Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Chương X: Khuyên In Bố Thí

24 Tháng Giêng 201100:00(Xem: 10705)
Chương X: Khuyên In Bố Thí

VẠN PHÁP QUI TÂM LỤC
Thiền Sư Tổ Nguyên 
Việt dịch: Tỳ Kheo Thích Đắc Pháp

CHƯƠNG X
KHUYÊN IN BỐ THÍ

Sự phu diễn chánh pháp công đức vượt hơn hằng sa. Lưu truyền chí lý, phúc lợi hơn hư không lớn. Hằng sa vô số, hư không lớn vô ngần. Việc lợi sanh thí pháp công đức vượt hơn hai thí dụ nầy – Cớ sao công đức vô lượng như vậy? – Một là làm cho người chưa tin trở thành chánh tín, nhiếp về một niệm chẳng dong ruổi tìm cầu bên ngoài. Hai là khiến người đã tin giúp thành quán lực, lý và hạnh kiên cố, mau chứng bồ đề, giống như đi xe rộng lớn. Dựng lập Bảo Phường (tàng kinh các). Như đi thuyền chắc chắn đến bờ giác.

Kinh Lăng Nghiêm nói: “Phật bảo A Nan! Nếu lại có người mang bảy báu chứa đầy cả mười phương hư không, đem dâng cho chư Phật như vi trần, và thừa sự cúng dườngtâm không chút sơ sót, ý ông nghĩ sao? Người nầy dùng nhơn duyên bố thí cho chư Phật như vậy được phước nhiều chăng?”

A Nan đáp: Hư không vô tận, trân bảo vô ngằn. xưa có chúng sanh thí Phật bảy quan tiền, khi xả thân còn được làm vị chuyển luân vương. Huống lại hiện tại, hư không vô cùng, Phật độ đầy khắp mà đều thí trân bảo, thì cùng kiếp nghĩ bàn cũng không hết được cái phước của người nầy, rằng sao lại có bờ mé?

Phật bảo A Nan! Chư Phật Như Lai, nói không hư dối. Nếu lại có người thân tạo đủ bốn trọng tội và mười ba la di tội, chỉ trong chớp mắt liền trải qua địa ngục A Tỳ ở phương nầy hay phương khác, cho đến địa ngục vô gián khắp mười phương đều trải qua. Nếu người nầy chỉ khởi một niệm rằng “đem pháp môn nầy khai thị cho chúng sanh ở mạt kiếp”, thì tội chướng người nầy liền theo niệm ấy mà tiêu diệt. Biến địa ngục khổ mà họ đã thọ thành nước an lạc, được phước còn hơn người bố thí bảy báu trước gắp trăm, ngàn, muôn ức, như vậy cho đến tính, đếm, thí dụ không thể kịp. Tán thán và hoằng dương kinh nầy lợi ích không ngằn”.

Kinh Kim Quang Minh nói: “Thí pháp cho người có năm điều lợi ích thù thắng. Những gì là năm? Một là pháp thí gồm lợi, tài thí không bằng. Hai là pháp thí hay làm cho chúng sanh ra khỏi ba cõi, còn phước của tài thí chẳng ra khỏi dục giới. Ba là pháp thí hay tịnh pháp thân, còn tài thí của tăng trưởng nơi sắc. Bốn là pháp thí vô tận, còn tài thí có chừng. Năm là pháp thí hay đoạn được vô minh, còn tài thí chỉ đè được tham ái. Cho nên, nầy thiện nam tử! Công đức vô lượng vô biên khó thể thí dụ”.

Lại Kinh Kim Cang nói: “Bố thí bảy báu đầy khắp tam thiên đại thiên thế giới, chẳng bằng thọ trì bốn câu kệ và vì người khác giảng nói thì phước của người ấy còn hơn sự bố thí bảy báu kia”.

Như có người thiện nam tín nữ nào, phát tâm khắc bản in bố thí truyền bá, khiến pháp giới chúng snah đốn ngộ tối thượng thừa, đều đến cõi Phật, đồng chứng bồ đề, thì công đức vô biên, khó nói hết.

Vạn pháp qui tâm lục
Nói thẳng chẳng dấu diếm

Hay mở mắt thanh tịnh

Khéo chỉ tâm niết bàn.

Ba đạo từ đây vào

Trăm nhọc chớ tìm ngoài

Có người in trăm bản

Hơn thí một thuyền vàng.

HẾT

LỜI BẠT

Nhứt tâmtổng tướng của muôn pháp, muôn pháp là biệt tướng của nhứt tâm. Tâm có hai loại chơn vọng chẳng đồng. Nương vào chơn tâm mau chứng bồ đề. Đuổi theo vọng tâm thì trôi nổi trong sanh tử. Chơn tâm vọng tâm nên biết là bản thể. Chơn tâm là cái biết mầu nhiệm: không biết mà biết. Vọng tâm là cái biết của thức: có biết mà biết. Không biết mà biết thì viên minh tịch chiếu. Có biết mà biết thì niệm niệm sanh diệt.

Đại sư khởi lòng từ, mượn văn vấn đáp để biện minh chơn tâm, chỉ trần nẻo tu chứng. Từ đầu chí cuối mỗi lời đều khế lý. Quyển Lục nầy truyền bá ở đời như ngọn đèn sáng suốt hay phá được đêm dài vạn kiếp, mà thẳng đến Bảo sở. Thực là pháp quí, hẳn là pháp quí. Tôi xem quyển Lục nầy không thôi, và lại đọc nó đề làm lời bạt.

Thể Như Cư Sĩ Lưu Phương kính bạt.

LỜI SAU SÁCH

Thiền sư Tổ Nguyên biện luận về Nho giáoĐạo giáo, có nhiều phát minh và lý luận rất xác đáng. Như điều “cách vật”, lấy vật làm tình thức. Đây là cái học của ông Dương Minh.

Họ Vương nói: “Không thiện không ác là thể của tâm”. Dạy người không dính điều thiện, không mắc việc ác. Chỗ này gọi là tâm chơn như. Có thiện có ác là sự dấy động của ý. Thiện ác do ý động mà sanh. Vì do bất giác mà có tâm sanh diệt. Biết thiện ácđạt đến lương tri. Lương tri cùng với thức tri chẳng đồng. Lương tri tức là Diệu giác, tức là bản giác, tức là diệu quan sát trí. Muốn đạt đến lương tri nầy, trước hết là phải chẳng bị vật dục che, là làm việc thiện, bỏ việc ác, tức là cách vật. Việc này Mạnh Tử bảo rằng “cơ quan của tai mắt”. Không nghĩ mà không bị che bở vật. Chữ vật giảng là tình thức, thì nhứt định cách đi cái vật dục nầy rồi sau mới có thể thành ý, chánh tâm vậy.

Vạn vật trong thiên hạ đều sai khác, làm sao xét cho cùng mỗi vật? Chỉ có vật dục của tâm người, tức là ác. Bỏ cái ác vật dục kia thì việc lành của bản tâm mới hiện. Không ác liền là thiện. Tên thiện ác cũng chẳng lập.

“Khắc kỷ phục lễ”, Kỷ tức là vật. Nếu đem mỗi vật ra mà xét, thì tâm đã loạn rồi, làm sao có thể thành ý? Há chẳng nghe nói sự rộng lớn của trời đất, dù là thánh nhơn cũng có chỗ chẳng biết, có chỗ chẳng thể làm. Cái trí của Nghiêu Thuấn còn chẳng thể hiểu khắp muôn vật thay. Huống là vật trong thiên hạ cũng có ra ngoài cái thường lý ấy. Chẳng phải tánh linh của tâm con người có thể học tất cả được? Phàm vật trong thiên hạ nhơn cái lý đã biết kia mà hiểu rốt cùng của nó.

Khán thoại đầu của Thiền tông, tức là đề khởi một chữ một câu từ chỗ có đạo lý, mà đến chỗ không đạo lý. Một niệm gậm mãi một chỗ, mắt nhìn mãi một nơi, dựng dậy xương sống suốt năm suốt tháng. Chợt một hôm toàn thân xuất mồ hôi, thoắt ngộ được bản tâm, thấy được bản tánh mình. Chỗ ấy gọi rằng dụng sức lâu mà một ngày rỗng rang thông suốt.

Phải biết, tham thiền chẳng qua là mượn câu thoại đầu để cột vọng tâm, một chỗ chớ chẳng phải trong câu thoại đầuđạo lý gì? Phật nói: “Dừng tâm một chỗ, không việc gì chẳng xong”.Đạo giáo nói: “Được cái một, muôn sự xong”. Kinh Di Đà nói: “Một tâm không loạn”. Trang Tử nói: “Dùng chí chẳng lăng xăng mới ngưng được thần”. Khổng Tử nói: “Đạo ta dùng lý một mà quán thông tất cả”. Mạnh Tử nói: “Muôn vật đều đủ ở ta; đâu cần xét ở muôn vật”?

Cho đến sách của Đạo gia, chỉ có Đạo Đức kinh, Thanh Tịnh kinh là chơn. Ngoài ra các sách khác như Âm Phù, Huỳnh đình, Tham Đồng, Ngộ chơn. Tất cả đều từ trên xác thân mà mò mẫm. Sự thành tựu của nó chẳng qua là mười hai loại Tiên trong kinh Lăng Nghiêm nói mà thôi.

Địa vị của Tiên gia đâu không có cao thấp, tất cả đều do công hạnh có sâu cạn. Nếu xét về các bậc thượng thánh từ xưa đến nay, bậc cao chơn “Luyện thần hoàn hư, luyện hư hợp đạo” cũng ra ngoài ba cõi, đến đất Như Lai, đều cùng Khổng thánh đồng vai. Chẳng như vậy thì Lão Tử cũng sẽ đoạ lạc, làm sao ba đạo đồng hành chẳng trái ư?

Chùa Phổ Độ, Thừa công (ông Thừa) (16) nhơn tham thiền ngộ đạo, mà còn thông cả sách Nho và sách Đạo. Thực là hay ở trên một từng cao tột, nên thấy được rõ ràng. Ngài đã trước tác quyển Duy Tâm Tập và Kệ Niệm Phật là gì (niệm Phật thị thuỳ?) hầu dẫn đạo cho quần mê, tận tình bày tỏ. Thật là ngọn đèn trong nhà tối. Tôi thì ít thấy ít biết, ấn chứng dưới toà, đáng được một gậy chăng?

Tháng Xuân Vương, năm thứ 34
đời cua Quang Tự Đổng Hư Tử,
tên quang Phất kính ghi
(T.L 1908)













Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 33113)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(Xem: 6516)
Phật Đà Thập Đại Đệ Tử Tán - Hòa thượng Tuyên Hóa giảng thuật, Nguyễn Minh Tiến Việt dịch
(Xem: 11238)
Các tác phẩm của Thầy phần lớn được dịch từ Hán tạng, gồm giới kinh và các nguồn văn học Phật giáo Đại thừa với tư tưởng uyên thâm về triết họctâm lý học.
(Xem: 30386)
Đã phát khởi chí nguyện Đại thừa, lại kiên quyết thực hiện chí nguyện ấy, đó thực sự là cung cách hùng dũng của con sư tử đang vươn mình, và do đó phải được nhìn đến bằng cung cách của con voi chúa.
(Xem: 30424)
Vua và phu nhân gởi thơ cho Thắng Man, đại lược ca ngợi công đức vô lượng của Như Lai, rồi sai kẻ nội thị tên Chiên Đề La đem thư đến nước A Du Xà... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 7961)
Tất cả các nhà đạo học và thế học muốn thành tựu kết quả tốt đẹp trong cuộc đời, thì trước hết, họ phải trải qua quá trình kham nhẫn, nỗ lực, tu, học, rèn luyện tự thân, giúp đỡ, và đem lại lợi ích cho tha nhân.
(Xem: 12154)
Bảy Đức Thế Tôn quá khứ từ Thế Tôn Tỳ Bà Thi, Thế Tôn Thích Ca, và chư Thế Tôn vị lai đều chứng ngộ Vô Thượng Bồ Đề từ sự chứng ngộ sự thật Duyên khởi.
(Xem: 12227)
Trong các bản Kinh Pháp Cú, phổ biến nhất hiện nay là Kinh Pháp Cú Nam Truyền, tức là Kinh Pháp Cú dịch theo Tạng Pali.
(Xem: 11577)
Có lần Đức Phật sống tại Rajagaha (Vương Xá) trong Khu Rừng Tre gần Nơi Nuôi Những Con Sóc. Lúc bấy giờ, vị Bà La Môn tên là Akkosa Bharadvaja đã nghe người ta đồn đãi như sau:
(Xem: 12776)
Tôi nghe như vầy. Có lần Đức Phật, trong khi đi hoằng pháp ở nước Kosala nơi có một cộng đồng rất đông Tỳ Kheo, ngài đi vào một tỉnh nhỏ nơi cư trú của người Kalama
(Xem: 34704)
Quy Sơn Cảnh Sách Học Giải - Tác Giả: Thiền Sư Quy Sơn Linh Hựu; Thích Thiện Trí (Thánh Tri) Phỏng Việt Dịch và Viết Bài Học Giải
(Xem: 9823)
Kinh này khởi đầu bằng lời người Bà La Môn hỏi rằng làm thế nào người ta có thể tự thanh tịnh hóa khi nhìn thấy một vị Thượng nhân đã Thanh tịnh,
(Xem: 52233)
Nguyên xưa ngài Quán Nguyệt Pháp sư đem hai thời kinh khóa tụng: Mai đóng chung và chiều nhập chung lại làm một đại thể làm một tập lớn. - Chú giải: Ngài Quán Nguyệt; Dịch giả: HT Thích Khánh Anh
(Xem: 10720)
Tôi nghe như vậy: Một thời, đức Thế Tôn trú tại thành phố Śrāvastī (Xá-vệ), nơi rừng cây Jeta (Kì-đà), vườn của Ông Anāthapiṇḍada (Cấp-cô-độc),
(Xem: 10489)
Bài kinh này trong đoạn cuối (bài kệ 787), câu “không nắm giữ gì, cũng không bác bỏ gì” được Thanissaro Bhikkhu ghi chú rằng ...
(Xem: 10691)
Lúc bấy giờ, Bồ tát Đại sĩ Akṣayamatir[1] từ chỗ ngồ đứng dậy, vắt thượng y[2] qua một bên vai, chắp hai tay[3] hướng về đức Thế Tôn và thưa rằng:
(Xem: 10441)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào?
(Xem: 13049)
Đại ý bài kinh này Đức Phật dạy chúng đệ tử không nên truy tìm quá khứ, không nên ước vọng tương lai vì quá khứ đã đoạn tận.
(Xem: 16223)
Evaṃ me sutaṃ, “như vầy tôi nghe”, là lời Ngài Ananda bắt đầu mỗi bài kinh mà có lẽ không Phật tử nào là không biết.
(Xem: 21802)
Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538), thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm.
(Xem: 9590)
Phật dạy giới này áp dụng chung cho tất cả các Phật tử tại gia, không phân biệt Phật tử này thuộc thành phần hay đẳng cấp xã hội nào.
(Xem: 7098)
Sa-môn Thích Đàm Cảnh dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, vào thời Tiêu-Tề (479-502). Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn, tại Canada, năm 2018.
(Xem: 10369)
Đức Phật A Di Đà tự thân có ánh sáng vô lượng, chiếu khắp cả mười phương mà không có vật gì có thể ngăn che. Vì vậy nên Phật A Di Đà có nghĩa là Vô Lượng Quang Phật.
(Xem: 12707)
Nguyên tác Hán văn: Tì-kheo Linh Diệu, tông Thiên Thai soạn - Dịch sang tiếng Việt: Thích Thọ Phước
(Xem: 12757)
Ngài Buddhaghosa sanh ra và lớn lên nước Magadha, thuộc Trung Ấn Độ, vào thế kỷ thứ V trong ngôi làng Ghosa, gần địa danh nơi đức Phật thành đạo Bodhigaya
(Xem: 16203)
Nghiên Cứu Về Kinh A Hàm (Ãgama, Sanscrist)
(Xem: 16504)
Ai nói như sau, này các Tỷ-kheo: "Người này làm nghiệp như thế nào, như thế nào, người ấy cảm thọ như vậy, như vậy".
(Xem: 13833)
Đây là những điều tôi nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Cấp Cô Độc trong vườn cây Kỳ Đà ở thành Vương Xá.
(Xem: 16551)
Vào thời Đức Thích-ca-mâu-ni, không có hệ thống chữ viết được phổ biếnẤn Độ. Do đó, những thuyết giảng của Ngài được ghi nhớ và ...
(Xem: 12091)
"Lại nữa, lúc bấy giờ Mahāmati thưa rằng: “Bạch Thế Tôn, ngài đã từng dạy rằng: từ lúc Như Lai chứng nghiệm giác ngộ cho đến...
(Xem: 13778)
Kinh Địa Tạng là một trong các kinh Đại thừa được phổ biến rộng rãi trong quần chúng Việt Nam từ hơn nửa thế kỷ nay song song với các kinh Kim Cương, Di Đà, Phổ Môn...
(Xem: 14300)
Nguyên tác: Tôn giả Thế Thân (Acarya Vasubandhu) - Hán dịch: Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng; Việt dịch: Tỳ khưu Tâm Hạnh
(Xem: 9176)
No. 1613 - Nguyên tác: Tôn giả An Huệ; Dịch Hán: Tam Tạng Pháp sư Địa-bà-ha-la; Dịch Việt: Tâm Hạnh
(Xem: 11727)
Duy thức nhị thập luận, do bồ tát Thế Thân soạn, ngài Huyền trang dịch vào đời Đường... được thu vào Đại chính tạng, tập 31, No.1590.
(Xem: 11248)
Bồ-tát Trần Na tạo luận. Tam tạng Pháp sư Huyền Trang phụng chiếu dịch. Việt dịch: Quảng Minh
(Xem: 16276)
Nghe như vầy, một thời Đức Phật ở nước Xá Vệ ở vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc cùng chúng đại Tỳ Kheo năm trăm vị. Bấy giờ các thầy Tỳ Kheo...
(Xem: 14324)
No. 699; Hán dịch: Đời Đại Đường, Trung Thiên Trúc, Tam tạng Pháp sư Địa bà ha la, Đường dịch là Nhật Chiếu
(Xem: 16183)
Đức Phật Thích-Ca Mưu-Ni, bắt đầu chuyển pháp-luân, độ cho năm vị Tỳ-Khưu là Tôn-giả Kiều-Trần-Như v.v... Sau cùng, Ngài thuyết pháp độ cho ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 12680)
Kinh Phạm Võng nằm trong Đại Chánh Tạng, tập 24, ký hiệu 1484, gọi đủ là Phạm võng kinh Lô xá na Phật thuyết bồ tát tâm địa giới phẩm đệ thập
(Xem: 12057)
Phật thuyết-giảng Kinh Phạm-Võng để dạy về giới-luật, và các pháp cao-siêu vượt thoát được sáu mươi hai kiến-chấp vốn là các tà-kiến đã...
(Xem: 11778)
Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi, tại Jetavana, vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Độc). Ở đây,,,
(Xem: 15639)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434; Dịch Phạn - Hán: Tam Tạng Cát-ca-dạ, Dịch Hán - Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ; Hiệu đính: HT Thích Như Điển
(Xem: 11494)
Đời Đường, Thận Thủy Sa Môn Huyền Giác Soạn; Thánh Tri dịch nghĩa Việt và viết bài học giải...
(Xem: 14008)
Phật giáo được khai sáng ở Ấn-độ vào năm 589 trước kỉ nguyên tây lịch (năm đức Thích Ca Mâu Ni thành đạo), và đã tồn tại liên tục, phát triển không ngừng trên ...
(Xem: 11992)
Trong truyền thống Phật giáo Bắc truyền, Dược Sư là một bản kinh thường được trì tụng nhằm mục đích giải trừ tật bệnh, cầu nguyện bình an...
(Xem: 12601)
Thích-ca là phiên âm của tiếng Phạn. Phiên âm Hán Việt là Năng Nhân. Tức là họ của đấng hóa Phật ở cõi Ta-bà...
(Xem: 14971)
Kinh chuyển Pháp luân là bài thuyết Pháp đầu tiên của Đức Phật Thích-ca sau khi Ngài đã đắc đạo.
(Xem: 11942)
Ba Ngàn Oai Nghi Của Vị Đại Tỳ Kheo - Được xếp vào tập T24 - Kinh số 1470 - Tổng cộng kinh này có 2 quyển
(Xem: 13103)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 14505)
Satipatthana Sutta là một bản kinh quan trọng làm nền tảng cho một phép thiền định chủ yếu trong Phật giáo là Vipassana...
(Xem: 20652)
Kinh Tứ Thập Nhị Chương là một bài Kinh được truyền bá khá rộng rải ở các Tồng Lâm Tự Viện của Trung QuốcViệt Nam từ xưa đến nay.
(Xem: 13186)
Bản dịch này được trích ra từ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh Vol. 48, No. 2010. Bởi vì lời dạy của Tổ Tăng Xán quá sâu sắc, súc tích, và bao hàm trong 584 chữ Hán,
(Xem: 10921)
Dịch từ Phạn sang Tạng: Kluḥi dbaṅ-po, Lhaḥi zla-ba; Dịch Tạng sang Việt: Phước Nguyên
(Xem: 20663)
Trí Phật là trí Kim – cang, Thân Phật là thân Kim – Sắc, cõi Phật là cõi Hoàng – kim, lời Phật tất nhiên là lời vàng.
(Xem: 14325)
Bấy giờ Hòa Thượng Vakkali nhìn thấy Đức Phật đang đi đến từ xa, và ông đã cố gắng ngồi dậy.
(Xem: 20324)
Xin dâng hết lên Tam Bảo chứng minh và xin Quý Ngài cũng như Quý Vị tùy nghi xử dụng in ấn tiếp tục hay trì tụng cũng như cho dịch ra những ngôn ngữ khác...
(Xem: 17608)
Niệm Phật Tâm Muội do HT Hư Vân soạn, Sa môn Hiển Chơn dịch; Tọa Thiền Dụng Tâm Ký do Viên Minh Quốc Sư soạn, HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 13997)
Khi Bồ-tát Quán Tự Tại hành sâu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, ngài soi thấy năm uẩn đều KHÔNG, liền qua hết thảy khổ ách.
(Xem: 31839)
Viết ra các bài Phật học thường thức này, chúng tôi không có tham vọng giới thiệu toàn bộ Phật pháp và chỉ cốt giúp cho các bạn sơ cơ hiểu được một cách đúng đắn, đạo lý năm thừa trong Phật giáo mà thôi.
(Xem: 11997)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, Kinh văn số 1675. Tác giả: Long Thọ Bồ Tát; Sa Môn Sắc Tử dịch Phạn sang Hán; HT Thích Như Điển dịch Việt
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant