Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Bố thí không bị năm nhà cuốn trôi

21 Tháng Giêng 201100:00(Xem: 10506)
Bố thí không bị năm nhà cuốn trôi


BỐ THÍ KHÔNG BỊ NĂM NHÀ CUỐN TRÔI


Người thường xuyên thực hành bố thí, cúng dường, giúp đỡ, chia sẻ tạo nên những nhân tốt lành sẽ hưởng được quả báo tốt, đồng thời tránh khỏi các ách nạn bị năm nhà cuốn trôi, đó là:

- Nhà lũ lụt.

- Nhà hỏa hoạn

- Nhà trộm cướp

- Nhà vua quan tịch thu

- Nhà con cái bất hiếu, phá hoại.

1- Nhà lũ lụt:

Chiến tranh, thiên tai, sóng thần, động đất, lũ lụt thường xảy ra trên thế gian này. Nó cướp đi tài sản, của cải vật chất của con người, có khi cả đời người làm lụng cật lực, vất vả, chắt chiu, dành dụm được số tài sản nào đó, qua một cơn thiên tai hay chiến sự là tiêu tan không còn gì cả. Thậm chí có người đến sáu, bảy mươi tuổi mới tạo được ngôi nhà, sắm soạn được một ít vật dụng, một ít của tiền để dành lo an dưỡng tuổi già. Thế mà qua một trận thiên tai, trong nháy mắt đã trở thành trắng tay.

Chúng ta thấy trên đời này có biết bao sự bất ngờ gây nên mất mát đau thương cho con ngườiLý do vì sao? Không gì khác hơn là “nhân quả.” Bởi chúng ta trong nhiều đời, nhiều kiếp đã gây tạo quá nhiều tội lỗi, ví như của cải vật chất ta tạo ra không phải bằng chính sức lực, mồ hôi và hành vi chân chánh của mình, mà ta dùng thủ đoạn để lường gạt, trộm cướp hay bóc lột người khác tạo nên. Vì vậy, đời nay tài sản của ta tuy có nhiều, nhưng phước lực không có, nên chúng không tồn tại với ta lâu dài, mà chúng đi theo các nghiệp nhân xấu của mình gây ra.

 Do đó, chúng ta cần phải biết nhân nào dẫn đến giàu có, được nhiều của cải vật chất, được hưởng đầy đủ phúc lạc thế gian mà không bị năm nhà cuốn trôi.

Chúng ta thấy ở Việt Nam, năm nào cũng bị lũ lụt, nhất là miền Trung và miền Bắc gây biết bao cảnh khổ cho con người, nhưng cùng trong tình huống, có người bị mất mát nhiều, có người mất mát ít, có người vẫn an toàn không hư hao gì cả, người bị mất của, kẻ mất mạng sống v.v…Trong sự mất mát đau thương ấy, nếu ta cứ cho là số trời đã định, không cưỡng lại được thì thật là không đúng. Chúng ta phải tìm hiểu nguyên nhân tại sao có sự sai biệt như thế? Có thể nói ông Trời ở đây là chỉ cho luật nhân quả đang vận hành theo chu kỳ nhân duyên tác động đến nhân xấu mà ta đã làm trong quá khứ “gieo nhân gặt quả.” Hiểu được quy luật này, chúng ta sẽ có phương pháp chuyển hóa, thay đổi được nó. Chúng ta không than trời, trách đất hay oán hận, đổ thừa cho số phận gì cả, mà chúng ta phải tạo tác những hành động thiện lành, tạo nên những nhân tốt ngay từ bây giờ, đồng thời dùng sự hiểu biết chân chánh tạo nên cơ hội cải tạo đời sống hiện tại cho được tốt hơn.

2- Nhà hỏa hoạn:

Hỏa hoạn là tai họa thường do con người gây ra, nhưng sự thiệt hại của nó cũng thật khủng khiếp, khó lường. Chúng ta thấy nhiều gia đình tiêu tan sự nghiệp hay vong mạng chỉ vì cơn phẫn nộ của ngọn lửa vô tình, cả đời làm lụng vất vả tạo nhà, tạo xe, sắm sửa các thứ vật dụng sang trọng, đắt tiền trong gia đình, nhưng chỉ trong một vài giờ hỏa hoạn là trắng tay. Có khi tai họa này do mình gây ra, có khi do sự bất cẩn của nhà hàng xóm gây ra thảm cảnh cho nhiều gia đình một lúc.

3- Nhà trộm cướp:

Gọi là nhà trộm cướp là theo cách sắp xếp cho đủ năm nhà, chứ cho chính xác thì gọi là nạn trộm cướp. Đây là tai nạn xảy ra thường xuyên với con người và nạn này là do người này gây cho người kia. Nếu quý vị nào có đọc báo thì ngày nào, đêm nào cũng có trộm cướp xảy ra nơi này, nơi khác. Từ thành thị đến thôn quê đâu đâu cũng có xảy ra nạn này.

Nói cho rõ về trộm cướp là người làm lụng tạo ra của cải, tài sản bị người khác chiếm đoạt làm của mình. Trộm là lén lấy không cho người chủ sở hữu hay biết. Cướp là dùng sức mạnh ép buộc chủ sợ hữu phải giao nộp tài sản hay dùng vũ lực tiêu diệt chủ sở hữu để chiếm đoạt. Tuy hai cách thức trộm và cướp có khác nhau, nhưng cả hai hành vi đều có mục đích chung là chiếm đoạt của người. Hai hành động này là vi phạm luật pháp, vi phạm đạo đức làm người, trái với lẽ thường tình trong đời sống xã hội loài người, nên đều bị xã hội lên án. Mặc dầu hành vi này bị xã hội lên án gay gắt, luật pháp trừng trị không nới tay, nhưng nó vẫn cứ xảy ra.

Có người sau khi bị trộm cướp lấy đi thì tìm lại được, có người thì không. Vì sao chúng ta lại lâm vào hoàn cảnh như thế? Theo tuệ giác của Như Lai Thế Tôn, tất cả mọi trường hợp xảy ra đều có nguyên nhân sâu xa của nó, không có gì bỗng dưng, khi không, ngẫu nhiên mà xảy ra.

Nguyên nhân thứ nhất là do lòng tham của con người vì hưởng thụ quá mức, sống lười biếng hoặc do nghiện ngập đủ thứ nên làm liều để có tiền tiêu xài.

Nguyên nhân thứ hai là người có tài sản đã gieo nhân trộm cướp, lường gạt, bóc lột, làm những điều phi pháp giành lấy của cải về mình trong đời trước hoặc đời hiện tại, quả báo ấy dẫn đến việc ngày nay bị trộm cướp.

Nguyên nhân sâu xa muốn nói ở đây là “nhân nào quả nấy.” Người trong quá khứ do tham lam đã làm nhiều điều bất thiện, gây đau khổ cho người về phương diện vật chất. Cái nhân tham lam, bất thiện ấy dẫn đến ngày nay tài sản của mình bị lòng tham của kẻ khác dòm ngó, để ý. Họ tìm cách chiếm đoạt tài sản mình bằng nhiều hình thức, tùy theo mức độ của nhân xấu mình đã gieo mà tương ưng cho cách thức và mức độ tài sản của mình bị trộm cướp.

Vì vậy, người ăn lành, ở hiền, chăm làm phước đức sẽ tránh được tai họa của nhà trộm cướp này xảy đến cho mình.

4- Nhà vua quan tịch thu:

Thời phong kiến xưa, vua chúa làm chủ trị vì thiên hạ, mọi quyền hành tập trung vào nhà vua. Vì vậy, người nào phạm tội, vua muốn xử tội thế nào là cấp dưới phải thi hành thế ấy. Theo quan niệm thời ấy, vua là Thiên tử (con trời) thay trời trị vì muôn dân. Từ đó, vua muốn làm gì thì làm, trong triều không ai dám ngăn cản. Khi xét xử quan lại hay dân chúng tham ô gian dối hay nghi ngờ làm tổn hại đến triều đình, vua đứng ra xét xử tùy theo tội mà phán, có nhiều hình phạt rất khắc nghiệt như “tru di tam tộc” (giết sạch ba họ, nội, ngoại và vợ) tru di cửu tộc (giết sạch chín họ) hay tịch thu hết sạch tài sản rồi đày đi nơi hoang vắng xa xôi tự kiếm sống… để trừ hậu hoạ. Tất cả những điều này đến với ai cũng đều do nhân quả nghiệp báo xấu từ trước mà ra. Thấu rõ chỗ này, chúng ta phải ăn ở hiền lành, làm việc phước đức mới mong thoát khỏi bị nạn này.

Ngày nay tuy không còn chế độ phong kiến do vua đứng đầu toàn quyền phán xử, nhưng luật pháp hiện hành vẫn có những điều khoản, khung hình phạt rất nghiêm, rất nặng như án tử hình, tù chung thân hay tịch biên tài sản v.v… Có người không phạm tội, nhưng do tang chứng, vật chứng không thể chối cải, thanh minh không được “tình ngay lý gian” nên phải chịu tội oan. Những trường hợp bị oan nghiệt như vậy là do quả báo nghiệp xấu người ấy đã gây tạo trong kiếp trước, nay mới hội đủ nhân duyên trổ ra.

5- Nhà con cái bất hiếu phá sản:

cha mẹ, ai cũng đều thương con cái của mình, lúc nào cũng muốn cho con được sung túc, đầy đủ, no ấm. Cha mẹ luôn luôn sẵn sàng dang tay đùm bọc, chở che con cái, thậm chí đôi lúc phải làm việc bất thiện để bảo hộ cho con.

Nhiều ông cha, bà mẹ vì muốn cho con được no đủ, nên phải làm lụng đầu tắt mặt tối ít có dịp tiếp xúc dạy dỗ con cái. Vì quá bận bịu lo kinh doanh, buôn bán, tạo ra của cải, để con cái buông lung muốn gì làm nấy, cung cấp tiền bạc không cần tìm hiểu nguyên do. Từ đó, tạo cho con cái tính ỷ lại vào cha mẹ, sự nghiệp gia đình, không lo tu thân, học hành, mặc tình ăn chơi trác táng, sa đọa, kết bè kết bạn với người xấu ác, rồi rơi vào tình trạng nghiện ngập, hút chích…

Chúng ta thấy không ít gia đình, cha mẹ làm lụng vất vả cả đời, chỉ vì thương con mà trong phút chốc bị tan nhà, nát cửa, phải chịu cảnh khổ đau, nghèo đói.

Chúng tôi biết một bà mẹ nọ có hai đứa con trai, bà tuy lớn tuổi nhưng còn nhan sắc xinh đẹp, kiều diễm. Bà cặp bồ với những ông nhà giàu lớn tuổi, rồi lường gạt lấy tiền đem về cung cấp cho hai đứa con. Hai đứa con trai của bà rất ngỗ nghịch, không chịu học hành hay làm ăn gì cả, mà chỉ chờ mẹ đem tiền về tiêu xài mà thôi. Vì không công, rỗi việc, nên chúng thường giao du với đám bạn bè xấu, cuối cùng hai đứa đều sa vào con đường nghiện ngập, hút chích xì ke. Từ đó số tiền chúng cần để chi tiêu mỗi ngày một nhiều hơn. Vì thương con bà tìm đủ phương cách để lường gạt nhân tình của mình đem về chu cấp.

Đến lúc hai đứa bị công an bắt đưa vào trung tâm cai nghiện, thay vì khuyên giải con mình từ bỏ tệ nạn, bà lại lo sợ các con thiếu ma túy bị cơn nghiện hành hạ không chịu nỗi. Bà tìm môi giới, móc ngoặc với cán bộ quản lý trung tâm tiếp tế ma túy để các con sử dụng. Kết quả một đứa bị chết trong trại cai nghiện do dùng thuốc quá liều từ lượng thuốc bà chuyển vào để chúng dùng nhiều ngày. Và chỉ trong chưa đầy hai năm, bà đã phải bán hết nhà cửa, còn nợ nần nhiều người. Cuối cùng bà phải ở nhà mướn.

Vì thương con một cách mù quáng bà phải chịu cảnh tan nhà nát cửa, sống đời bần cùng, người thân không ai dám giúp vì sợ liên lụy.

Làm mẹ cha ai chẳng thương con? Nhưng chúng ta phải thương con như thế nào cho đúng cách để giúp chúng được trưởng thành. Đừng thương con theo kiểu bà mẹ ấy thì thật nguy hiểm cho con, cho mẹ, cho cả gia đìnhxã hội. Chúng ta phải dạy con cái biết giá trị của cuộc sống bằng tinh thần tự lập, không ỷ lại vào gia đình, đặc biệt cần dạy con cái biết nhận thức đúng đắn về nhân quả, nghiệp báo để tạo cho chúng cuộc sống có giá trị, ý nghĩahạnh phúc lâu dài

Để minh họa thêm cho nhà con cái bất hiếu, phá sản, chúng ta cùng nghe câu chuyện nhân gian sau đây:

Trong một làng nọ, nhà ông Nghèo và nhà ông Giàu ở gần nhau. Ông Giàu là một điền chủ khá giả nhất trong làng. Còn ông Nghèo là người làm mướn cho gia đình ông Giàu, nhưng đam mê uống rượu, đánh bài nên tháng nào ông cũng thiếu nợ ông Giàu. Vì vậy ông Nghèo làm mướn cho nhà ông Giàu quanh năm mà nợ vẫn còn. Rồi một ngày chiến tranh xảy ra, làng của hai ông chẳng may rơi vào vùng chiến sự, cả hai ông không thoát kịp nên bị mất mạng khi hai bên giao chiến ác liệt.

Sau khi chết, linh hồn hai ông đều xuống âm phủ chờ Diêm Vương xét xử. Để việc xét xử cho công bằng, Diêm Vương yêu cầu thuộc hạ cung cấp hồ sơ đầy đủ về mọi hoạt động của hai ông trên trần gian.

Ngày xét xử, Diêm Vương cho gọi hai vong hồn đến và phán rằng:

- Ta thấy trên trần gian Nghèo tuy làm lụng vất vả quanh năm, khổ nhọc thật đấy, nhưng phải tội đam mê cờ bạc và nghiện rượu nên xuống đây mà vẫn còn nợ của Giàu. Để thanh toán món nợ này, ta cho hai ngươi được đầu thai trở lại làm người trong một gia đình làm hai cha con với nhau. Vì Nghèo thiếu nợ Giàu nhiều, bây giờ ta cho Giàu làm cha của Nghèo để bắt Nghèo nuôi nấng mà trả nợ.

Nghe Diêm Vương phán vậy, Giàu không chịu, van xin Diêm Vương xét lại. Diêm chúa lại phán:

- Vậy thì ta cho ngươi đầu thai về Trần làm mẹ của Nghèo được không?

 Giàu cũng không chịu, Diêm Vương hỏi:

 - Vậy ngươi muốn như thế nào?

 Giàu trả lời một câu chắc nịch:

 - Dạ, thưa Diêm Vương, con muốn làm con của Nghèo.

Nghe vậy, Diêm Vương hỏi:

- Tại sao ngươi muốn làm con của Nghèo?

- Thưa Ngài, bởi vì làm con là sướng nhất, lúc ấy con tha hồ đòi nợ, con đòi đủ thứ, đòi nợ công khai, đỏi thứ gì Nghèo cũng phải chìu không dám trái ý...

Chúng ta thấy cha mẹ lo cho con thế nào? Có phải là nợ phải trả hay không? Lúc nhỏ thì bên ướt mẹ nằm, bên ráo con lăn, cha mẹ phải lo cho con uống ăn đầy đủ, mỗi khi trái gió trở trời con đau là mẹ đứng ngồi không yên, phải thức suốt đêm lo lắng, chăm sóc không dám than phiền. Lớn lên một chút là phải lo cho ăn học, dù tốn kém bao nhiêu cha mẹ cũng nai lưng ra làm, dù nợ nần cũng cắn răng chịu đựng. Rồi lo công ăn việc làm, dựng vợ gã chồng cho nên bề gia thất, phân chia tài sản cho con … Như vậy có phải là cha mẹ trả nợ cho con không? Trả cho đến khi nào hết nợ mới thôi. Lỡ như kiếp này trả chưa hết thì kiếp sau đầu thai lại trả tiếp.

Câu chuyện trên cho ta một bài học lý thú về trả món nợ đời. Những người nợ nần với nhau kiếp này chưa thanh trả cho nhau, kiếp sau dễ làm cha mẹ con cái của nhau để đòi, để trả với nhau. Muốn đòi được món nợ tiền khiên, tốt nhất là đầu thai làm con đòi nợ. Vì cha mẹ nào cũng thương con, do tình máu mủ ruột rà luyến ái nên cha mẹ chẳng bao giờ bỏ con, chỉ có con bỏ cha mẹ mà thôi. Vì vậy, những người cùng gia đình, họ hàng thân thuộc thương yêu nhau hay gây khổ đau cho nhau đều là oan gia trái chủ của nhau cả.

Đây chỉ là một khía cạnh trong vấn đề nhân quả mà thôi, chứ thực ra được sinh ra làm người trong một gia đình với nhau phần lớn là do phước đức mà thành. Bởi vì chúng ta thấy cha mẹ nào cũng thương yêu con cái mà lo tròn bổn phận, trách nhiệm, thấy con cái mạnh khỏe, thành đạt lấy làm hạnh phúc, vả lại con cái nào cũng biết thương yêu, hiếu thảo với ông bà cha mẹ. Rất ít gia đình con cái bất hiếu phá sản không biết đạo lý làm người mới rơi vào nạn nhà thứ 5 này mà thôi.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 163)
Tín ngưỡng Dược Sư với đại diện là thế giới Lưu ly nằm ở phương Đông mà nó tương tự với các cõi Tịnh độ khác, đều dùng việc
(Xem: 215)
Hai câu hỏi hiện lên trong đầu tôi khi nghĩ về giáo lý vô thường liên quan đến cuộc đời tôi.
(Xem: 409)
Lôgic học là một ngành học có mục đích xác định các quy tắc vận hành của tư duy để tìm kiếm sự thực.
(Xem: 308)
Trong quá trình hình thành và phát triển xã hội, con người luôn khát khao tìm cầu hạnh phúc, thỏa mãn nhu cầu về vật chất và tinh thần.
(Xem: 338)
Tuệ là trí tuệ tức cái biết, thức là nhận thức cũng là cái biết. Cả hai đều là cái biết nhưng có đặc điểm khác nhau.
(Xem: 386)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau
(Xem: 622)
Ở trên là hai câu đầu trong bài kệ Lục Tổ Huệ Năng khai thị nhân bài kệ của thiền sư Ngọa Luân. Câu chuyện được thuật lại trong Pháp Bảo Đàn Kinh, phẩm Cơ Duyên thứ 7.
(Xem: 679)
Chữ “Tăng đoàn” là một thuật ngữ tiếng Phạn, có nghĩa là “cộng đồng” và được sử dụng chủ yếu để chỉ những tín đồ đã xuất gia của Đức Phật,
(Xem: 638)
Tóm tắt: Phật giáo là tôn giáo được biết đến như một hệ thống triết học mang đậm chất tư duy, trí tuệ cùng giá trị đạo đức cao.
(Xem: 685)
Mỗi người hiểu về nghiệp theo mỗi kiểu khác nhau tùy vào nhận thức và trải nghiệm bản thân, nhưng phần lớn vẫn chịu ảnh hưởng của cách hiểu trong dân gian về khái niệm của từ này.
(Xem: 600)
Từ ngàn xưa cho đến thời điểm xã hội phát triển mạnh mẽ về mọi mặt như hiện nay, mặc dù nền văn minh có bước tiến bộ vượt bậc
(Xem: 541)
iáo lý Duyên khởi được xem như chiếc chìa khóa mở ra kho tàng pháp bảo Phật giáo, vì có thể giải quyết những vấn đề của khổ đau, cả sự sanh ra hay chết đi của con người.
(Xem: 594)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 686)
Những nhu cầu của con người sinh học thì giản dị, khi đói chỉ mong được ăn, khi khát mong được uống, khi mệt mong được nằm,
(Xem: 702)
Khi thân thể tiều tụy chỉ còn da bọc xương, những khổ thọ chết người đều đã trải qua,
(Xem: 800)
Trong quá trình thuyết giáo của đức Phật, những lời dạy của Ngài không được lưu giữ dưới dạng văn bản chữ viết
(Xem: 598)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 492)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào cho thích hợp với căn cơ của mình
(Xem: 574)
Trọng tâm của triết học Phật giáohọc thuyết nổi tiếng về tính không - rằng tất cả chúng sinhhiện tượng đều trống rỗng về bản chất hay bản chất cố hữu.
(Xem: 669)
Vô phân biệt được nói đến nhiều lần trong Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật.
(Xem: 588)
Theo lý Duyên Khởi của đạo Phật, tất cả vạn hữu vũ trụ được hình thành do yếu tố hòa hiệp của nhơn duyên và sẽ đi đến phân ly do duyên tan rã.
(Xem: 591)
Cuộc chiến đấu mới–Sau khi Đức Phật nhập diệt, hình bóng của ngài vẫn hiện ra trong hàng thế kỷ trong một hang động–một hình bóng rất lớn
(Xem: 695)
Như Nietzsche khuyên răn chúng ta hãy lại bắt đầu học làm mới bằng cách để ý đến những việc ‘tầm thường’ và sự vận hành của ‘thân’ để xác định
(Xem: 710)
Tôi nghĩ là làm một việc có lý khi bác bỏ tuyên bố của Nietzsche rằng đạo Phật là một dạng của ‘thuyết hư vô thụ động,’ rằng đạo Phật truyền dạy
(Xem: 703)
Đặt vấn đề có phải đạo Phật là một dạng của ‘Chủ thuyết hư vô thụ động’ có nghĩa là đặt vấn đề liệu summum bonum[1] của đạo Phật,
(Xem: 769)
Dù có nhiều tác phẩm đa dạng về Phật học thích dụng ở Châu Âu thời kỳ trước Nietzsche,
(Xem: 794)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 769)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào
(Xem: 961)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông,
(Xem: 828)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1388)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển
(Xem: 913)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định.
(Xem: 1078)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh,
(Xem: 832)
Thay vì tìm hiểu nguồn gốc tại sao phải chịu luân hồi sinh tử, con người không ngừng tìm kiếm căn nguyên của vũ trụ vạn vật, nơi mình sinh ra;
(Xem: 1061)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết
(Xem: 993)
Danh từ nghiệp hay karma (skt.) được đề cập thường xuyên trong các luận giải về tư tưởng triết họctôn giáo Ấn-độ.
(Xem: 980)
Tứ quả là bốn quả vị sai biệt của các bậc Thánh Thinh Văn thừa, tùy thuộc vào trình độ căn cơ của hành giả đã đạt được sau khi tu tập
(Xem: 1122)
Sau khi hoàng hậu Ma-da (Mayā) quá vãng, vua Tịnh Phạn (Suddhodana) tục huyền với Mahāpajāpatī Gotami và bà đã xuất gia
(Xem: 1400)
Kinh Pháp Hoa dạy rằng: “Đức Phật ra đời vì một đại nhân duyên. Đó là khai thị cho chúng sanh liễu ngộ Phật tri kiến nơi mình”.
(Xem: 1745)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(Xem: 971)
Các câu hỏi, không khác với câu khẳng định, dựa trên các giả định.
(Xem: 1160)
Đối với những người nhìn vào Phật giáo qua phương tiện tiếng Anh, việc thực hành lòng từ bi và sự xả ly có thể không tương thích với nhau,
(Xem: 970)
Từ khi đức Phật xác lập: “Mọi vật đều vô thường, mọi vật đều vô ngã”, thường được diễn tả với danh từ Sarvam Sùnyam (mọi vật đều Không).
(Xem: 818)
Trong lịch sử Thiền Tông Việt Nam, Thiền sư Trần Thái Tông (1218-1277) được kể như một nhân vật vô cùng đặc biệt, với nội tâm giác ngộ cao siêu,
(Xem: 949)
Trước đây qua giáo lý của Đức Phật chúng ta hiểu rằng Đạo Phật là đạo xây dựng trên nền tảng trí tuệ, tức dùng sự giác ngộ, hiểu biết
(Xem: 972)
Thiền sư Trần Thái Tông (1218 -1277) một vị thiền sư siêu việt, ông vua anh minh, nhà tư tưởng lớn, một nhân cách cao cả.
(Xem: 1395)
Nhận thức rằng tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi khổ đau lớn, nên đức Phật mới đi tìm chân lýgiác ngộ chân lý.
(Xem: 1143)
Khi đức Phật còn tại thế, Ngài đã quy chế cho cộng đồng Tăng phải an cư ba tháng mùa mưa, ngày nay lịch an cư tùy hệ phái, từ rằm tháng tư đến rằm tháng bảy theo truyền thống Phật giáo Bắc phương;
(Xem: 1174)
Trung đạo là khái niệm được dùng khá nhiều trong Phật giáo. Tùy duyênTrung đạo được định nghĩa khác nhau,
(Xem: 924)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 1068)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
(Xem: 1518)
Con người sống trong một thế giới mà đối với anh ta dường như là một cái gì đó hoàn toàn tách biệt với chính anh ta.
(Xem: 1398)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người, mà qua đó nhân quả được coi như là một luật tắc không thể thiếu được khi hình thành một xã hội nhân bản đạo đức.
(Xem: 1391)
Bất hạnh lớn nhất của Phật tử chúng ta là sinh ra vào một thời không có Phật. Một mất mát lớn, gần như không gì có thể thay thế. Hơn thế nữa, bất hạnh này đang trở thành một nỗi ám ảnhchúng ta không thể nào dứt bỏ trong cuộc hành trình dài, đơn độc qua bao vòng xoáy của kiếp người chúng ta không biết mình đang ở đâu và sẽ đi về đâu trong chuyến di này.
(Xem: 980)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại, tôi trích đoạn trong tác phẩm lịch sử của tôi đang viết chưa hoàn thiện, có nhắc đến công trạng của ngài, như dâng lên tấm lòng tưởng niệm đến bậc Long tượng Phật giáo.
(Xem: 1375)
Trúc Đạo Sinh, người họ Ngụy 魏, sinh ra[1] khi gia đình cư ngụBành Thành 彭城, nay là Từ Châu 徐州 phía Bắc tỉnh Giang Tô 江蘇. Nguyên quán gia đình trước ở miền Tây Nam, tỉnh Hà Bắc, sau chuyển về huyện Cự Lộc 钜鹿.
(Xem: 1289)
Nói về vấn đề “trước nhất”, Kinh Phạm Võng với nội dung cốt yếu giới thiệu về quan điểm của các phái ngoại đạo, chính là bộ kinh đầu tiên trong Trường Bộ.
(Xem: 1213)
Lý tưởng về một vị Bồ tát bắt nguồn từ Phật giáo Nguyên thủy và được phát triển hoàn thiện trong tinh thần Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 1253)
Khi học sinh từng người, từng người tốt nghiệp rời khỏi Phật học viện rồi, tôi bắt đầu xây dựng Biệt phân viện[1]khắp nơi, để ...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant