Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Dư Âm từ bài thơ Khúc Ly Đình của Cao Thị Vạn Giã

23 Tháng Chín 201000:00(Xem: 21814)
Dư Âm từ bài thơ Khúc Ly Đình của Cao Thị Vạn Giã

Khúc Ly Đình

Tiễn chân anh tận phi trường
Lỗi đi. Lỗi ở. Mười phương lỗi về
Mù sương phi cảng não nề
Thôi anh ở lại buồn về em mang

Tiễn anh một chén rượu tàn
Một bàn tay nắm một hàng lệ mau
Cuộc cờ thế sự binh đao
Phút giây tái ngộ ngàn sau biết còn

Môi em trong cảnh hao mòn
Một anh đất khách nhớ tròn tháng năm
Trời Tây rẽ bước âm thầm
Ngàn năm mỏi cánh chim bằng tha hương
Cao Thị Vạn Giả

Thơ là một hình thức cô đọng của ngôn từ. Nó mang thêm nhạc tính để chuyên chở rung cảm cho nên bằng một cách tinh vi, lời suối róc rách của nguồn thơ rất dễ thấm nhuần vào tiềm thức của người đọc.

Tôi tình cờ đọc được thơ của Cao Thị Vạn Giả vào lúc còn đang học trung học. Một trong những tiểu thuyết mà tôi từng rất thích là tác phẩm Khung Cửa Hẹp của André Gide, do Bùi Giáng dịch. Tác phẩm được mở đầu bằng hai câu thơ tuy ngắn ngủi nhưng đầy hương vị của tình yêu, đã như một động lực vô hình khiến tôi mua ngay quyễn sách ấy về nhà đọc ngấu nghiến..

Mù sương phi cảng não nề
Thôi anh ở lại buồn về em mang

Hôm nay nhớ lại bài thơ xưa, xin ghi lại những âm điệu du dương của thi ca trong bài thơ Khúc Ly Đình của Cao Thị Vạn Giã, lúc còn là một nữ sinh mới lớn diễn tả về ngày chia tay người yêu sắp phải rời bỏ quê hương đi du học một miền rất xa, với trọn vẹn chân thành của một tình yêu trong trắng, lồng trong khuôn khổ Á Đông trước cảnh chia tay sầu ai nhất đời người thiếu nữ...

Tiễn chân anh tận phi trường
Lỗi đi. Lỗi ở. Mười phương lỗi về

Những cuộc chia lìa sầu ai của trần thế khởi đầu từ đó, sân bay với những con tàu có khả năng mang đi xa biền biệt người mà ta yêu quý nhất. Con người chợt thấy quá nhỏ bé giữa khung cảnh ly biệt của phi trường, chỉ còn duy nhất sự chấp nhận nơi duyên phận, với định kiếp đã an bài.

Lỗi đi. Lỗi ở. Mười phương lỗi về

Đây có thể nói là một trong những câu thơ sâu lắng, đáng yêu nhất của bài thơ này vì nó thốt ra cái nỗi niềm mà phải cân nhiều trang giấy ngôn từ thường tình mới có thể diễn đạt. Đây quả chăng là lời thơ đã được thăng hoa trong những chữ rời. Đi cũng là lỗi, mà nếu ở lại thì cũng không chu toàn nên cũng là lỗi cả. Người ra đi phải bỏ lại cả quê hương, cả người yêu đầu đời và mối tình tha thiết, và ai biết đâu những biến cố tình cãm nào đó sẽ biến đổi con người sau những tháng năm dài theo học nơi trường mới và thầy bạn mới? và cả bao sự đổi thay trong suy tư khi công đã thành, danh đã tọai? Mà nếu chọn lựa ở lại thì càng có lỗi với sự kỳ vọng của gia đình, khi đánh mất một hòai bão của tương lai. Người con trai trong thời chiến có khá ít cơ hội tiến thân, một lựa chọntính cách khước từ cả một tương lai trong sáng để chỉ đánh đổi lấy tình yêu, là điều khó có thể chấp nhận được. Trong vỏn vẹn bốn chữ và hai dấu chấm đó, người thơ như đã trút dài cả mấy dòng sông ai oán bi thương nghiệt ngã của định mệnh vào 1 câu thơ..Thế thì mười phương, bất kỳ chọn lựa nào cũng đều là "lỗi", với ta và với người cả...vậy có phải chăng khi mối tình càng tha thiết con người lại càng là nạn nhân, càng vùng vẫy lại càng bị trói chặc trong khung lưới khắc nghiệt của hoàn cảnh?

Mù sương phi cảng não nề
Thôi anh ở lại buồn về em mang

Hai câu thơ đẹp nhất, tuyệt vời nhất, thi vị nhất, là những ngôn từ mỹ miều của thơ; có đậm nét mỹ thuật như một bức họa hoặc một đọan phim trữ tình...2 câu thơ thôi mà chứa đầy mưa gió và nỗi niềm như một cơn giông bão...Buổi biệt ly với nét huyền hoặc bởi sương mù và giá lạnh nhẹ, càng làm não nề tê tái cuộc phân ly. Một người sẽ ra đi vào một phương trời thật xa như vùng vô tận nào đó. Và người em thiếu nữ cũng lại sắp chia tay anh nơi cổng ra sân bay. Tạm biệt người yêu với những niềm hi vọng tin yêu trân quý, em sẽ ra về trong lẽ loi đơn độc để cưu mang khối ưu buồn diệu vợi mối tình chúng ta.

Tiễn anh một chén rượu tàn
Một bàn tay nắm một hàng lệ mau

Xin tiển chào anh yêu bằng chén rượu, không phải là chén rượu ân tình của hoan ca an lạc mà là chén rượu tàn, như dòng dư lệ của đau thương. Và âu yếm trao về anh không thể là gì khác hơn là một "bàn tay nắm", và một hàng lệ "mau" của một thiếu nữ VN gia giáo. Ôi câu thơ tuyệt vời như chứa đựng được cả thê lương của một chiến tranh đang bùng nỗ trong tâm hồn trong trắng của người thiếu nữ.

Chúng ta có thể rung động theo cãm quan qua ngôn từ, vừa có thể cãm xúc được sự trong sạch hồn nhiên trong tâm hồn thi nhân qua văn phong và điệu nhạc trong thơ.

Thơ là một hình thức cô đọng của ngôn từ. Nó mang thêm nhạc tính để chuyên chở rung cảm, dễ thấm nhuần vào tiềm thức (subconcious mind). Vì thơ chuyên chở những suy tư và rung động của con người nên thơ cũng là một tấm gương phản ảnh văn hoá, tức là những sinh động của một tập thể nói chung. Nếu chúng ta có thể nói con người Tây Phương gần gũi nhiều với lý trí do phần ngự trị của bán phần phân tích của não bộ (logical hemisphere), thì có lẽ chúng ta cũng có thể nói người Đông Phương chịu nhiều ảnh hưởng mạnh của bán phần liên hợp của não bộ (relational hemisphere). Con người phân tích đi sâu vào lý luận, vật chất, gần gũi với những gì chứng minh được một cách hiển nhiên thực tiễn và có khuynh hướng cá nhân chủ nghĩa. Con người liên hợp gần gũi với những trừu tượng, tình cảm, sự liên kết tinh thần, để đi tìm ý nghĩa về vị trí của nhân sinh trong vũ trụ. Khi các âm hưởng trừu tượng của cuộc sống khơi dậy rung động hồn người, lời thơ được bộc phát, để truyền đạt những dư ba âm hưởng tình cảm chan chứa ấy đến người đọc. Bài thơ Khúc Ly Đình của Cao Thị Vạn Giã làm tôi chợt nhớ đến một bài thơ khác mà tôi yêu thich...Bài thơ "Tống Biệt Hành" của Thâm Tâm có một tiết điệu phong vũ, không ủy mị, với nhịp câu độc đáo và vươn mang ẩn uất một chí khí cương quyết:

Đưa người ta không đưa sang sông,
Sao nghe tiếng sóng ở trong lòng?
Nắng chiều không thắm không vàng vọt,
Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong?
Đưa người, ta chỉ đưa người ấy,
Một giã gia đình một dững dưng.
Ly khách! Ly khách! Con đường nhỏ,
Chí lớn chưa về bàn tay không
Thì không bao giờ nói trở lại
Ba năm, mẹ gia cũng đừng mong
Thâm Tâm ("Tống Biệt Hành")

Môi trường thơ là một vùng không gian trừu tượng. Vườn thơ thích hợp với những nét đẹp mỹ miều hay những tình cảm yêu thương man mác, những xúc cảm bâng khuâng mà có thể nói là khó diễn tả bằng các lời văn dông dài của ngôn ngữ văn xuôi. Tựa như triết lý về Thiền, càng cố gắng phân tích nhiều lại càng làm cho Thiền tánh trở nên khô cứng và bị giới hạn trong các phạm trù, khiến cho Thiền cạn đi nét uyển chuyển bao quát và vì vậy càng khó được cảm nhận trực tiếp, dễ làm người đọc bị loạn sắc, như các ngôn từ ý thức hệ phức tạp trong một số sách triết. Tiếng thơ càng hay khi lời buông vừa đủ, mà âm ba còn trải dài mãi như tiếng chuông rơi diệu vợi qua hồn người, tưởng chừng như đi xuyên qua mấy tầng trời đâu xuất vào cõi không gian vô tận.

Tôi đến với thơ cũng hoàn toàn bằng một sự tình cờ như các bạn thân khác yêu văn chương thời mới lớn. Một ước nguyện mà tôi vẫn khao khát là làm sao có được một tuyển tập gồm những áng thơ tuyệt vời của những tác giả mà mình yêu thích để trân quý và thưởng thức...

Từ những dạo còn mài đũng quần thời áo trắng, thơ là một cái gì rất dễ thương do người khác viết, nhưng thật khó khởi đầu khi chính mình muốn viết. Ngày còn học các năm cuối của trung học tôi tập tểnh làm các bài Đường Luật, thấy sao mà khó quá. Các ý tưởng vừà loé lên đều trốn chạy cũng chỉ vì sai niêm, vần, luật. Từ đó bút bị ném đi, và thì giờ được chuyển dành cho những chuyện khác hữu ích thực tiễn hơn là những giờ dài vô tích sự ngồi cắn bút, phí phạm đầu tư đầy thua lỗ để nặn thơ! Nhưng nhờ có sự say mê yêu chuộng văn chương do các phong trào văn họctác động mạnh mẽ từ nhóm Văn (Nguyễn Đình Vượng, Trần Phong Giao) với các tác phẩm văn chương giá trị được xuất bản đều đặn, và nhờ giá cả nhẹ nhàng vừa túi tiền thích hợp cho các học sinh và sinh viên thời ấy có được thú tiêu khiển hiếm hoi, tôi ham thích mua đầy tủ sách và bị lôi cuốn bởi những tác phẩm của các cây bút như Thanh Tâm Tuyền, Nguyễn Đình Toàn, Doãn Quốc Sỹ, Nguyên Sa, v.v...Có thể nói tôi rất say mê lối văn tự kỷ (introvert) hấp dẫn của Thanh Tâm Tuyền thời ấy, có tác động không khác nào như những lời kêu trầm thống ru hồn huyền hoặc của nhạc sĩ họ Trịnh, vì các ngôn từ đó rất gần gũi với tiếng vọng từ tâm thức của thế hệ chúng tôi. Kết quả là các bài đoản văn đầu đời viết cho bích báo hay đặc san trong lớp. Điều được tôi lưu ý là dù viết văn xuôi, lời văn tôi viết có lẽ được óng ả, mượt mà hơn khi có các cấu trúc và nhịp điệu của thơ. Sau này khi sang Mỹ đi thuyết trình bằng tiếng Anh, các người nghe có diễn tả cho tôi biết âm điệu của các bài thuyết trình của tôi trong các kỳ thi diễn thuyết (World Championship of Public Speaking) có các nhịp vó câu (cadence) của thi văn.
Thơ là tiếng vọng từ ấp ủ của con tim. Thơ là ái ngữ tỏ bày cảm xúc. Bài thơ Khúc Ly Đình của Ca Thị Vạn Giã có những nét độc đáo hiếm có của thơ khiến người đã từng đọc qua nó khó thể nào quên. Sau này khi tìm hiểu thêm, tôi được biết tác giả viết bài thơ này lúc 19 tuổi, và Vạn Giả là tên một làng ở Nha Trang, là quê quán của người yêu cô. Người thiếu nữ ấy đã lấy tên của quê hương người mình yêu làm bút hiệu. Xin cảm ơn tác giả của bài thơ đã cho người đọc những men rượu nồng nàn say đắm pha lẫn chút chua cay thi vị của cuộc đời.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 99)
Trong cuộc sống hiện đại, chúng ta gặp phải nhiều áp lực và lo lắng từ công việc, cuộc sống xã hội, về giao tiếp theo truyền thống và trên mạng xã hội.
(Xem: 130)
Là Phật tử, chúng ta thường được nghe giảng “đạo Phật là đạo của từ bi và trí tuệ”, nhưng ý nghĩa thật sự của đạo Phật là gì?
(Xem: 137)
Trong cuộc sống đời thường, mỗi một cá nhân chúng ta thường không để ý đến hiệu quả của lòng thương trong nhiều trường hợp ứng xử hoặc trong nhiều công việc thường ngày.
(Xem: 148)
Phra Ajaan Lee Dhammadharo (1907-1961), là một trong những vị thiền sư theo truyền thống tu khổ hạnh trong rừng.
(Xem: 182)
Ở đây, này Hiền giả, vị Thánh đệ tử thành tựu lòng tinbất động đối với Đức Phật… đối với Pháp…
(Xem: 228)
húng ta có thân này là do nghiệp. Nghiệp được hiểu đơn giản nhất, đời thường nhất là thói quen.
(Xem: 217)
Trong chùa có một anh câm. Không ai nhớ anh ta đến chùa từ bao giờ, vả lại cũng không mấy người để ý đến anh ta.
(Xem: 230)
Danh và thực trong đời sống xã hội là nói cái tên gọi và thực chất, chức danh và khả năng, danh vị và tài đức.
(Xem: 222)
Theo giáo thuyết nhà Phật, quán tưởng là tập trung tư tưởng để quan sát, phân tích và suy nghiệm một vấn đề, giúp cho thân an và tâm không loạn động, cũng như được chánh niệm.
(Xem: 259)
Theo Phật giáo, hồi hướng được làm với lòng ước nguyện để chuyển đổi những thiện hành trở thành nguyên nhân để giúp một người đạt được toàn giác.
(Xem: 246)
Như người bị trúng tên độc là một trong những ảnh dụ gây ấn tượng mạnh mẽ về những việc cần làm ngay.
(Xem: 209)
Là một công dân, bạn có thể trở nên dễ phục tùng các mệnh lệnh, sẵn sàng nhượng bộ các quyền của bạn hơn vì những lời hứa mơ hồ về sự an toàn.
(Xem: 156)
Chánh kiến là thấy biết đúng sự thật. Thấy biết về thiện và bất thiện, căn bản của thiện và bất thiện;
(Xem: 185)
Đã xuất gia thì không ai là người ác cả, ác Tỷ kheo dùng để chỉ cho những người xuất gia tiến bộ chậm, chưa chuyển hóa các tập khí xấu ác của chính mình.
(Xem: 208)
Con người khổ đau vì không biết và không thể sống đời sống chân thực (real life). Đời sống chân thựctrong bài này được gọi là “thực tại của đời sống”.
(Xem: 293)
Hiện tại chính là thời kỳ mạt pháp, pháp đã đến đoạn cuối của nó. Phần đông không chú trọng vào sự tu hành,
(Xem: 303)
Hôm nọ lúc Đức Thế Tôn đang giảng dạy ở tu viện Kỳ Viên, có một ông say rượu loạng quạng đi vô và nói "Thế Tôn, Con muốn xuất gia đi tu".
(Xem: 385)
Bốn mươi lăm năm thuyết pháp, Đức Phật đã dày công thiết lập nên lộ trình TU CHỨNG duy nhất, là VĂN - TƯ - TU.
(Xem: 358)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 338)
Chữ “tu” có nghĩa là “sửa đổi” hay “thay đổi”. Sửa chữa những hành vi bất thiện sai lầm để bản thân trở nên tốt đẹp và lương thiện hơn.
(Xem: 349)
Đức Phật đến với cuộc đời không gì khác ngoài chỉ bày cho con người một nếp sống hạnh phúc an lạc.
(Xem: 607)
Chết an lànhmong mỏi to lớn và sau cùng của một kiếp nhân sinh. Ngoài đời hằng mong sinh thuận tử an.
(Xem: 573)
Pháp giớivũ trụ được các bậc giác ngộ chứng ngộ.
(Xem: 849)
Một số bài pháp hay nhất mà tôi từng nghe là những bài pháp của Đức Phật.
(Xem: 444)
Huyền thoại truyền thống về cuộc đơi Đức Phật kể lại rằng trong suốt thời niên thiếu và vào tuổi trưởng thành, thái tử Siddhattha
(Xem: 678)
Xã hội ngày nay, đời sống hiện đại phần nào làm con người bị cuốn vào guồng xoay vật chất như “thiêu thân”.
(Xem: 497)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 484)
Ái là tâm yêu thích. Người đời thì yêu thích nhiều thứ nên biển ái mênh mông.
(Xem: 385)
Chánh kiến là thấy biết đúng sự thật. Thấy biết về thiện và bất thiện, căn bản của thiện và bất thiện;
(Xem: 503)
Thiền sư Sawaki luôn nhấn mạnh đến tầm quan trọng của việc hành thiền hơn là học kinh sách hay tham công án.
(Xem: 465)
Cách đây hơn 2500 năm trước, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã từng dự ngôn
(Xem: 651)
“Sinh ra, tồn tại, suy biến và hoại diệt trong từng thoáng chốc. Thế gian được thấy như thế...”
(Xem: 448)
Một trong những giả định đằng sau Phật giáo đương đại (Contemporary Buddhism) là 'thông điệp' của Phật giáo có thể truyền đến...
(Xem: 851)
Con đường Bồ tát gồm hai sự tích tập trí huệ và tích tập công đức. Hai sự tích tập này đầy đủ thì được gọi là Lưỡng Túc Tôn, bậc hai sự đầy đủ, tức là một vị Phật.
(Xem: 573)
Có người nói thế giới này hư hoại, thật ra thế giới không có hư hoại. Vậy thì cái gì hư hoại?
(Xem: 579)
Buông bỏ là một hạnh lành, không phải người nào cũng làm được. Xả bỏ được bao nhiêu thì nhẹ nhàng và thong dong bấy nhiêu.
(Xem: 967)
Nhân dịp Năm Mới, tôi xin cảm ơn tất cả những người đã gửi cho tôi những lời chúc tốt đẹp, và tôi xin gửi lời chào đến tất cả chư Huynh Đệ trên khắp thế giới.
(Xem: 680)
Trong lịch sử dân tộc Việt Nam, vị thủy tổ đầu tiên về nguồn gốc của dân tộc Việt Nam là...
(Xem: 573)
Theo truyền thuyết, rồng là loài vật linh thiêng, có thần thông, có khả năng làm mưa, phun ra khói, lửa, thăng, giáng, ẩn, hiện, biến hóa lớn nhỏ một cách tự tại.
(Xem: 873)
Trí tuệ giống như ánh sáng, và có ba cấp độ:
(Xem: 545)
Chúng ta thường nghe dặn dò rằng, hãy tu đi, đừng nói nhiều, đừng lý luận nhiều, đừng dựa vào chữ nghĩa biện biệt sẽ dễ loạn tâm
(Xem: 677)
Trước khi tìm hiểu chủ đề “Nương thuyền Bát nhã là gì? ”, chúng ta cùng nhau tìm hiểu ý nghĩa của từ Bát nhã.
(Xem: 650)
Từ “Phật” (Buddha) đã được biết đến và lưu truyền trước khi Đức Phật xuất hiệnẤn Độ.
(Xem: 624)
Đức Phật, Ngài là con người, bằng xương bằng thịt, như bao nhiêu con người khác...nhưng Ngài là một con người giác ngộ, tỉnh thức...
(Xem: 641)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 640)
Trời có lúc nắng lúc mưa, người có lúc may mắn hoặc xui xẻo. Nhưng không có cái gì tự dưng sinh ra hay mất đi, tất cả đều có lý do của do của nó.
(Xem: 534)
Ajaan Dune Atulo (1888-1983) sinh ngày 4 tháng 10/1888 tại làng Praasaat, huyện Muang, tỉnh Surin. Năm 22 tuổi ngài xuất gia ở tỉnh lỵ.
(Xem: 708)
Đức Phật là đấng Toàn giác, bậc trí tuệ siêu việt. Càng hiểu Phật phápcuộc đời, ta càng thấy những gì Đức Phật dạy là vô cùng đúng đắn.
(Xem: 1019)
Một cá nhân hay đoàn thể đệ tử Phật thực sự có tu tập giới-định-tuệ thì được mọi người kính trọng; sống hòa hợp, nhẫn nhịn, không tranh chấp đấu đá lẫn nhau chắc chắn được mọi người thương mến.
(Xem: 1198)
"Một thời Đức Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ, khi đêm đã qua, vào lúc trời vừa sáng, Đức Thế Tôn đắp y mang bát vào nước Xá-vệ. …
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant