Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

8. Niệm Ân Đức Tam Bảo

31 Tháng Giêng 201100:00(Xem: 8527)
8. Niệm Ân Đức Tam Bảo

CĂN BẢN PHẬT GIÁO
Bình Anson
Nhà Xuất Bản Tổng Hợp TP. Hồ Chí Minh, TL. 2005 - PL. 2549
 

Niệm Ân Đức Tam Bảo

Bình Anson

---*---

Hằng ngày, vào buổi sáng sớm và buổi tối, các Phật tử trong truyền thống Nam tông thường tụng các bài kinh văn căn bản, trong đó, có bài tụng về các ân đức Tam Bảo, Phật-Pháp-Tăng. Ở đây, xin mạo muội trình bày sơ lược về ý nghĩa các lời tán dương Tam Bảo đó, dựa theo một tập sách học tiếng Pàli của Tỳ-khưu Nguyệt Thiên Indacanda. 

*

Bắt đầu mỗi buổi lễ, chúng ta thường nghe tụng câu:

Namo tassa bhagavato arahato sammà sambuddhassa

Trong đó, 

Namo tassa: Xin cung kính đến vị ấy.
bhagavato: đức Thế Tôn, đức Phá-ga-va.
arahato: bậc A-la-hán, Ứng Cúng.
sammà sambuddhassa: đấng Chánh Biến Tri, Chánh Đẳng Giác, Bậc Tự Giác Ngộ hoàn toàn, không ai chỉ dạy.
Nghĩa toàn câu: "Cung kính đến Ngài là đức Thế Tôn (Phá-ga-va), bậc A-la-hán (Ứng Cúng), đấng Chánh Biến Tri".

*

Tiếp theo, là các câu tụng về ân đức Tam Bảo như sau:

1) Ân đức Phật Bảo:

Itipi so Bhagavà Araham Sammàsambuddho Vijjàcaranasampanno Sugato Lokavidù Anuttaro Purisadammasàrathi Satthà devamanussànam Buddho Bhagavàti 

Itipi so: Thật vậy, vị ấy là ... 
Bhagavà: đức Thế Tôn.
Araham: người không còn ô nhiễm, bậc A-la-hán, bậc Ứng Cúng.
Sammàsambuddho: đấng Chánh Biến Tri, Chánh Đẳng Giác, Bậc Tự Giác Ngộ hoàn toàn, không ai chỉ dạy. 
Vijjàcaranasampanno: Minh Hạnh Túc, người có trí tuệđức hạnh thành tựu một cách trọn vẹn.
Sugato: bậc Thiện Thệ, vị đã ra đi một cách trọn vẹn, đã Niết-bàn.
Lokavidù: người hiểu biết rõ ràng về thế gian, Thế Gian Giải.
Anuttaro: không gì hơn được, Vô Thượng Sĩ.
Purisadammasàrathi: người có khả năng điều khiển, huấn luyện kẻ khác, Ðiều Ngự Trượng Phu.
Satthà devamanussànam: vị thầy của chư thiênloài người, Thiên Nhân Sư.
Buddho: bậc đã giác ngộ, đức Phật.
Bhagavà: Đức Thế Tôn.

Nghĩa toàn câu: "Thật vậy, bậc đáng kính trọng ấy là A-la-hán, Chánh Đẳng Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn."

Đây là đoạn văn rất thường gặp trong các bài kinh thuộc Đại Tạng Kinh do ngài Hòa thượng Thích Minh Châu dịch sang Việt ngữ. Đó cũng là 10 Danh hiệu của Đức Phật. Tuy nhiên, trong một vài kinh sách, chúng ta chỉ thấy đề cập đến 9 danh hiệu, đó là vì 2 danh hiệu Vô Thượng SĩÐiều Ngự Trượng Phu đôi khi được gộp chung thành một, như có giải thích trong bộ luận Thanh Tịnh Đạo, Chương VII, của ngài Phật Âm (Buddhaghosa). 

Ngoài ra, trong nhiều kinh sách Bắc tông, có thấy thêm vào danh hiệu Như Lai, tạo ra 11 danh hiệu. Để có được con số 10 danh hiệu, có sách gộp chung Vô Thượng Sĩ Điều Ngự Trượng Phu thành một, hay gộp chung PhậtThế Tôn thành một danh hiệu.

Trong quyển "Nghi thức tụng niệm" của chùa Pháp Luân, Texas, Hoa Kỳ, có dịch là:

Hồng danh Phật nhiệm mầu Ứng Cúng,
Chánh Biến Tri, Minh Hạnh đủ đầy,

Ðức ân Thiện Thệ cao dày,

Bậc Thế Gian Giải chỉ bày lý chân, 

Vô Thượng Sĩ pháp âm tịnh diệu,

Bậc Trượng Phu Ðiều Ngự độ sanh,

Thiên Nhân Sư đấng cha lành, 

Phật Ðà toàn giác, Thế Tôn trong đời.

*

2) Ân đức Pháp Bảo:

Svàkkhàto bhagavato dhammo sanditthiko akàliko ehipassiko opanayiko paccattam veditabbo vinnùhìti 

Svàkkhàto: đã khéo được thuyết giảng.
bhagavato: của đức Thế Tôn.
dhammo: giáo pháp.
Svàkkhàto bhagavato dhammo: Pháp của đức Thế Tôn đã khéo được thuyết giảng
sanditthiko: hoàn toàn hiển nhiên, được thấy rõ ràng.
akàliko: không đợi thời gian, không bị chi phối bởi thời gian.
ehipassiko: hãy đến và hãy thấy, mời đến để thấy.
opanayiko: có khả năng hướng thượng, dẫn dắt về hướng thượng (Niết-bàn).
paccattam: tự cá nhân, riêng rẽ.
veditabbo: nên được hiểu biết.
vinnùhì: bởi các bậc trí tuệ.

Nghĩa toàn câu: "Pháp của đức Thế Tôn đã khéo được thuyết giảng, hoàn toàn hiển nhiên, không bị chi phối bởi thời gian, hãy đến và hãy thấy, có khả năng dẫn dắt về hướng (Niết-bàn), và nên được hiểu biết tự cá nhân bởi các bậc trí tuệ."

Trong các bộ kinh Nikàya, Hòa thượng Minh Châu dịch là "Ðây là Pháp do Thế Tôn khéo thuyết, thiết thực hiện tại, có quả tức thời, đến để mà thấy, có khả năng hướng thượng, do người trí tự mình giác hiểu."

Trong quyển "Nghi thức tụng niệm" của chùa Pháp Luân, Texas, Hoa Kỳ, có dịch là:

Pháp vi diệu, cha lành khéo dạy,
Lìa danh ngôn, giác ngộ hiện tiền,

Vượt thời gian, chứng vô biên,

Sát na đại ngộ, hoát nhiên liễu tường,

Ðạo vô thượng, đến rồi thấy rõ,

Hướng thượng tâm, thoát ngõ vọng trần,

Trí nhân tự ngộ giả chân,

Diệu thường tịnh lạc, Pháp ân nhiệm mầu. 

*

3) Ân đức Tăng Bảo:

Supatipanno bhagavato sàvakasangho 
ujupatipanno bhagavato sàvakasangho

nàyapatipanno bhagavato sàvakasangho 

sàmìcipatipanno bhagavato sàvakasangho

yadidam cattàri purisayugàni atthapurisapuggalà 

esa bhagavato sàvakasangho

àhuneyyo pàhuneyyo dakkhineyyo anjalikaranìyo 

anuttaram punnakkhettam lokassàti 

Supatipanno: đã tu hành tốt đẹp trong thiện đạo (thiện hạnh)
bhagavato: của đức Thế Tôn.
sàvakasangho: Tăng chúng đệ tử.
bhagavato sàvakasangho: Tăng chúng đệ tử của đức Thế Tôn.
ujupatipanno: đã tu hành trong trực đạo (trực hạnh)
nàyapatipanno: đã tu hành trong chân đạo (như lý hạnh).
sàmìcipatipanno: đã tu hành trong chánh đạo (chân chánh hạnh).
yadidam: điều trên có nghĩa là thế này.
cattàri: bốn (số đếm).
purisayugàni: (bốn) cặp / đôi hạng người: Đạo quả Dự lưu, Đạo quả Nhất lai, Đạo quả Bất lai, Đạo quả A-la-hán (Đạo và Quả tính chung thành một đôi).
atthapurisapuggalà: tám hạng người, nếu tính đơn, đó là Đạo và Quả tách rời ra. 
esa: nhóm người ấy, nhóm người đã nói ở trên.
bhagavato: của đức Thế Tôn.
sàvakasangho: Tăng chúng đệ tử.
àhuneyyo: đáng được cung kính.
pàhuneyyo: đáng được thân cận.
dakkhineyyo: đáng được cúng dường.
anjalikaranìyo: đáng được chắp tay, đáng được lễ bái.
anuttaram: không gì hơn được, vô thượng.
punnakkhettam: nơi để gieo nhân phước báu, phước điền.
lokassà: của thế gian.

Nghĩa toàn câu: Trong các bộ kinh Nikàya, Hòa thượng Minh Châu dịch là "Chúng Tăng đệ tử Thế Tôn là bậc Thiện hạnh; chúng Tăng đệ tử Thế Tôn là bậc Trực hạnh; chúng Tăng đệ tử Thế Tôn là bậc Như lý hạnh; chúng Tăng đệ tử Thế Tôn là bậc Chân Chánh hạnh; tức là bốn đôi, tám chúng. Chúng Tăng đệ tử này của Thế Tôn đáng được cung kính, đáng được thân cận, đáng được cúng dường, đáng được chấp tay chào, là phước điền vô thượng ở trên đời."

Trong quyển "Nghi thức tụng niệm" của chùa Pháp Luân, Texas, Hoa Kỳ, có dịch là:

Bậc diệu hạnh, thinh văn Thích Tử,
Bậc trực hạnh, pháp lữ thiền gia,

Bậc như lý hạnh, Tăng Già

Bậc chân chánh hạnh, dưới toà Thế Tôn,

Thành đạo quả bốn đôi, tám chúng,

Ðệ tử Phật ứng cúng tôn nghiêm,

Cung nghinh kính lễ một niềm,

Thánh chúng vô thượng, phước điền thế gian.

*

Trì tụng, ghi nhớ và thông hiểu rõ ràng 3 câu tụng trên là một pháp hành căn bản nhưng rất quan trọng. Khi thông hiểu ý nghĩa, chúng ta tăng trưởng niềm tín thành nơi Tam Bảo. Khi ghi nhớ và trì tụng đều đặn, thường xuyên, chúng ta dưỡng nuôi sự định tâm.

Trong Tương Ưng Bộ 11.3, kinh Đầu Lá Cờ, Đức Phật khuyên các vị Tỳ-khưu khi hành thiền, sống độc cư trong rừng vắng, nên thường xuyên tụng niệmquán tưởng đến ân đức Tam Bảo qua các câu trên để giúp các vị ấy có thêm tự tin, không còn lo âu, sợ hãi. Ngài tóm tắt trong câu kệ:

"Này các vị Tỳ-khưu,
Trong rừng hay gốc cây,

Hay tại căn nhà trống,

Hãy niệm bậc Chánh Giác.

Các Ông có sợ hãi,

Sợ hãi sẽ tiêu diệt.

Nếu khôngniệm Phật,
Tối thượng chủ ở đời,

Và cũng là Ngưu vương,

Trong thế giới loài Người,

Vậy hãy tư niệm Pháp,

Hướng thượng, khéo tuyên thuyết.

Nếu khôngniệm Pháp,
Hướng thượng, khéo tuyên thuyết,

Vậy hãy tư niệm Tăng,

phước điền vô thượng.

Vậy này các Tỳ-khưu,
Như vậy tư niệm Phật,

niệm Pháp và Tăng,

Sợ hãi hay hoảng hốt,

Không bao giờ khởi lên".

Đức Phật cũng khuyên hàng đệ tử cư sĩ có những tùy niệm tương tự như thế. Trong Tăng Chi Bộ 11.12, Ngài dạy vị cưĐại Danh (Mahànàma) về 6 tùy niệm: niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm Giới, niệm Thí (Bố thí), và niệm chư Thiên. Về niệm Phật-Pháp-Tăng, Ngài nói:

--"Này Mahànàma, trong khi vị Thánh đệ tử tùy niệm Tam Bảo (Phật-Pháp-Tăng), tâm của vị ấy không bị tham ám ảnh, không bị sân ám ảnh, không bị si ám ảnh. Tâm của vị ấy được chánh trực nhờ duyên Tam Bảo. Vị Thánh đệ tử ấy, với tâm chánh trực, có được nghĩa tín thọ, có được pháp tín thọ, có được hân hoan liên hệ đến pháp. Khi có hân hoan, hỷ sanh; khi có hỷ, thân được khinh an; khi thân được khinh an, cảm giác được lạc thọ; khi có lạc thọ, tâm được định tĩnh. Này Mahànàma, như vậy gọi là bậc Thánh đệ tử sống đạt được bình đẳng với chúng sanh không bình đẳng, sống đạt được vô sân với chúng sanh có sân, nhập được pháp lưu, tu tập tùy niệm Tam Bảo".

Trong bộ luận Thanh Tịnh Đạo, Chương VII, ngài Phật Âm đề cập đến các lợi ích của pháp niệm ân đức Tam Bảo như sau:

-- "Khi vị hành giả chú tâm đến việc suy niệm đấng Giác Ngộ như vậy, suy niệm Chánh Pháp như vậy, suy niệm chư Thánh Tăng như vậy, vị ấy có lòng tôn kính đức Phật, tôn kính Giáo Pháp của Ngài, tôn kính chư Thánh Tăng đệ tử của Ngài. Vị ấy đạt đến sự viên mãn về đức tin, chánh niệm, trí tuệcông đức. Vị ấy có nhiều hạnh phúcan lạc, nhiếp phục được sự sợ hãi khủng bố, và có khả năng kham nhẫn, chịu đựng các khổ đau. Vị ấy có cảm giác như mình đang sống trước mặt đấng Đạo sư, đang sống trong Chánh Pháp, đang sống với các bậc Thánh Tăng. Trong khi an trú suy niệm những đức tính đặc biệt của Tam Bảo, thân thể của vị hành giả ấy trở thành một nơi đáng tôn trọng như một đền thờ. Tâm vị ấy hướng về chư Phật, hướng về Pháp vô thượng, hướng về chư Thánh Tăng. Hành giả ấy cảm thấy hổ thẹn và e sợ (tàm và quý) trước các ác pháp, và như thế giúp vị ấy không phạm giới. Nếu vị ấy không chứng đạt được quả vị cao thượng trong kiếp này, thì ít nhất, vị ấy cũng sẽ tái sinh vào một cảnh giới an lạc sau khi chết".

*

Đa số Phật tử Việt Nam chúng ta, thường không quen thuộc với các bài kinh tụng trong truyền thống Phật giáo Nam tông, có lẽ sẽ cảm thấy bỡ ngỡ, khó khăn khi bắt đầu tụng niệm các câu ân đức Tam Bảo trình bày ở trên. Tuy nhiên, nếu có dịp gần gũi với chư Tăng Nam tông và các cộng đồng Phật tử trong vùng Nam Á và Đông Nam Á như: Thái Lan, Cam-pu-chia, Lào, Miến Điện và Tích Lan, và nếu chúng ta thường xuyên tham dự các khóa tu thiền, dần dần, chúng ta sẽ quen nghe các câu tụng căn bản đó. Các bài tụng nầy đã được thu âm và quảng bá rộng rãi trên các trang web Phật Giáo của mạng Internet, qua các băng audio-cassette và đĩa CD; và điều đó sẽ giúp chúng ta học thuộc và tụng đọc dễ dàng hơn, nếu có quyết tâm học tập. 

Qua kinh nghiệm bản thân cũng như qua các trao đổi với các bạn thiền sinh khác, một khi chúng ta thông hiểu ý nghĩa và trì tụng ân đức Tam Bảo thuần thục đều đặn mỗi ngày, chúng ta sẽ thấy được nhiều lợi lạc do pháp hành tùy niệm đó mang đến cho sự hành thiền và làm phong phú thêm cho đời sống tinh thần của mình, như Đức Phật đã thường khuyên dạy cho hàng đệ tử, khi Ngài còn tại thế.

Tháng 9-2004



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 32605)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(Xem: 6438)
Phật Đà Thập Đại Đệ Tử Tán - Hòa thượng Tuyên Hóa giảng thuật, Nguyễn Minh Tiến Việt dịch
(Xem: 11093)
Các tác phẩm của Thầy phần lớn được dịch từ Hán tạng, gồm giới kinh và các nguồn văn học Phật giáo Đại thừa với tư tưởng uyên thâm về triết họctâm lý học.
(Xem: 30231)
Đã phát khởi chí nguyện Đại thừa, lại kiên quyết thực hiện chí nguyện ấy, đó thực sự là cung cách hùng dũng của con sư tử đang vươn mình, và do đó phải được nhìn đến bằng cung cách của con voi chúa.
(Xem: 30312)
Vua và phu nhân gởi thơ cho Thắng Man, đại lược ca ngợi công đức vô lượng của Như Lai, rồi sai kẻ nội thị tên Chiên Đề La đem thư đến nước A Du Xà... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 7883)
Tất cả các nhà đạo học và thế học muốn thành tựu kết quả tốt đẹp trong cuộc đời, thì trước hết, họ phải trải qua quá trình kham nhẫn, nỗ lực, tu, học, rèn luyện tự thân, giúp đỡ, và đem lại lợi ích cho tha nhân.
(Xem: 12038)
Bảy Đức Thế Tôn quá khứ từ Thế Tôn Tỳ Bà Thi, Thế Tôn Thích Ca, và chư Thế Tôn vị lai đều chứng ngộ Vô Thượng Bồ Đề từ sự chứng ngộ sự thật Duyên khởi.
(Xem: 12158)
Trong các bản Kinh Pháp Cú, phổ biến nhất hiện nay là Kinh Pháp Cú Nam Truyền, tức là Kinh Pháp Cú dịch theo Tạng Pali.
(Xem: 11496)
Có lần Đức Phật sống tại Rajagaha (Vương Xá) trong Khu Rừng Tre gần Nơi Nuôi Những Con Sóc. Lúc bấy giờ, vị Bà La Môn tên là Akkosa Bharadvaja đã nghe người ta đồn đãi như sau:
(Xem: 12585)
Tôi nghe như vầy. Có lần Đức Phật, trong khi đi hoằng pháp ở nước Kosala nơi có một cộng đồng rất đông Tỳ Kheo, ngài đi vào một tỉnh nhỏ nơi cư trú của người Kalama
(Xem: 34454)
Quy Sơn Cảnh Sách Học Giải - Tác Giả: Thiền Sư Quy Sơn Linh Hựu; Thích Thiện Trí (Thánh Tri) Phỏng Việt Dịch và Viết Bài Học Giải
(Xem: 9722)
Kinh này khởi đầu bằng lời người Bà La Môn hỏi rằng làm thế nào người ta có thể tự thanh tịnh hóa khi nhìn thấy một vị Thượng nhân đã Thanh tịnh,
(Xem: 52116)
Nguyên xưa ngài Quán Nguyệt Pháp sư đem hai thời kinh khóa tụng: Mai đóng chung và chiều nhập chung lại làm một đại thể làm một tập lớn. - Chú giải: Ngài Quán Nguyệt; Dịch giả: HT Thích Khánh Anh
(Xem: 10626)
Tôi nghe như vậy: Một thời, đức Thế Tôn trú tại thành phố Śrāvastī (Xá-vệ), nơi rừng cây Jeta (Kì-đà), vườn của Ông Anāthapiṇḍada (Cấp-cô-độc),
(Xem: 10386)
Bài kinh này trong đoạn cuối (bài kệ 787), câu “không nắm giữ gì, cũng không bác bỏ gì” được Thanissaro Bhikkhu ghi chú rằng ...
(Xem: 10593)
Lúc bấy giờ, Bồ tát Đại sĩ Akṣayamatir[1] từ chỗ ngồ đứng dậy, vắt thượng y[2] qua một bên vai, chắp hai tay[3] hướng về đức Thế Tôn và thưa rằng:
(Xem: 10343)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào?
(Xem: 12973)
Đại ý bài kinh này Đức Phật dạy chúng đệ tử không nên truy tìm quá khứ, không nên ước vọng tương lai vì quá khứ đã đoạn tận.
(Xem: 16082)
Evaṃ me sutaṃ, “như vầy tôi nghe”, là lời Ngài Ananda bắt đầu mỗi bài kinh mà có lẽ không Phật tử nào là không biết.
(Xem: 21644)
Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538), thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm.
(Xem: 9519)
Phật dạy giới này áp dụng chung cho tất cả các Phật tử tại gia, không phân biệt Phật tử này thuộc thành phần hay đẳng cấp xã hội nào.
(Xem: 7006)
Sa-môn Thích Đàm Cảnh dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, vào thời Tiêu-Tề (479-502). Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn, tại Canada, năm 2018.
(Xem: 10297)
Đức Phật A Di Đà tự thân có ánh sáng vô lượng, chiếu khắp cả mười phương mà không có vật gì có thể ngăn che. Vì vậy nên Phật A Di Đà có nghĩa là Vô Lượng Quang Phật.
(Xem: 12527)
Nguyên tác Hán văn: Tì-kheo Linh Diệu, tông Thiên Thai soạn - Dịch sang tiếng Việt: Thích Thọ Phước
(Xem: 12652)
Ngài Buddhaghosa sanh ra và lớn lên nước Magadha, thuộc Trung Ấn Độ, vào thế kỷ thứ V trong ngôi làng Ghosa, gần địa danh nơi đức Phật thành đạo Bodhigaya
(Xem: 16117)
Nghiên Cứu Về Kinh A Hàm (Ãgama, Sanscrist)
(Xem: 16396)
Ai nói như sau, này các Tỷ-kheo: "Người này làm nghiệp như thế nào, như thế nào, người ấy cảm thọ như vậy, như vậy".
(Xem: 13735)
Đây là những điều tôi nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Cấp Cô Độc trong vườn cây Kỳ Đà ở thành Vương Xá.
(Xem: 16406)
Vào thời Đức Thích-ca-mâu-ni, không có hệ thống chữ viết được phổ biếnẤn Độ. Do đó, những thuyết giảng của Ngài được ghi nhớ và ...
(Xem: 11960)
"Lại nữa, lúc bấy giờ Mahāmati thưa rằng: “Bạch Thế Tôn, ngài đã từng dạy rằng: từ lúc Như Lai chứng nghiệm giác ngộ cho đến...
(Xem: 13697)
Kinh Địa Tạng là một trong các kinh Đại thừa được phổ biến rộng rãi trong quần chúng Việt Nam từ hơn nửa thế kỷ nay song song với các kinh Kim Cương, Di Đà, Phổ Môn...
(Xem: 14229)
Nguyên tác: Tôn giả Thế Thân (Acarya Vasubandhu) - Hán dịch: Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng; Việt dịch: Tỳ khưu Tâm Hạnh
(Xem: 9123)
No. 1613 - Nguyên tác: Tôn giả An Huệ; Dịch Hán: Tam Tạng Pháp sư Địa-bà-ha-la; Dịch Việt: Tâm Hạnh
(Xem: 11665)
Duy thức nhị thập luận, do bồ tát Thế Thân soạn, ngài Huyền trang dịch vào đời Đường... được thu vào Đại chính tạng, tập 31, No.1590.
(Xem: 11188)
Bồ-tát Trần Na tạo luận. Tam tạng Pháp sư Huyền Trang phụng chiếu dịch. Việt dịch: Quảng Minh
(Xem: 16127)
Nghe như vầy, một thời Đức Phật ở nước Xá Vệ ở vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc cùng chúng đại Tỳ Kheo năm trăm vị. Bấy giờ các thầy Tỳ Kheo...
(Xem: 14259)
No. 699; Hán dịch: Đời Đại Đường, Trung Thiên Trúc, Tam tạng Pháp sư Địa bà ha la, Đường dịch là Nhật Chiếu
(Xem: 16105)
Đức Phật Thích-Ca Mưu-Ni, bắt đầu chuyển pháp-luân, độ cho năm vị Tỳ-Khưu là Tôn-giả Kiều-Trần-Như v.v... Sau cùng, Ngài thuyết pháp độ cho ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 12617)
Kinh Phạm Võng nằm trong Đại Chánh Tạng, tập 24, ký hiệu 1484, gọi đủ là Phạm võng kinh Lô xá na Phật thuyết bồ tát tâm địa giới phẩm đệ thập
(Xem: 11949)
Phật thuyết-giảng Kinh Phạm-Võng để dạy về giới-luật, và các pháp cao-siêu vượt thoát được sáu mươi hai kiến-chấp vốn là các tà-kiến đã...
(Xem: 11684)
Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi, tại Jetavana, vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Độc). Ở đây,,,
(Xem: 15550)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434; Dịch Phạn - Hán: Tam Tạng Cát-ca-dạ, Dịch Hán - Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ; Hiệu đính: HT Thích Như Điển
(Xem: 11407)
Đời Đường, Thận Thủy Sa Môn Huyền Giác Soạn; Thánh Tri dịch nghĩa Việt và viết bài học giải...
(Xem: 13929)
Phật giáo được khai sáng ở Ấn-độ vào năm 589 trước kỉ nguyên tây lịch (năm đức Thích Ca Mâu Ni thành đạo), và đã tồn tại liên tục, phát triển không ngừng trên ...
(Xem: 11908)
Trong truyền thống Phật giáo Bắc truyền, Dược Sư là một bản kinh thường được trì tụng nhằm mục đích giải trừ tật bệnh, cầu nguyện bình an...
(Xem: 12514)
Thích-ca là phiên âm của tiếng Phạn. Phiên âm Hán Việt là Năng Nhân. Tức là họ của đấng hóa Phật ở cõi Ta-bà...
(Xem: 14862)
Kinh chuyển Pháp luân là bài thuyết Pháp đầu tiên của Đức Phật Thích-ca sau khi Ngài đã đắc đạo.
(Xem: 11879)
Ba Ngàn Oai Nghi Của Vị Đại Tỳ Kheo - Được xếp vào tập T24 - Kinh số 1470 - Tổng cộng kinh này có 2 quyển
(Xem: 13031)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 14383)
Satipatthana Sutta là một bản kinh quan trọng làm nền tảng cho một phép thiền định chủ yếu trong Phật giáo là Vipassana...
(Xem: 20542)
Kinh Tứ Thập Nhị Chương là một bài Kinh được truyền bá khá rộng rải ở các Tồng Lâm Tự Viện của Trung QuốcViệt Nam từ xưa đến nay.
(Xem: 13105)
Bản dịch này được trích ra từ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh Vol. 48, No. 2010. Bởi vì lời dạy của Tổ Tăng Xán quá sâu sắc, súc tích, và bao hàm trong 584 chữ Hán,
(Xem: 10855)
Dịch từ Phạn sang Tạng: Kluḥi dbaṅ-po, Lhaḥi zla-ba; Dịch Tạng sang Việt: Phước Nguyên
(Xem: 20562)
Trí Phật là trí Kim – cang, Thân Phật là thân Kim – Sắc, cõi Phật là cõi Hoàng – kim, lời Phật tất nhiên là lời vàng.
(Xem: 14230)
Bấy giờ Hòa Thượng Vakkali nhìn thấy Đức Phật đang đi đến từ xa, và ông đã cố gắng ngồi dậy.
(Xem: 20154)
Xin dâng hết lên Tam Bảo chứng minh và xin Quý Ngài cũng như Quý Vị tùy nghi xử dụng in ấn tiếp tục hay trì tụng cũng như cho dịch ra những ngôn ngữ khác...
(Xem: 17466)
Niệm Phật Tâm Muội do HT Hư Vân soạn, Sa môn Hiển Chơn dịch; Tọa Thiền Dụng Tâm Ký do Viên Minh Quốc Sư soạn, HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 13857)
Khi Bồ-tát Quán Tự Tại hành sâu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, ngài soi thấy năm uẩn đều KHÔNG, liền qua hết thảy khổ ách.
(Xem: 31741)
Viết ra các bài Phật học thường thức này, chúng tôi không có tham vọng giới thiệu toàn bộ Phật pháp và chỉ cốt giúp cho các bạn sơ cơ hiểu được một cách đúng đắn, đạo lý năm thừa trong Phật giáo mà thôi.
(Xem: 11908)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, Kinh văn số 1675. Tác giả: Long Thọ Bồ Tát; Sa Môn Sắc Tử dịch Phạn sang Hán; HT Thích Như Điển dịch Việt
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant