Thông
thường,
nói đến phụ nữ, người ta nghĩ ngay đến những
phong trào đòi bình quyền, đòi quyền sống, đến những quan
niệm kỳ thị nam nữ, những ý kiến ủng hộ hay chống đối
trước những quan niệm ấy, chia ra hai phe rõ rệt mà người
bênh vực sự kỳ thị đa số là phái nam, và người chống
đối luôn luôn là phái nữ. Tựu trung, vấn đề kỳ thị
nam nữ cũng như kỳ thị chủng tộc, tôn giáo... bao hàm tranh
chấp quyền lợi và thế lực. Ở đâu còn tranh chấp, ở
đấy sẽ còn đủ loại kỳ thị. Sự kỳ thị chỉ chấm
dứt khi nào con người vươn lên bình diện tâm linh, nơi không
còn tranh chấp. Trong địa hạt vật chất cũng như tinh thần,
khi một người no tất phải có những kẻ khác đói, một
người dư dật thì kẻ khác phải thiếu thốn, một người
được gọi là tài giỏi hay ho tất phải có kẻ chịu tiếng
vụng về khờ khạo. Niềm hân hoan, sự chiến thắng của
một cá nhân hay một đoàn thể này bao hàm nỗi tủi nhục,
sự thất bại của một cá nhân, một tập đoàn khác. Chỉ
trong địa hạt tâm linh, niềm vui của ta mới không phải trả
giá bằng nỗi khổ của người, mà còn tỏa rộng bóng mát
của nó cho mọi kẻ chung quanh. Chỉ trong địa hạt tâm linh,
mỗi con người mới có thể đạt đến tự do tuyệt đối
mà không phương hại đến kẻ khác, và chỉ trong địa hạt
tâm linh, tình yêu mới không thể biến thành ganh ghét hận
thù. Cho nên chỉ có những bậc Thầy tâm linh vĩ đại mới
không có thành kiến về phụ nữ, vì họ đã vượt ra ngoài
tranh chấp, ra ngoài yêu ghét thường tình. Đức Phật chính
là bậc Thầy tâm linh vĩ đại đã mở ra cho nữ giới con
đường giải phóng không những ra khỏi một thân phận đen
tối thấp hèn, lệ thuộc vào nam giới, mà còn ra khỏi ngục
tù bản ngã nhỏ hẹp để vươn lên Chân lý, Niết bàn.
Nói
chung,
những đức tính và thói xấu của phụ nữ khác hẳn
của nam giới. Nếu ở nam giới Trí tuệ được đề cao, thì
đức tính được đề cao ở nữ giới là Từ bi, bởi thế
mà tượng Bồ tát từ bi đều có dạng nữ. Nếu ở nam giới,
can đảm chí khí được tán dương thì ở nữ giới người
ta chờ đợi sự nhẫn nhục ôn hòa, đức bao dung tha thứ.
Thánh Gandhi đã xem phụ nữ là hiện thân của đức khoan hồng.
Nếu ở nam giới, sự ăn to nói lớn, hoạt bát hùng hồn là
một đức tính thì trái lại, đức tính của phái nữ nằm
trong sự nhũn nhặn. Nếu ở nam giới, quyền lực uy phong được
ca tụng thì ở nữ giới, đức tính cần thiết là khiêm tốn.
Nhưng những đức tính nữ có những mặt trái đánh lừa ta,
ví dụ ta dễ lẫn lộn sự si ái với từ bi, hoặc có khi
ta tưởng mình từ bi mà kỳ thực chỉ là thói bám víu và
ưa che chở quá mức cần thiết. Vì người đàn bà đóng một
vai trò quan trọng trong việc đem lại sự sống, nên họ dễ
xem mình là tất cả, dễ nghĩ rằng không có ta đây thì không
xong. Đức tính im lặng nhẫn nhục nơi phụ nữ có thể có
mặt trái là chấp trước, ôm hận xuống tuyền đài, khó
giải thoát. Đức tính nhũn nhặn khiêm tốn của phụ nữ
có thể chỉ là thói nhút nhát ỷ lại, đỏm dáng, luôn lệ
thuộc vào kẻ khác. Chính vì muốn phát huy những đức tính
và sửa trị những thói xấu nơi phụ nữ, mà đức Phật
đã chế ra Bát kỉnh pháp và những giới luật riêng cho hàng
nữ xuất gia. Nhiều người đã căn cứ vào Bát kỉnh pháp
(tức 8 điều mà Ni phải tuân giữ đối với Tỷ kheo Tăng)
và căn cứ vào việc Phật chế giới cho Ni nhiều hơn Tăng,
mà cho rằng Phật kỳ thị nam nữ. Thật ra, vì phái nữ có
những điều kiện vật lý tâm lý khác hẳn nam giới cho nên
giới luật cũng khác. Riêng về Bát kỉnh pháp, chúng ta có
thể đi ngược dòng lịch sử để xét lý do Phật chế tám
điều cung kỉnh. Trong đoàn thể xuất gia đầu tiên của Phật
không có nữ lưu. Mãi đến nhiều năm sau khi thành lập tăng
đoàn, bà mẹ nuôi Đức Phật là Hoàng hậu Mahaprajapati (Đại
Ái Đạo) cùng với 500 nữ nhân dòng Thích Ca mới đến xin
Phật thế phát xuất gia. Phật từ chối. Lần thứ hai khi
nghe Đức Phật đang ở Kỳ hoàn Tinh xá, Hoàng hậu cùng 500
nữ nhân ấy từ xa xôi lặn lội, đi bộ rách cả gót chân,
y phục lấm lem đất bụi, đến nơi đứng ngoài cửa khóc
lóc thảm thương. Ngài A Nan thấy thế động lòng can thiệp
giúp cho hoàng hậu và sau ba lần Ngài năn nỉ Phật mới bằng
lòng cho bà và 500 nữ nhân xuất gia với điều kiện phải
tuân Bát kỉnh pháp. Phật biết tâm lý kiêu căng cố hữu
của người phụ nữ, mặt trái của bản năng làm mẹ, ưa
bảo bọc và tự cho mình quan trọng. Bà Mahaprajapati là một
vì đương kim Hoàng hậu, lại là Mẹ nuôi đã chăm sóc Thái
tử (Phật trước khi xuất gia) từ khi mới ra khỏi lòng mẹ
được bảy ngày. Bà có đủ tất cả lý do để kiêu căng
ngã mạn khi bước vào hàng ngũ xuất gia. Nếu Phật không
chế ra Bát kỉnh pháp thì rất có thể bà sẽ trổ trời mà
lên, không coi ai vào đâu nữa. Nếu ở đời Bà đã sai bảo
được lính tráng quan hầu, thì không lý do gì khi vào đạo
và lại là Mẹ của Phật, Bà không sai bảo được những
nam tu sĩ choai choai đáng đầu con cháu bà? Một kỉnh pháp
có lẽ cốt chĩa vào Kiều Đàm di mẫu chứ không ai khác,
vào thời gian sớm sủa ấy khi chưa có nữ nhân nào xin đi
tu: “Một vị Tỷ kheo Ni dù 100 tuổi hạ cũng phải cung kính
vái chào mời ngồi một Tỷ kheo Tăng dù mới 1 tuổi (thật
ra là 21 tuổi vì tuổi tối thiểu để thọ tỷ kheo giới
là 20, cộng thêm một năm tuổi hạ)”. Một lý do khác là
để giữa Tăng và Ni phải có khoảng cách trong hòa khí. Nữ
giới hay quá đà: hoặc quá thân thì mất cung kỉnh, dễ lờn
hoặc quá sơ thì dễ đi đến chỗ kiêu căng tự phụ cho rằng
ta đây có thể tự lập không cần ai dắt dẫn. Do đó một
kỉnh pháp khác bắt buộc Ni phải thỉnh thoảng đi đến tỷ
kheo Tăng xin chỉ giáo, để luôn luôn nhớ địa vị khất
sĩ của mình, nghĩa là phải cầu pháp. Ta cần lĩnh hội Bát
kỉnh pháp một cách sâu xa hơn, ấy là phải kính trọng tất
cả, vì trở ngại lớn nhất cho người tìm Đạo là thói
kiêu căng. Thánh Gandhi nói: “Người tìm chân lý phải xem
mình hèn mọn hơn cát bụi. Vũ trụ nghiền nát cát bụi dưới
chân mình, song kẻ đi tìm chân lý phải nghĩ mình nhỏ nhoi
đến độ bụi cát cũng có thể nghiền nát mình. Chỉ khi
đó con người mới mong có được một tia sáng nào của chân
lý”. Như vậy, người nữ nào thực tình muốn xóa ngã chấp
thì không nên mặc cảm về Bát kỉnh pháp, và nam tu sĩ
cũng không có lý do gì để tự hào.
Phái
nữ
có những lãnh vực hoạt động khác hẳn lãnh vực nam,
không thể so sánh. Nếu trong xã hội, đàn ông nắm giữ những
địa vị then chốt thì trong gia đình, giềng mối lại do đàn
bà nắm giữ. Bởi thế đức Phật thường dùng danh từ Màtugàma
những bà Mẹ, để tỏ ý kính trọng khi nói về những phụ
nữ lớn tuổi và danh từ Pàramàsakhà (những bạn tốt của
chồng) để chỉ những phụ nữ đã kết hôn. Đông phương
có danh từ “nội tướng” chỉ những bà mẹ đảm đang
trong gia đình, những bà Mẹ có một ảnh hưởng vô cùng quan
trọng trong sự giáo dục con cái. Về điểm này chúng ta có
thể tìm ví dụ trong tiểu sử những bậc Thánh như ngài La
Thập, mà thân mẫu đã đóng góp một phần không nhỏ trên
đường tiến tu đạo nghiệp; Ngài Dhammapala một vị hộ pháp
có công chấn hưng Phật giáo tại Tích Lan và sáng lập hội
Mahabodhi cũng đã nhờ công lao rất nhiều của thân mẫu. Tiểu
sử ghi rằng thân mẫu Ngài đau buồn trước tình cảnh nền
tín ngưỡng Phật giáo cổ truyền của xứ sở bị cuốn trôi
trước những làn sóng xâm lăng của dị giáo, đã thường
tha thiết cầu nguyện sinh được một người con trai đầy
đủ tài đức để phục hưng tôn giáo nước nhà. Bà đã
được toại nguyện, ngài Dhammapala đã ra đời giữa tiếng
kinh vang rền của chư Tàng, hương trầm nghi ngút. Bà sống
một đời thánh thiện trong thời kỳ hoài thai bậc Thánh,
mong người con sau này phải trở thành cứu tinh của dân tộc.
Bà Mạnh mẫu cũng đã chọn chỗ ở thích hợp để nuôi dạy
người con về sau đã trở thành một vì á Thánh của Trung
quốc. Thân mẫu của Mahatma Gandhi cũng đã gây một ảnh hưởng
lớn trong đời bậc vĩ nhân này, và triết gia Anh lỗi lạc
là Bertrand Russell cũng đã được giáo huấn từ tấm bé bởi
một bà nội đầy nghị lực quả cảm không thua gì nam giới.
Những tỉ dụ ấy đầy rẫy trong các tiểu sứ những vĩ
nhân của nhân loại. Những bà mẹ ấy đã dễ dàng bị lãng
quên trước sự thành công sáng chói của những người con,
nhưng chính sự lãng quên ấy lại là một phần làm nên sự
vinh quang của những bà mẹ, với đức hy sinh vô bờ không
chờ đợi được đền đáp hay được nhắc nhở. Đức hy
sinh xả kỷ của những bà mẹ vĩ nhân nói chung ấy đáng
lẽ chúng ta phải xây đài kỷ niệm như chúng ta đã xây đài
kỷ niệm những chiến sĩ vô danh.
Vai
trò
then chốt của những bà mẹ trong gia đình được tỏ
rõ qua kinh nghiệm: ta thường thấy rằng khi một gia đình
có người cha vô trách nhiệm nhưng được bà mẹ đảm đang
đức hạnh thì gia đình vẫn còn vững, con cái vẫn có thể
làm nên nấu chín. Trái lại khi một gia đình có bà mẹ bê
tha thì gia đình ấy kể như tan rã, con cái bơ vơ không nơi
nương tựa. Một văn hào Pháp đã nói: “Chính phụ nữ là
những người tạo dựng và phá hoại gia đình!” (Ce sont les
femmes qui font et dèfont la maison.) Trong khi công việc của nam
giới là khai sáng dựng xây, thì công việc của nữ giới
là duy trì, bảo vệ và hỗ trợ cho những công trình công
ích. Trong những phong trào, những tổ chức văn hóa và tôn
giáo, phụ nữ thường là những người bảo trợ và hưởng
ứng, như bà bá tước Chatelet với lâu đài Cirey đã giúp
văn hào Voltaire trú ẩn chính quyền Pháp, tại đây ông đã
sáng tác những tác phẩm bất hủ cho nhân loại.
Trong
lãnh
vực Tôn giáo, vai trò hỗ trợ của phụ nữ lại càng
quan trọng hơn. Vào thời Đức Phật còn tại thế, đã có
rất nhiều phụ nữ trong số những đệ tử Phật, điều
ấy được chứng tỏ qua Kinh tạng và Luật tạng bằng tiếng
Pali. Luật Pali (Vinaya Pitaka) có hai chương dành cho nữ giới
là Bhikkhunivibhanga và Bhikkhuni khandhaka nói đến những giới
luật mà Tỷ kheo Ni và những nữ nhân tập sự xuất gia phải
tuân giữ. Họ là những phụ nữ thoát ly gia đình để đi
tìm sự an tĩnh nội tâm, sự tự chủ, ánh sáng tri thức,
và trên tất cả tìm Giải thoát, trọng tâm căn để của
Phật giáo như Đức Thế Tôn dạy: “Cũng như nước trong
bốn biển chỉ có một vị mặn, Đạo của ta cũng chỉ thấm
nhuần một vị, ấy là vị Giải thoát”. Trong số đông đảo
phụ nữ xuất gia hồi Đức Phật còn tại thế, có nhiều
người đã chứng đến quả A la hán, quả vị cao tột mà
một đệ tử đương thời của Phật có thể chứng đắc,
mà chứng tích còn tồn tại đến chúng ta qua những bài thơ
(kệ) họ thốt ra sau khi đắc quả, những bài kệ này được
ghi lại trong Kinh tạng Pali gồm ba phần: phần thứ nhất quan
trọng hơn cả gọi là Therigàthà (Trưởng lão Ni kệ) gồm
những bài thơ của 73 vị nữ tu lớn tuổi gọi là Trưởng
lão Ni. Phần thứ hai là Bhikkhuni Samyutta, một phần trong kinh
Samyutta Nikàya (Tạp A hàm) sưu tập những bài kệ của 10 vị
Trưởng lão Ni trong số kể trên; và phần cuối cùng là Apadàna
là tập tiểu sử viết bằng thơ kể lại đời của 40 vị
Ni sống đồng thời với Đức Phật, so với 547 tiểu sử
của các vị Tăng. Đương thời đức Phật, trong khi Tăng bộ
có hai vị là Sariputta (Xá Lợi Phất) và Mogallàna (Mục Kiền
Liên) cai quản thì Ni cũng do hai vị Ni đã đắc quả A la hán
hướng dẫn là bà Khemà và Uppalavannà. Nhiều vị nữ đệ
tử khác cũng đã được Đức Phật liệt vào hàng lỗi lạc
nhiệt thành. Sự thành lập Ni bộ của Đức Phật đã được
các nhà dân tộc học cho là một việc làm vô cùng cách mạng,
nếu ta xét đến yếu tố thời gian cách đây 2500 năm và không
gian là xứ Ấn Độ đầy thành kiến đối với phái nữ.
Không những ngày xưa mà ngay hiện tại nhiều nơi ở Ấn vẫn
còn giữ tục lệ Purdah tức tục che mặt của phụ nữ khi
ra đường, và họ phải sống trong phòng the khóa kín. Theo
tục lệ Ấn giáo, phụ nữ không được giáo dục, không được
làm những công việc ngoài đường dù nhỏ mọn như bán trầu
thuốc, rau cải, tất cả đều do đàn ông đảm trách. Sinh
con gái là một điều bất hạnh cho mọi gia đình, vì phải
lo việc gả chồng và sắm của hồi môn. Hơn nữa trong Xã
hội Ấn Độ thời bấy giờ, cũng như ở Trung Hoa, Nhật Bản
hay Việt Nam, mọi gia đình đều xem con trai là rường cột
trong việc nắm giữ giềng mối tổ tông và lo việc tế tự
thờ cúng. Việc tế lễ trong đó nhiều sinh vật thường bị
giết làm vật hy sinh, được thực hành sâu rộng và người
ta tin rằng khi người cha trong gia đình chết đi mà không có
con trai nối dõi tông đường thì linh hồn ông sẽ thành ma
trở về quấy phá. Do đó nếu một người đàn bà không sinh
được con trai, thì người chồng có thể cưới vợ khác và
ngay cả có thể trục xuất bà ra khỏi gia đình. Nhưng kể
từ khi đạo Phật ra đời, những truyền thống của Xã hội
Ấn đã trải qua một cuộc đổi thay. Phật giáo dạy rằng
sự tế tự phải bắt nguồn từ nội tâm, bằng cách gột
rửa những tư tưởng ngã chấp, thiêu đốt tham sân si. Sự
tế tự phải tránh xa mọi hành vi tàn bạo độc hại đối
với mọi sinh vật khác. Hoàng hậu Mallikà nhờ thấm nhuần
những tư tưởng ấy của đạo Phật, đã trở thành một
Phật tử tại gia. Bà đã thuyết phục được vua Pasenadi khỏi
nghe lời một giáo sĩ bà la môn, giết nhiều muôn sinh trong
một đại tế đàn để thế mạng vua. Lại nữa, lý thuyết
Phật giáo theo đó mỗi người chịu trách nhiệm việc sinh
tử của mình, đã bật tung gốc rễ của truyền thống tế
tự thần linh để cầu sinh con trai, hay tin rằng linh hồn người
cha sẽ trở về quấy nhiễu nếu việc cúng tế không được
chăm sóc chu đáo. Với lý thuyết nghiệp, đạo Phật không
tin vào những vụ cúng tế dù để xin con trai hay để chuộc
tội lỗi. Vị trưởng lão Ni tên Punna trong một bài kệ có
nhận xét rằng nếu lễ tắm rửa trong nước sông có thể
tẩy sạch tội lỗi và thanh hóa con người thì những loài
tôm cua rùa cá và rắn nước đáng lẽ phải được lên thiên
đàng tất cả. Như vậy, với sự xuất hiện của Phật giáo,
người phụ nữ Ấn không còn phải quá lo ngại và bị ngược
đãi khi không sinh được con trai, vì người ta đã nhận thức
được rằng cuộc sống đời sau của người cha hoàn toàn
tùy thuộc vào những hành vi hiện tại của ông, chứ không
phải do sự cúng tế của người con trai hay con gái nào cả.
Và sự kế nghiệp gia đình cũng không còn quá lệ thuộc vào
người trưởng nam như trước. Ngày nay ở bờ biển Tây Ấn
còn có một giai cấp Bà la môn rất xưa cũ gọi là Nairs có
truyền thống chỉ trao quyền thừa kế cho con gái. Điều này
có thể là do một ảnh hưởng của đức Phật. Chúng ta được
kể rằng khi vua Pasenadi tỏ vẻ buồn bã thất vọng vì Hoàng
hậu Mallikà sinh con gái, đức Phật đã an ủi vua bằng những
lời lẽ như sau: