Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

12 - Hỏi & đáp

06 Tháng Hai 201100:00(Xem: 9024)
12 - Hỏi & đáp

NGHIỆP BÁO
Giới Thiệu Tổng Quát
Tác giả: Alexander Berzin - Chuyển ngữTuệ Uyển

12 – HỎI ĐÁP

HỎI: Trong phạm vi này, tội lỗi không có trong tấm ảnh? Không có việc gì với tội lỗi ở đây, có phải không?

ĐÁP: Đúng thế. Sự giải thích của Đạo Phật về nghiệp báo không liên can gì đến tội lỗi. Tội lỗi là căn cứ trên sự suy nghĩ trong những hình thức của một cái “tôi” rất mạnh mẽ vững chắc như một thực thể tồn tại riêng biệt và những gì tôi đã làm như một thực thể riêng lẻ khác, giống như hai quả bóng bàn, hay điều gì ấy giống như thế. Và sau đó chúng ta tin tưởng rằng thực thể cái “tôi” là quá tệthực thể “những gì tôi đã làm” cũng là tệ hại. Vì thế cũng có một sự phán đoán của hai thực thể dường như vững chắc và rồi thì không thể buông xả được – đó là tội lỗi. Giống như chẳng bao giờ vất rác ra khỏi nhà chúng ta, mà chỉ giữ nó bên trong và nói nó ghê tởm như thế nào, nó hôi thối như thế nào, nó nhơ bẩn như thế nào, và chẳng bao giờ buông bỏ.

HỎI: Nghe có vẻ rất rõ ràng và rất hơp lý (logic), và tôi có thể hiểu toàn bộ hệ thống, và làm thể nào giải thoát khỏi sự mê muội, và sự những khuynh hướng thúc đẩy cùng mọi thứ. Nhưng tôi nghĩ rằng thấu hiểu nó chưa đủ để giải thoát ngay bây giờ đối với những kinh nghiệm hay sự thúc đẩy hành động một cách bắt buộc.

ĐÁP: Đúng thế. Vâng, đấy là tại sao trước tiên chúng ta cần thực nghiệm đạo đức tự giác (tự tàm). Hãy nhớ là, chúng ta đề cập rằng có một khoảng cách nhỏ giữa điều khi tôi cảm thấy giống như muốn nói, “Ô thật là một bộ đồ xấu xí mà bạn mặc hôm nay,” và khi tôi thật sự nói nó. Nếu chúng ta có thể nắm bắt khoảng không gian ấy, thế thì chúng ta có khả năng để quyết định những gì sẽ ảnh hưởng nếu tôi nói với người ấy rằng người ấy đang mặc một bộ đồ xấu xí. Và nếu chúng ta thấy rằng điều ấy sẽ không là sản phẩm tốt đẹp chúng ta không phát hành nó. Đấy là nơi chúng ta bắt đầu – với nguyên tắc đạo đức và sự tự kiểm soát.
Cũng thế, chúng ta có thể thẩm tra cảm xúc nào tôi đang cảm nhận khi tôi muốn làm việc gì ấy? Tại sao tôi ao ước làm việc gì ấy căn cứ trên một cảm xúc phiền não, chẳng hạn như tham lam? Có phải nó căn cứ trên sân hận; có phải nó căn cứ trên si mê? Tôi có nghĩ rằng nếu nói bộ đồ của bạn là xấu xí sẽ không có bất cứ ảnh hưởng nào đối với bạn? Hay có phải tôi ao ước làm việc gì đấy căn cứ trên sự tử tế ân cần, và đây là những việc tích cực hơn? Đây là tại sao sự định nghĩa của một cảm xúc phiền não hay một thái độ quấy rầy là rất hữu ích: nó một tình trạng của tâm thức, là thứ, mà khi nó sinh khởi, nó làm cho chúng ta mất sự an bình của tâm thức và mất sự tự kiểm soát.
Chúng ta có thể nói rằng khi chúng ta mất sự an bình của tâm thức: tim chúng ta đập hơi nhanh hơn; và chúng ta cảm thấy hơi khó chịu. Vì thế, chúng ta cố gắng chú ý, thí dụ, những việc vi tế, như có phải tôi đang nói điều gì đấy do tự hào? Thí dụ, ai đấy nói, “Tôi không hiểu điều đó,” và bạn nói, “Ô, nhưng tôi hiểu!” Quý vị sẽ chú ý một sự hơi bực bội, một chút tự hào, một sự kiêu hãnh nào đấy, và vì thế đây là những gì chúng ta đề phòng.

HỎI: Tôi có hơi không hiểu. Tôi nghĩ, giáo sư đề cập rằng có hai cảm xúc không ngừng đây là hạnh phúcbất hạnh, những sự giao động lên xuống này. Có phải giáo sư đang nói rằng một trong hai điều này la tham dục, còn thứ kia là gì?

ĐÁP: Những gì tôi đang giải thích là hai nhân tố mà chúng khởi động những khuynh hướng nghiệp báo – những điều này đến từ những giáo lý mười hai nhân duyên. Một thứ là tham dục (ái - thứ 8) và thứ kia – tôi đang làm cho đơn giản – thứ kia đặc biệt gọi là thái độ hay cảm xúc đạt được tức là chấp trước (thủ - thứ 9), và nó là một danh sách khoảng năm khả năng khác nhau. Đây là những gì sẽ đạt đến một kết quả, và vì thế điều nổi bật nhất là xác định rõ một cái “tôi” vững chắc với nó chúng ta đang trải qua, với những gì đang diễn tiến.

HỎI: Có phải sự xác định cái “tôi” vững chắc trong mối quan hệ đến điều gì đấy? Rõ ràng có sự rối rắm ở đây, và rằng chúng ta phải chăm sóc nó và thoát khỏi sự rối rắm mù mờ. Nhưng điều gì chúng ta thật sự đang mù mờ và điều chúng ta đang rối rắm với nó?

ĐÁP:  Đấy không phải là một câu hỏi dễ dàng để trả lời trong một cách đơn giảnChúng ta đang mê mờ cái “tôi” thật sự tồn tại, cái “tôi” quy ước, với cái “tôi” sai lầm không thật sự hiện hữu. Nhưng gì chúng ta đang làm là đang tưởng tượng cái “tôi” hiện nay, là thật sự tồn tại hiện hữu trong một cách không thể xãy ra được nào đấy, nó sự thổi phồng. Nó đang thêm vào điều gì đấy không có ở đó. Thí dụ: tôi vui vẻ hay tôi không vui vẻ. Không phải là bạn không vui vẻ; tôi không vui vẻ. Khi có một kinh nghiệm hạnh phúc hay bất hạnh, chúng ta liên hệ nó trong những dạng thức của tôi hạnh phúc. Không phải rằng bạn vui vẻ và ai đấy khác vui vẻ - tôi vui vẻ. Cái “tôi” (‘I’ hay ‘me’) là cái “tôi” quy ước, là điều thật sự hiện hữu.

Hãy để chúng tôi dùng một thí dụ cho cái “tôi” quy ước này. Giả sử chúng ta xem một bộ phim và hãy nói bộ phim là “Cuốn Theo Chiều Gió”. Trong ấy, có một cảnh vui, rồi một cảnh không vui, và rồi một cảnh vui khác. À…,điều gì đang xãy ra ở đây? Màn hạnh phúc là một cảnh trong phim “Cuốn Theo Chiều Gió” và mà không vui là một cảnh khác của bộ phim. “Cuốn Theo Chiều Gió” là chúng ta đã đặt tên một cách quy ước cho toàn thể các màn ấy, tất cả các cảnh ấy, cả vui vẻ hạnh phúc và buồn đau bất hạnh. “Cuốn Theo Chiều Gió”, tuy thế, chỉ là tiêu đề, chỉ là một cái tên. Nhưng khi chúng ta nói về “Cuốn Theo Chiều Gió”, chúng ta không chỉ nói về tựa đề. Chúng ta đang nói về bộ phim thật sự - mà tựa đề liên hệ đến. Đấylà bộ phim hiện hữu một cách quy ước: nó tồn tại. Bộ phim là điều gì đấy tách biệt khỏi mỗi màn của những cảnh ấy – một bộ phim tách rời và độc lập với những cảnh ấy sẽ là một bộ phim không thật. Nó không tồn tại. Một bộ phim tồn tại một cách quy ước đơn thuần là những gì có thể đặt tên hay quy cho, chúng ta nói, trên căn bản của những màn, những cảnh.

Tương tự thế, chúng ta có những thời khắc hạnh phúc trong đời sống, chúng ta có những lúc không vui trong cuộc đời và v.v…, và chúng ta liên hệ như thế nào đến tất cả những điều ấy? Chúng ta liên hệ tới nó như cái “tôi” – cái “tôi” quy ước, là điều thật sự hiện hữu: nó không phải là bạn, nó là “tôi”. Tương tự thế, bộ phim là “Cuốn Theo Chiều Gió”, không phải là “Chiến Tranh Các Vì Sao”. Nhưng không có cái “tôi” tách biệt từ những thời khắc của kinh nghiệm hạnh phúcbất hạnh và cái “tôi” là điều đang kinh nghiệm những thời khắc ấy. Đó sẽ là cái “tôi” không thật, một cái “tôi” không thật sự tồn tại. Và cái “tôi” không chỉ là một từ ngữ; vì thế cái “tôi” chỉ đơn thuần là những gì mà từ ngữ ấy đang liên hệ đến trên căn bản của tất cả những thời khắc trãi qua của một đời sống.

Sự mù mờ, thế thì, sẽ là để nghĩ rằng có một cái “tôi” riêng biệt nào đấy hiện diện trong thân thể này, cư ngụ trong đấy, nối kết với nó bằng cách nào đấy, nhấn những nút bấm, và bây giờ cái “tôi” ấy là đang trải qua cái đau trên bàn chân của tôi, và tôi rất đau khổ và tôi không thích điều ấy. Nó giống như có một cái “tôi” tách biệt với toàn bộ những kinh nghiệm bên trong cái vật xa lạ ấy được gọi là thân thể. Sau đó, trên căn bản sự mê mờ rối rắm về cái “tôi” riêng biệt – cái “tôi” không thật này – với cái “tôi” quy ước và đồng hóa nó với cái “tôi” không thật, chúng ta cảm nhận, với tham dục (ái), “tôi pahir tách biệt khỏi sự buồn phiền này, từ sự đớn đau này, từ sự bất hạnh mà tôi trãi qua với cái đau của thân thể vật lý.” Dĩ nhiên, khi chúng ta không có nhận thức sai lầm ấy về cái “tôi” vững chắc, điều ấy không có nghĩa là rằng chúng ta chỉ ngồi đấy và tiếp tục có cái đớn đau. Nếu bàn chân chúng ta ở trên ngọn lửa, dĩ nhiên, chúng ta đưa bàn chân chúng ta ra khỏi lửa, nhưng khái niệm cái “tôi” ở phía sau là hoàn toàn khác biệt. Không có gì sợ hãi.

Nhưng khái niệm của một cái “tôi” không thật đối kháng với một cái “tôi” quy ước là rất phức tạpcấp tiến cao độ. Vì thế, hãy rời nó bây giờ. Hãy chấm dứt ở đây, thay vào đấy, cho buổi tối hôm nay với một lời hồi hướngChúng ta quán niệm: bất cứ điều hiểu biết nào, bất cứ năng lực tích cực nào đã đến từ điều này, nguyện cầu tất cả được thâm nhập càng sâu sắc hơn hơn nữa, phát triển càng mạnh mẽ hơn hơn nữa, và hành động như nguyên nhân để đạt đến giác ngộ vì lợi ích cho tất cả.

Introductory Lecture on Karma
Alexander Berzin 
Xalapa, Mexico, May 2, 2006
Tuệ Uyển chuyển ngữ
21-03-2010
http://www.berzinarchives.com/web/en/archives/sutra/level2_



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 33259)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(Xem: 6551)
Phật Đà Thập Đại Đệ Tử Tán - Hòa thượng Tuyên Hóa giảng thuật, Nguyễn Minh Tiến Việt dịch
(Xem: 11293)
Các tác phẩm của Thầy phần lớn được dịch từ Hán tạng, gồm giới kinh và các nguồn văn học Phật giáo Đại thừa với tư tưởng uyên thâm về triết họctâm lý học.
(Xem: 30408)
Đã phát khởi chí nguyện Đại thừa, lại kiên quyết thực hiện chí nguyện ấy, đó thực sự là cung cách hùng dũng của con sư tử đang vươn mình, và do đó phải được nhìn đến bằng cung cách của con voi chúa.
(Xem: 30439)
Vua và phu nhân gởi thơ cho Thắng Man, đại lược ca ngợi công đức vô lượng của Như Lai, rồi sai kẻ nội thị tên Chiên Đề La đem thư đến nước A Du Xà... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 7989)
Tất cả các nhà đạo học và thế học muốn thành tựu kết quả tốt đẹp trong cuộc đời, thì trước hết, họ phải trải qua quá trình kham nhẫn, nỗ lực, tu, học, rèn luyện tự thân, giúp đỡ, và đem lại lợi ích cho tha nhân.
(Xem: 12204)
Bảy Đức Thế Tôn quá khứ từ Thế Tôn Tỳ Bà Thi, Thế Tôn Thích Ca, và chư Thế Tôn vị lai đều chứng ngộ Vô Thượng Bồ Đề từ sự chứng ngộ sự thật Duyên khởi.
(Xem: 12266)
Trong các bản Kinh Pháp Cú, phổ biến nhất hiện nay là Kinh Pháp Cú Nam Truyền, tức là Kinh Pháp Cú dịch theo Tạng Pali.
(Xem: 11610)
Có lần Đức Phật sống tại Rajagaha (Vương Xá) trong Khu Rừng Tre gần Nơi Nuôi Những Con Sóc. Lúc bấy giờ, vị Bà La Môn tên là Akkosa Bharadvaja đã nghe người ta đồn đãi như sau:
(Xem: 12838)
Tôi nghe như vầy. Có lần Đức Phật, trong khi đi hoằng pháp ở nước Kosala nơi có một cộng đồng rất đông Tỳ Kheo, ngài đi vào một tỉnh nhỏ nơi cư trú của người Kalama
(Xem: 34795)
Quy Sơn Cảnh Sách Học Giải - Tác Giả: Thiền Sư Quy Sơn Linh Hựu; Thích Thiện Trí (Thánh Tri) Phỏng Việt Dịch và Viết Bài Học Giải
(Xem: 9850)
Kinh này khởi đầu bằng lời người Bà La Môn hỏi rằng làm thế nào người ta có thể tự thanh tịnh hóa khi nhìn thấy một vị Thượng nhân đã Thanh tịnh,
(Xem: 52276)
Nguyên xưa ngài Quán Nguyệt Pháp sư đem hai thời kinh khóa tụng: Mai đóng chung và chiều nhập chung lại làm một đại thể làm một tập lớn. - Chú giải: Ngài Quán Nguyệt; Dịch giả: HT Thích Khánh Anh
(Xem: 10756)
Tôi nghe như vậy: Một thời, đức Thế Tôn trú tại thành phố Śrāvastī (Xá-vệ), nơi rừng cây Jeta (Kì-đà), vườn của Ông Anāthapiṇḍada (Cấp-cô-độc),
(Xem: 10534)
Bài kinh này trong đoạn cuối (bài kệ 787), câu “không nắm giữ gì, cũng không bác bỏ gì” được Thanissaro Bhikkhu ghi chú rằng ...
(Xem: 10720)
Lúc bấy giờ, Bồ tát Đại sĩ Akṣayamatir[1] từ chỗ ngồ đứng dậy, vắt thượng y[2] qua một bên vai, chắp hai tay[3] hướng về đức Thế Tôn và thưa rằng:
(Xem: 10476)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào?
(Xem: 13092)
Đại ý bài kinh này Đức Phật dạy chúng đệ tử không nên truy tìm quá khứ, không nên ước vọng tương lai vì quá khứ đã đoạn tận.
(Xem: 16295)
Evaṃ me sutaṃ, “như vầy tôi nghe”, là lời Ngài Ananda bắt đầu mỗi bài kinh mà có lẽ không Phật tử nào là không biết.
(Xem: 21855)
Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538), thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm.
(Xem: 9628)
Phật dạy giới này áp dụng chung cho tất cả các Phật tử tại gia, không phân biệt Phật tử này thuộc thành phần hay đẳng cấp xã hội nào.
(Xem: 7130)
Sa-môn Thích Đàm Cảnh dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, vào thời Tiêu-Tề (479-502). Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn, tại Canada, năm 2018.
(Xem: 10402)
Đức Phật A Di Đà tự thân có ánh sáng vô lượng, chiếu khắp cả mười phương mà không có vật gì có thể ngăn che. Vì vậy nên Phật A Di Đà có nghĩa là Vô Lượng Quang Phật.
(Xem: 12769)
Nguyên tác Hán văn: Tì-kheo Linh Diệu, tông Thiên Thai soạn - Dịch sang tiếng Việt: Thích Thọ Phước
(Xem: 12802)
Ngài Buddhaghosa sanh ra và lớn lên nước Magadha, thuộc Trung Ấn Độ, vào thế kỷ thứ V trong ngôi làng Ghosa, gần địa danh nơi đức Phật thành đạo Bodhigaya
(Xem: 16240)
Nghiên Cứu Về Kinh A Hàm (Ãgama, Sanscrist)
(Xem: 16540)
Ai nói như sau, này các Tỷ-kheo: "Người này làm nghiệp như thế nào, như thế nào, người ấy cảm thọ như vậy, như vậy".
(Xem: 13873)
Đây là những điều tôi nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Cấp Cô Độc trong vườn cây Kỳ Đà ở thành Vương Xá.
(Xem: 16600)
Vào thời Đức Thích-ca-mâu-ni, không có hệ thống chữ viết được phổ biếnẤn Độ. Do đó, những thuyết giảng của Ngài được ghi nhớ và ...
(Xem: 12136)
"Lại nữa, lúc bấy giờ Mahāmati thưa rằng: “Bạch Thế Tôn, ngài đã từng dạy rằng: từ lúc Như Lai chứng nghiệm giác ngộ cho đến...
(Xem: 13831)
Kinh Địa Tạng là một trong các kinh Đại thừa được phổ biến rộng rãi trong quần chúng Việt Nam từ hơn nửa thế kỷ nay song song với các kinh Kim Cương, Di Đà, Phổ Môn...
(Xem: 14336)
Nguyên tác: Tôn giả Thế Thân (Acarya Vasubandhu) - Hán dịch: Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng; Việt dịch: Tỳ khưu Tâm Hạnh
(Xem: 9220)
No. 1613 - Nguyên tác: Tôn giả An Huệ; Dịch Hán: Tam Tạng Pháp sư Địa-bà-ha-la; Dịch Việt: Tâm Hạnh
(Xem: 11765)
Duy thức nhị thập luận, do bồ tát Thế Thân soạn, ngài Huyền trang dịch vào đời Đường... được thu vào Đại chính tạng, tập 31, No.1590.
(Xem: 11285)
Bồ-tát Trần Na tạo luận. Tam tạng Pháp sư Huyền Trang phụng chiếu dịch. Việt dịch: Quảng Minh
(Xem: 16334)
Nghe như vầy, một thời Đức Phật ở nước Xá Vệ ở vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc cùng chúng đại Tỳ Kheo năm trăm vị. Bấy giờ các thầy Tỳ Kheo...
(Xem: 14348)
No. 699; Hán dịch: Đời Đại Đường, Trung Thiên Trúc, Tam tạng Pháp sư Địa bà ha la, Đường dịch là Nhật Chiếu
(Xem: 16196)
Đức Phật Thích-Ca Mưu-Ni, bắt đầu chuyển pháp-luân, độ cho năm vị Tỳ-Khưu là Tôn-giả Kiều-Trần-Như v.v... Sau cùng, Ngài thuyết pháp độ cho ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 12701)
Kinh Phạm Võng nằm trong Đại Chánh Tạng, tập 24, ký hiệu 1484, gọi đủ là Phạm võng kinh Lô xá na Phật thuyết bồ tát tâm địa giới phẩm đệ thập
(Xem: 12085)
Phật thuyết-giảng Kinh Phạm-Võng để dạy về giới-luật, và các pháp cao-siêu vượt thoát được sáu mươi hai kiến-chấp vốn là các tà-kiến đã...
(Xem: 11802)
Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi, tại Jetavana, vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Độc). Ở đây,,,
(Xem: 15672)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434; Dịch Phạn - Hán: Tam Tạng Cát-ca-dạ, Dịch Hán - Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ; Hiệu đính: HT Thích Như Điển
(Xem: 11521)
Đời Đường, Thận Thủy Sa Môn Huyền Giác Soạn; Thánh Tri dịch nghĩa Việt và viết bài học giải...
(Xem: 14024)
Phật giáo được khai sáng ở Ấn-độ vào năm 589 trước kỉ nguyên tây lịch (năm đức Thích Ca Mâu Ni thành đạo), và đã tồn tại liên tục, phát triển không ngừng trên ...
(Xem: 12020)
Trong truyền thống Phật giáo Bắc truyền, Dược Sư là một bản kinh thường được trì tụng nhằm mục đích giải trừ tật bệnh, cầu nguyện bình an...
(Xem: 12638)
Thích-ca là phiên âm của tiếng Phạn. Phiên âm Hán Việt là Năng Nhân. Tức là họ của đấng hóa Phật ở cõi Ta-bà...
(Xem: 15002)
Kinh chuyển Pháp luân là bài thuyết Pháp đầu tiên của Đức Phật Thích-ca sau khi Ngài đã đắc đạo.
(Xem: 11966)
Ba Ngàn Oai Nghi Của Vị Đại Tỳ Kheo - Được xếp vào tập T24 - Kinh số 1470 - Tổng cộng kinh này có 2 quyển
(Xem: 13137)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 14564)
Satipatthana Sutta là một bản kinh quan trọng làm nền tảng cho một phép thiền định chủ yếu trong Phật giáo là Vipassana...
(Xem: 20730)
Kinh Tứ Thập Nhị Chương là một bài Kinh được truyền bá khá rộng rải ở các Tồng Lâm Tự Viện của Trung QuốcViệt Nam từ xưa đến nay.
(Xem: 13241)
Bản dịch này được trích ra từ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh Vol. 48, No. 2010. Bởi vì lời dạy của Tổ Tăng Xán quá sâu sắc, súc tích, và bao hàm trong 584 chữ Hán,
(Xem: 10970)
Dịch từ Phạn sang Tạng: Kluḥi dbaṅ-po, Lhaḥi zla-ba; Dịch Tạng sang Việt: Phước Nguyên
(Xem: 20717)
Trí Phật là trí Kim – cang, Thân Phật là thân Kim – Sắc, cõi Phật là cõi Hoàng – kim, lời Phật tất nhiên là lời vàng.
(Xem: 14371)
Bấy giờ Hòa Thượng Vakkali nhìn thấy Đức Phật đang đi đến từ xa, và ông đã cố gắng ngồi dậy.
(Xem: 20401)
Xin dâng hết lên Tam Bảo chứng minh và xin Quý Ngài cũng như Quý Vị tùy nghi xử dụng in ấn tiếp tục hay trì tụng cũng như cho dịch ra những ngôn ngữ khác...
(Xem: 17669)
Niệm Phật Tâm Muội do HT Hư Vân soạn, Sa môn Hiển Chơn dịch; Tọa Thiền Dụng Tâm Ký do Viên Minh Quốc Sư soạn, HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 14026)
Khi Bồ-tát Quán Tự Tại hành sâu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, ngài soi thấy năm uẩn đều KHÔNG, liền qua hết thảy khổ ách.
(Xem: 31864)
Viết ra các bài Phật học thường thức này, chúng tôi không có tham vọng giới thiệu toàn bộ Phật pháp và chỉ cốt giúp cho các bạn sơ cơ hiểu được một cách đúng đắn, đạo lý năm thừa trong Phật giáo mà thôi.
(Xem: 12023)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, Kinh văn số 1675. Tác giả: Long Thọ Bồ Tát; Sa Môn Sắc Tử dịch Phạn sang Hán; HT Thích Như Điển dịch Việt
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant