muốn
chiêm ngưỡng mãi nụ cười bí ẩn kia: nụ cười không hẳn
là cười. Một nụ cười như ẩn như hiện, như xa như gần,
như sắc như không. Một nụ cười vừa rất hồn nhiên, vừa
sáng ngời trí giác. Một nụ cười ra chiều giễu cợt, ra
chiều xót thương. Chiêm ngưỡng nụ cười Ngài, chúng ta có
cảm tưởng Ngài giấu ta một điều gì, mà nếu ta đứng
lặng nhìn lâu hơn một chút, ta sẽ biết được. Nhưng phải
hết sức là lặng, vì
Không
gian
như có giây tơ
Bước
đi
sẽ đứt, động hờ sẽ tiêu (XD)
Cái
gì
chúng ta biết được trong nụ cười thoáng qua ấy cũng
thật vô cùng mong manh, nó vụt tan biến ngay khi một niệm
vừa móng khởi. Chiêm ngưỡng nụ cười Ngài, chúng ta bất
giác muốn cười theo, nhưng khi nhìn lại bản thân, chúng ta
muốn khóc hơn cười, và khi ngẩng nhìn trở lại, thì ô kìa,
Đức Từ Tôn hình như bỗng trở nên nghiêm trang, không còn
mỉm cười với ta nữa. Nhưng dù có mỉm cười hay không,
Phật vẫn có một sắc diện tươi tỉnh hài hòa, đem lại
cho chúng ta một niềm bình an vô hạn. Nét mặt Ngài tràn trề
hạnh phúc, một thứ hạnh phúc không liên hệ gì đến thế
tục, và chính vì vậy mới thật là hạnh phúc. Quả vậy,
làm sao tìm được hạnh phúc nơi một nét mặt in hằn những
lo âu vì tính mạng, tài sản, lợi danh? Làm sao tìm thấy bóng
hạnh phúc nơi một nét mặt in hằn những vết nhăn của những
tháng ngày đau thương chồng chất? Nét mặt trên một tượng
Phật khéo tạc là một nét mặt không có thời gian, không
bao giờ ta đoán được Ngài bao nhiêu tuổi.
Vua
Ba Tư Nặc theo Phật là do quan sát những vị Tỷ kheo đệ
tử Ngài ăn ngày một bửa, ngủ gốc cây, ở giữa trời,
không có một vật tùy thân đáng giá, vậy mà gương mặt
vị nào cũng tràn đầy hạnh phúc hiếm thấy nơi người thường.
Các Tỷ kheo này cũng vậy, không bao giờ hở răng cười vì
cười để lộ hai hàm răng là điều giới luật cấm kỵ.
Vậy mà tất cả con người của họ chính là hiện thân của
niềm hỷ lạc vô biên.
Tại
sao
trong chương nói về uy nghi của tu sĩ, có việc cấm ngoác
miệng ra mà cười? Có lẽ tại vì cười là hành tướng của
vô minh bất giác. Tâm động mới phát ra cười và khóc Nếu
tâm an trú trong chân tánh bồ đề, thì không gì có thể khiến
cho ta khóc hay cười được. Cho nên, mỗi khi rất hiếm hoi,
mà Phật phát ra tràng cười lớn (như khi Ngài lên đỉnh Lăng
Già thuyết pháp cho vua Rồng biển) thì đại chúng phải ngạc
nhiên tự hỏi: “Như Lai là đấng tự tại đối với các
pháp, nay bỗng vì nguyên nhân gì lại nổi lên cười lớn”.
Cái cười còn là đầu mối của lòng dâm. Phụ nữ bất chánh
ưa cười cợt để gợi sự chú ý của người khác. Cái cười
cái khóc của họ đều là những khí giới rất lợi hại
để lừa dối người ta về tình hoặc tiền.
Chính
vì
cười không đúng lúc mà hai ái phi của vua Ngô Phù Sai
phải bị Tôn võ tử chém đầu một cách oan uổng (các nàng
cười trong một buổi tập dượt nghĩa vụ quân sự cho phụ
nữ trong cung). Những triết gia bi quan cho rằng cái cười là
một phát minh đặc biệt của loài người, vì con người quá
đau khổ. Trong các loài thú, không có con nào cười như con
người cả. Cái cười của con người có thể là để che
dấu sự đau khổ, uất hận, mỉa mai, chua chát. Có tới ba
mươi sáu kiểu cười theo sự phân tích, cũng như một cái
quạt giấy ngày xưa có vô vàn cách sử dụng chứ không phải
chỉ để quạt cho mát mà thôi. Có người dùng cái quạt để
che mặt, hoặc để giấu một nụ cười, hoặc để liếc
mắt đưa tình. Có người quạt cho kẻ khác để tán tỉnh,
như các nịnh thần quạt cho vua. Có người tự quạt cho mình
để nuốt hận. Lại cũng có kẻ xứ dụng cái quạt để
trở cán đánh vào người khác. Nụ cười cũng vậy, không
phải đơn thuần diễn tả nỗi vui sướng mà trái lại, có
khi chỉ là trá hình của đau khổ:
Khi vui muốn khóc, buồn tênh lại cười
(Nguyễn
Công Trứ)
Một
thi
sĩ nói “Cười là tiếng khóc khô không lệ”. Thành thử
cái cười đôi lúc còn bi thảm hơn cả cái khóc. Molière,
Voltaire, kịch gia, văn hào nổi tiếng của Pháp về hài hước
đều là những người có nhân sinh quan vô cùng đen tối. Vào
những thời kỳ đau khổ trong lịch sử quốc gia, văn chường
trào lộng rất thịnh hành. Thi hào Keats nói “nụ cười chân
thật nhất thường đậm nét thương đau” (Our sincerest laughter,
with some pain is fraught).
Có
khi
con người cười để che sự giận uất:
Giận dẫu căm gan miệng mỉm cười
(Nguyễn
Công Trứ)
Có
những
nụ cười rất nham hiểm, như nụ cười của Hoạn
thư trước nỗi khổ của Thúc sinh thương Kiều đang bị hành
hạ mà không dám khóc:
Người ngoài cười nụ, người trong khóc thầm
Nụ
cười
của Hoạn Thư đã làm cho Kiều phải than:
Giận dầu ra dạ thế thường
Cười này mới thật khôn lường hiểm sâu!
Có
nụ
cười để bày tỏ sự trách móc, như nụ cười của
Từ Hải:
Cười
rằng:
tâm phúc tương tri
Sao
chưa
thoát khỏi nữ nhi thường tình
Cái
cười
để che dấu sự ác độc là một đặc tính làm cho
con người gần với loài thú nhất. Triết gia Thomas Hobbes phân
tích rằng con người giống con thú nhất là ở cái sự nhe
nanh ra mà cười, vì cái cười nơi con người cũng như sự
nhe nanh của thú vật mỗi khi gặp nhau. Con thú ăn tươi nuốt
sống ngay đối phương, còn con người thì cười trước, rồi
mới liệu bề nuốt nhau từ từ:
Bề
ngoài
thơn thớt nói cười
Mà
trong
nham hiểm giết người không dao
Đó
là
nụ cười đại diện cho sự nham hiểm của con người.
Như
vậy,
cái cười không phải là biểu hiện duy nhất, chân thật
và đơn thuần của hạnh phúc. Có lẽ vì thế mà Phật ít
khi cười lớn, và giới luật cũng cấm những vị xuất gia
nhe răng cười, mặc dù Phật giáo đề cao hạnh phúc, chống
đau khổ. Toàn bộ chân lý Phật giáo là chỉ nhằm mục đích
diệt khổ, đem lại Niết bàn, hạnh phúc tối cao. Nhưng hạnh
phúc ấy không phải biểu lộ bằng cách nhe răng cười. Hạnh
phúc ấy không cần biểu lộ, không tương quan gì đến cảnh
ngoài, mà tuôn phát từ nguồn tâm, nên mới trường cửu,
bất tận, to lớn đến không còn mang nhãn hiệu hạnh phúc,
vì vượt ngoài danh ngôn đối đãi, hoàn toàn vô điều kiện.
Con
người
ưa sống ghét chết, ưa hợp ghét ly, ưa vui ghét khổ,
mà không biết sống chết, hợp tan, vui khổ chỉ là hai mặt
của một đồng tiền. Vì ưa sống ghét chết nên sống thì
cười, chết thì khóc, bởi thế mà cứ phải quanh quẩn mãi
trong vòng sống chết khóc cười, không biết bao giờ ra khỏi.
Nét
mặt
bình an của Phật biểu thị sự siêu thoát khỏi vòng
sống chết khóc cười của thế nhân. Trong cảnh sống say
chết ngủ, con người mới thấy có sống có chết, có vui
có buồn, có phúc có họa. Nhưng đối với đấng Giác ngộ,
sống chết buồn vui họa phúc chỉ như bào ảnh, như điện
chớp, như sương khói, như chiêm bao. Tất cả đều duy tâm
biến hiện, như những hình ảnh do họa sĩ vẽ nên, như những
nhân vật trong tiểu thuyết do nhà văn tạo. Có nhà văn tạo
ra một nhân vật, cho nó nếm trải đủ mùi vị ngọt bùi
cay đắng, lặn hụp qua ba mươi sáu nẻo luân hồi, nhân vật
ấy trở thành một hình ảnh linh động tới nỗi nhà văn
coi nó như thật, khóc cười theo với nó, rồi hóa điên. Nghe
một chuyện như thế, chúng ta sẽ cho là hy hữu lạ kỳ, nhưng
nhà văn ấy chính là chúng ta đây. Trong cảnh giả thì
vui khổ đều giả, không có gì đáng khóc mà cũng không có
gì đáng cười. Vậy mà chúng ta vẫn khóc, vẫn cười, cho
nên dưới mắt Phật, chúng ta đều là đồ điên: bởi thế
mà có danh từ điên đảo. Thật cho là giả, giả cho là thật,
đó là căn bệnh trầm kha của chúng sinh vậy.