Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

22. Nào Ngờ

Monday, February 21, 201100:00(View: 9709)
22. Nào Ngờ

PHÁP NGỮ LỤC
Thích Đức Niệm
Phật Học Viện Quốc Tế Xuất Bản Phật Lịch 2535 - 1991

22. NÀO NGỜ

Nhớ thời còn là chú điệu ở chùa quê, sau mỗi buổi công phu chiều, tôi gánh nước tưới hoa trong vườn chùa cho mãi đến xẩm tối, mới được vào nghỉ để chuẩn bị lên điện Phật đi thời tịnh độ.

Chùa ở đồng quê, những buổi chiều muôn chim về tổ, tiếng gọi nhau ríu rít trên cành cây cổ thụ trong sân chùa, dường như chúng reo hò mặt mừng chào nhau sau một ngày lặn lội khắp nơi tìm mồi. Cũng như những buổi sáng thức dậy, trước khi lìa cành bay đi khắp ngã tìm miếng ăn, chúng cũng đã một chập nhảy nhót líu lo rộn rả để tạm biệt. Ngày ngày nghe chim hót líu lo, lòng cảm thấy vơi nhẹ nỗi buồn lo nghĩ nhớ, an vui trong cảnh chùa tịch mịch nơi thôn dã.

Hằng ngày, cảnh họp tan sáng chiều của muôn chim, khiến cho tôi liên tưởng đến hiện tượng tụ tán vô thường của kiếp người, nhớ lời cổ đức đã thống thiết nhắn gởi người trần thế:

Cha mẹ ân sâu rồi cũng cách

Vợ chồng nghĩa nặng cũng chia lìa

Tình đời chẳng khác chim chung ngủ

Mỗi sáng đàn nào nấy tự bay.

Rồi có những buổi chiều, khi mặt trời khuất bóng sau rặng núi thẫm xanh, ánh sáng mỗi lúc mỗi yếu ớt dần, hoàng hôn phủ lên vạn vật lớp mỏng mờ sương, trên không trung hiện lên những bức tranh vân cẩu đủ màu hồng tía. Trước cảnh tượng đó, đã lắm lần tôi say mê ngắm nhìn những bức tranh vân cẩu linh hoạt tuyệt diệu ấy, mà lòng ngây ngất quên đi cảnh vật chung quanh, quên cả mình đang chấp tác công quả. Rồi nào ngờ có những hôm, thầy tôi bắt gặp, người mỉm cười với giọng nói hiền hòa:

"Chú Đăng! (Lúc đó ở trong chúng, tôi làm tri đăng) Con đang làm gì đó mà đứng trân trân bất động như tượng đá vậy?" Thật bất ngờ! Tôi giật mình, hơi sượng, lúng túng ấp úng:

'Dạ mô Phật! Bạch thầy, không có chi!". Rồi tôi lặng lẽ tiếp tục công tác gánh nước tưới cây mà lòng tiếc nuối bức tranh vân cẩu tuyệt vời đang treo lơ lửng ở phiá trời tây!

Thầy tôi đi thăm vườn cây hoa kiểng một lượt, cắt xén những cành héo hoa tàn, rồi người thản nhiên yên lặng trở về phương trượng.

Tôi nhìn lại bức tranh vân cẩu tuyệt vời ban nãy, thì giờ đây đã tan biến thành những mảnh mây vụn rã rời không ăn nhập vào đâu. Mỗi lần như vậy, hiện tượng vô thường huyễn ảo khắc sâu nơi lòng. Tôi nghĩ đến vạn vậtkiếp người vô thường, sao mà mong manh quá, chẳng khác nào bức tranh vân cẩu trên trời xanh, bèo trôi dòng nước, sương sớm đầu cành! Bất chợt, tôi nhớ đến lời thơ của thi nhân:

Mây tương cẩu trắng xanh xanh trắng

Trắng rồi xanh cuộc thế thể chiêm bao

Hoa hải đường tươi héo héo tươi

Tươi lại héo người đời như ngọn gió.

Tâm người biến đổi, thế cuộc vần xoay. Tình đời mỏng như trang giấy lộn. Mạng người như thể chỉ mành treo chuông. Thật vậy, có ngờ đâu ngày đi du học của tôi là ngày ra đi ngàn dặm xa khơi, đã hơn hai mươi năm trời mà ngày về quê hương đất mẹ vẫn còn xa xôi dịu vợi như thế này!

Tôi còn nhớ cái ngày ra đi ấy, ngày 22-9-1969, chiếc máy bay Cathay Pacific mang tôi rời khỏi phi trường Tân Sơn Nhất Sàigòn. Ngồi trên máy bay, tôi nhìn quê hương đất mẹ mỗi lúc một lùi xa, mờ dần trong sương mù mây khói. Lòng tôi nao nao xao xuyến ngổn ngang bao mối lo mừng. Lúc đó, niềm hy vọng trào dâng, mong sao hai năm du học thật mau kết thúc, để trở về phục vụ xứ sở đạo pháp, gần thầy gần bạn.

Nào ngờ! Con tàu mang tôi bay bỗng lên không trung, xa lìa xứ sở quê hương vượt trùng dương, để rồi cho đến ngày giờ này, lòng thương nhớ ước mơ năm xưa vẫn chưa có dịp để trở lại trực tiếp đem hết cõi lòng trang trải trên đất mẹ hiền lành.

Tội nghiệp đất mẹ hiền lành đã bao năm hằn sâu lắm vết đau thương, bởi do những đứa con vong nô, thân xác là người Việt mà tâm địa đã mất gốc truyền thống của ông cha, nên đã nghe theo ngoại nhân ban cho chút quyền lợi cặn bã, mà vội bội bạc tình nghĩa đồng bào ruột thịt, không biết thương tiếc giữ gìn đất mẹ!

Ngày được đi du học, tôi cố tránh tiệc tùng tiễn đưa rộn ràng, cũng như cố thúc liễm thân tâm, không muốn vận động hô hào để kiếm sự giúp đỡ rộng rãi của hàng Phật tử, vì lòng tự nghĩ: Mình sẽ làm được gì đây cho đạo pháp xứ sở, mà bây giờ thọ nhận của tín thí nan tiêu, chỉ thêm nặng nợ, không khéo thì thật nguy cho đạo hạnh bản thân, vốn dĩ phước mỏng nghiệp dày. Vô phước sanh ra trong một đất nước triền miên ngập đầy binh đao khói lửa, với tài hèn sức mọn, chỉ còn biết mong được góp phần với núi sông bằng cách cố gắng tu học.

Những bậc Thầy mà tôi được phước duyên gần gũi theo học hầu hạ như: Hòa thượng Tăng Thống Thích Tịnh Khiết, Hòa thượng Thiện Hòa, Hòa thượng Trí Thủ, Hòa thượng Thiện Hoa, Hòa Thượng Trí Hữu, Hòa thượng Thiện Minh v.v..., lòng những mơ ước sau khi học xong trở lại quê hương, phụng sự đạo pháp, phục vụ xứ sở dưới sự chỉ giáo của các Ngài.

Nào ngờ! Nay quê hương vẫn còn bị những đứa con vong bản mù quáng đang tung hoành làm thêm rách nát, tổ chức của đạo pháp cũng theo đó tan hàng, các bậc thấy kính thương dường như chán chường nhân thế, đã vội giũ sạch trần duyên sang bên kia thế giới Niết Bàn! Cõi trần gian giờ đây vắng bóng các Ngài hành đạo hoằng dương chánh pháp. Tăng tín đồ khắp nơi mất đi những tàng cây đạo hạnh che mát, khô cạn những dòng pháp nhủ hương vị ngọt ngào. Đất mẹ cũng thiếu vắng đi những bàn tay cần mẫn đắp xây. Vườn hoa đạo hạnh cũng theo đó mất đi những đóa hoa tinh khiết. Mà ngày về quê mẹ của tôi lại vẫn còn xa xôi!

Nay đây chỉ còn biết đem tâm thành với hết năng lực của mình, nguyện tiếp nối sự nghiệp hành đạo, phụng sự chánh pháp của các Ngài, để hầu mong báo đáp thâm ân pháp nhủ.

Đời người đã không biết bao lần với chữ "ngờ"! Lục tổ Huệ Năng , sau khi bừng ngộ, đã thưa với Ngũ tổ Hoằng Nhẫn: "Nào ngờ tự tánh vốn đã thanh tịnh. Nào ngờ tự tánh vốn không sanh diệt. Nào ngờ tự tánh vốn có đầy đủ ...". Đức Phật Thích Ca sau khi giác ngộ, đã nói: "Nào ngờ tất cả chúng sanh đều có Phật tánh sáng suốt". Sau khi thái tử Tất Đạt Đa bỏ hoàng cung xuất gia, vua Tịnh Phạn đã than thở với quần thần: "Nào ngờ con ta xem vương vị quyền uy phú quý như rác trên mặt, như bụi trong mắt, tìm cách xa lánh, để chọn lấy đời sống tu hành thanh bần lạc dạo, nặng mang tâm hạnh vị tha, trải lòng thương bình đẳng đi khất thực hóa độ từng nhà!"

Hễ còn vần xoay trong kiếp vô thường thì còn thương nhớ vấn vương. Nhưng thương nhớ vấn vương mà không biết theo con đường chân chánh của Đức Phật, của các bậc Thầy đã vạch sẵn để đi, thì thương nhớ chẳng ích lợi gì. Y nương gần gũi mà không chánh tâm chuyên cần hành đạo để tạo cho mình một đời đạo hạnh, thì chẳng bằng thân tuy xa mà lòng vẫn kính nhớ phụng thờ, bằng cách chân thành noi theo tâm hạnh của các Ngài mà hành trì. Đức Phật nói: "Dù ta có ở đời hằng vạn triệu năm đi nữa, mà các đệ tử của ta không y giới pháp tu hành thì sự hiện diện ở đời của ta cũng chẳng lợi ích gì".

Mặt trời hiện có trên không trung, nhưng người mù không thấy sáng. Kẻ phá giới, lợi dụng mặc áo giải thoát, sống trong nhà Như Lai tạo đủ chuyện phiền khổ cho người khác và gây rối Phật Pháp thì không xứng đáng là đệ tử Phật. Câu chuyện hai vị tỳ kheo đồng đến ra mắt Phật: Một vị nửa đường bị khát nước giữ giới mà mà chết. Còn vị kia được sống đến gặp Phật. Phật quở rằng: "Thầy tỳ kheo thà chết mà giữ trọn giới kia, nay tuy không thấy ta bằng thân thể này, nhưng đã gặp ta bằng tâm linh. Vị Ty kheo ấy đã an vui trong cảnh giới Niết Bàn. Còn ngươi phá giới, nay tuy gặp ta bằng xác thể này, nhưng đã cách xa ta nghìn muôn kiếp rồi".

Trong kinh Đại Bát Niết Bàn, phẩm Tà Chánh thứ chín Phật dạy rằng: "Sau khi ta nhập Niết Bàn, khoảng bảy trăm năm về sau, những ma vươngđồ đệ quyến thuộc của chúng muốn chánh pháp của ta sớm hoại diệt, nên chúng hóa hiện làm tỳ kheo, tỳ kheo ni, cư sĩ, có những hành vi ô uế độc ác gian tà nhằm làm tổn thương hủy diệt chánh pháp của ta".

Cứ như lời huyền ký của Phật, thì nơi nào không luận là chùa viện hay đạo tràng, có hạng tăng sĩ, cư sĩ bất lương bất hạnh, manh tâm thích được quyền danh lợi dưỡng, tự xưng là Phật là Thánh, hoặc làm điều quấy, thì nơi đó chính là hiện thân của ma vương. Chùa đó là chùa chứa ma, thờ ma. Hình thức phương cách hành hoạt của kẻ ma ngụy làm đệ tử Phật này, hoặc lộ liễu kín đáo, nhằm mục đích gây đổ vỡ hàng ngã tử chúng đệ tử Phật, làm mất thanh đanh đạo pháp đến chỗ suy tàn.

Thế nên kinh Đại Niết Bàn cũng như kinh Đại Tập, Đức Phật nói: "Nơi nào tôn trọng thọ trì giới pháp là còn chơn chánh đạo pháp. Những ai còn nghiêm chỉnh gìn giữ giới pháp, biết sống tri túc, mới chánh thật là đệ tử ta".

Rất mong quý vị khởi đi từ những "nào ngờ" này và những nào ngờ của chính bản thân quý vị, lấy đó suy ngẫm kỹ để sớm hồi tâm phản tỉnh, hướng đời mình trên đường thánh thiện, để xây dựng hạnh phúc hiện tại và tương lai.

Send comment
Off
Telex
VNI
Your Name
Your email address
(View: 47031)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(View: 8977)
Phật Đà Thập Đại Đệ Tử Tán - Hòa thượng Tuyên Hóa giảng thuật, Nguyễn Minh Tiến Việt dịch
(View: 14296)
Các tác phẩm của Thầy phần lớn được dịch từ Hán tạng, gồm giới kinh và các nguồn văn học Phật giáo Đại thừa với tư tưởng uyên thâm về triết họctâm lý học.
(View: 32507)
Đã phát khởi chí nguyện Đại thừa, lại kiên quyết thực hiện chí nguyện ấy, đó thực sự là cung cách hùng dũng của con sư tử đang vươn mình, và do đó phải được nhìn đến bằng cung cách của con voi chúa.
(View: 32390)
Vua và phu nhân gởi thơ cho Thắng Man, đại lược ca ngợi công đức vô lượng của Như Lai, rồi sai kẻ nội thị tên Chiên Đề La đem thư đến nước A Du Xà... HT Thích Thanh Từ dịch
(View: 10112)
Tất cả các nhà đạo học và thế học muốn thành tựu kết quả tốt đẹp trong cuộc đời, thì trước hết, họ phải trải qua quá trình kham nhẫn, nỗ lực, tu, học, rèn luyện tự thân, giúp đỡ, và đem lại lợi ích cho tha nhân.
(View: 14541)
Bảy Đức Thế Tôn quá khứ từ Thế Tôn Tỳ Bà Thi, Thế Tôn Thích Ca, và chư Thế Tôn vị lai đều chứng ngộ Vô Thượng Bồ Đề từ sự chứng ngộ sự thật Duyên khởi.
(View: 13939)
Trong các bản Kinh Pháp Cú, phổ biến nhất hiện nay là Kinh Pháp Cú Nam Truyền, tức là Kinh Pháp Cú dịch theo Tạng Pali.
(View: 13578)
Có lần Đức Phật sống tại Rajagaha (Vương Xá) trong Khu Rừng Tre gần Nơi Nuôi Những Con Sóc. Lúc bấy giờ, vị Bà La Môn tên là Akkosa Bharadvaja đã nghe người ta đồn đãi như sau:
(View: 17566)
Tôi nghe như vầy. Có lần Đức Phật, trong khi đi hoằng pháp ở nước Kosala nơi có một cộng đồng rất đông Tỳ Kheo, ngài đi vào một tỉnh nhỏ nơi cư trú của người Kalama
(View: 39997)
Quy Sơn Cảnh Sách Học Giải - Tác Giả: Thiền Sư Quy Sơn Linh Hựu; Thích Thiện Trí (Thánh Tri) Phỏng Việt Dịch và Viết Bài Học Giải
(View: 12321)
Kinh này khởi đầu bằng lời người Bà La Môn hỏi rằng làm thế nào người ta có thể tự thanh tịnh hóa khi nhìn thấy một vị Thượng nhân đã Thanh tịnh,
(View: 55169)
Nguyên xưa ngài Quán Nguyệt Pháp sư đem hai thời kinh khóa tụng: Mai đóng chung và chiều nhập chung lại làm một đại thể làm một tập lớn. - Chú giải: Ngài Quán Nguyệt; Dịch giả: HT Thích Khánh Anh
(View: 13223)
Tôi nghe như vậy: Một thời, đức Thế Tôn trú tại thành phố Śrāvastī (Xá-vệ), nơi rừng cây Jeta (Kì-đà), vườn của Ông Anāthapiṇḍada (Cấp-cô-độc),
(View: 12816)
Bài kinh này trong đoạn cuối (bài kệ 787), câu “không nắm giữ gì, cũng không bác bỏ gì” được Thanissaro Bhikkhu ghi chú rằng ...
(View: 13357)
Lúc bấy giờ, Bồ tát Đại sĩ Akṣayamatir[1] từ chỗ ngồ đứng dậy, vắt thượng y[2] qua một bên vai, chắp hai tay[3] hướng về đức Thế Tôn và thưa rằng:
(View: 13277)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào?
(View: 15317)
Đại ý bài kinh này Đức Phật dạy chúng đệ tử không nên truy tìm quá khứ, không nên ước vọng tương lai vì quá khứ đã đoạn tận.
(View: 19212)
Evaṃ me sutaṃ, “như vầy tôi nghe”, là lời Ngài Ananda bắt đầu mỗi bài kinh mà có lẽ không Phật tử nào là không biết.
(View: 25589)
Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538), thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm.
(View: 11110)
Phật dạy giới này áp dụng chung cho tất cả các Phật tử tại gia, không phân biệt Phật tử này thuộc thành phần hay đẳng cấp xã hội nào.
(View: 8755)
Sa-môn Thích Đàm Cảnh dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, vào thời Tiêu-Tề (479-502). Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn, tại Canada, năm 2018.
(View: 12577)
Đức Phật A Di Đà tự thân có ánh sáng vô lượng, chiếu khắp cả mười phương mà không có vật gì có thể ngăn che. Vì vậy nên Phật A Di Đà có nghĩa là Vô Lượng Quang Phật.
(View: 15312)
Nguyên tác Hán văn: Tì-kheo Linh Diệu, tông Thiên Thai soạn - Dịch sang tiếng Việt: Thích Thọ Phước
(View: 14952)
Ngài Buddhaghosa sanh ra và lớn lên nước Magadha, thuộc Trung Ấn Độ, vào thế kỷ thứ V trong ngôi làng Ghosa, gần địa danh nơi đức Phật thành đạo Bodhigaya
(View: 18630)
Nghiên Cứu Về Kinh A Hàm (Ãgama, Sanscrist)
(View: 18473)
Ai nói như sau, này các Tỷ-kheo: "Người này làm nghiệp như thế nào, như thế nào, người ấy cảm thọ như vậy, như vậy".
(View: 15778)
Đây là những điều tôi nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Cấp Cô Độc trong vườn cây Kỳ Đà ở thành Vương Xá.
(View: 20249)
Vào thời Đức Thích-ca-mâu-ni, không có hệ thống chữ viết được phổ biếnẤn Độ. Do đó, những thuyết giảng của Ngài được ghi nhớ và ...
(View: 14369)
"Lại nữa, lúc bấy giờ Mahāmati thưa rằng: “Bạch Thế Tôn, ngài đã từng dạy rằng: từ lúc Như Lai chứng nghiệm giác ngộ cho đến...
(View: 15963)
Kinh Địa Tạng là một trong các kinh Đại thừa được phổ biến rộng rãi trong quần chúng Việt Nam từ hơn nửa thế kỷ nay song song với các kinh Kim Cương, Di Đà, Phổ Môn...
(View: 16072)
Nguyên tác: Tôn giả Thế Thân (Acarya Vasubandhu) - Hán dịch: Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng; Việt dịch: Tỳ khưu Tâm Hạnh
(View: 10702)
No. 1613 - Nguyên tác: Tôn giả An Huệ; Dịch Hán: Tam Tạng Pháp sư Địa-bà-ha-la; Dịch Việt: Tâm Hạnh
(View: 13385)
Duy thức nhị thập luận, do bồ tát Thế Thân soạn, ngài Huyền trang dịch vào đời Đường... được thu vào Đại chính tạng, tập 31, No.1590.
(View: 13152)
Bồ-tát Trần Na tạo luận. Tam tạng Pháp sư Huyền Trang phụng chiếu dịch. Việt dịch: Quảng Minh
(View: 19168)
Nghe như vầy, một thời Đức Phật ở nước Xá Vệ ở vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc cùng chúng đại Tỳ Kheo năm trăm vị. Bấy giờ các thầy Tỳ Kheo...
(View: 16683)
No. 699; Hán dịch: Đời Đại Đường, Trung Thiên Trúc, Tam tạng Pháp sư Địa bà ha la, Đường dịch là Nhật Chiếu
(View: 18120)
Đức Phật Thích-Ca Mưu-Ni, bắt đầu chuyển pháp-luân, độ cho năm vị Tỳ-Khưu là Tôn-giả Kiều-Trần-Như v.v... Sau cùng, Ngài thuyết pháp độ cho ông Tu-bạt-đà-la.
(View: 14793)
Kinh Phạm Võng nằm trong Đại Chánh Tạng, tập 24, ký hiệu 1484, gọi đủ là Phạm võng kinh Lô xá na Phật thuyết bồ tát tâm địa giới phẩm đệ thập
(View: 13944)
Phật thuyết-giảng Kinh Phạm-Võng để dạy về giới-luật, và các pháp cao-siêu vượt thoát được sáu mươi hai kiến-chấp vốn là các tà-kiến đã...
(View: 13495)
Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi, tại Jetavana, vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Độc). Ở đây,,,
(View: 18302)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434; Dịch Phạn - Hán: Tam Tạng Cát-ca-dạ, Dịch Hán - Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ; Hiệu đính: HT Thích Như Điển
(View: 13326)
Đời Đường, Thận Thủy Sa Môn Huyền Giác Soạn; Thánh Tri dịch nghĩa Việt và viết bài học giải...
(View: 16627)
Phật giáo được khai sáng ở Ấn-độ vào năm 589 trước kỉ nguyên tây lịch (năm đức Thích Ca Mâu Ni thành đạo), và đã tồn tại liên tục, phát triển không ngừng trên ...
(View: 14406)
Trong truyền thống Phật giáo Bắc truyền, Dược Sư là một bản kinh thường được trì tụng nhằm mục đích giải trừ tật bệnh, cầu nguyện bình an...
(View: 15066)
Thích-ca là phiên âm của tiếng Phạn. Phiên âm Hán Việt là Năng Nhân. Tức là họ của đấng hóa Phật ở cõi Ta-bà...
(View: 17343)
Kinh chuyển Pháp luân là bài thuyết Pháp đầu tiên của Đức Phật Thích-ca sau khi Ngài đã đắc đạo.
(View: 13703)
Ba Ngàn Oai Nghi Của Vị Đại Tỳ Kheo - Được xếp vào tập T24 - Kinh số 1470 - Tổng cộng kinh này có 2 quyển
(View: 15092)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(View: 17053)
Satipatthana Sutta là một bản kinh quan trọng làm nền tảng cho một phép thiền định chủ yếu trong Phật giáo là Vipassana...
(View: 24078)
Kinh Tứ Thập Nhị Chương là một bài Kinh được truyền bá khá rộng rải ở các Tồng Lâm Tự Viện của Trung QuốcViệt Nam từ xưa đến nay.
(View: 14877)
Bản dịch này được trích ra từ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh Vol. 48, No. 2010. Bởi vì lời dạy của Tổ Tăng Xán quá sâu sắc, súc tích, và bao hàm trong 584 chữ Hán,
(View: 13008)
Dịch từ Phạn sang Tạng: Kluḥi dbaṅ-po, Lhaḥi zla-ba; Dịch Tạng sang Việt: Phước Nguyên
(View: 23021)
Trí Phật là trí Kim – cang, Thân Phật là thân Kim – Sắc, cõi Phật là cõi Hoàng – kim, lời Phật tất nhiên là lời vàng.
(View: 16454)
Bấy giờ Hòa Thượng Vakkali nhìn thấy Đức Phật đang đi đến từ xa, và ông đã cố gắng ngồi dậy.
(View: 23810)
Xin dâng hết lên Tam Bảo chứng minh và xin Quý Ngài cũng như Quý Vị tùy nghi xử dụng in ấn tiếp tục hay trì tụng cũng như cho dịch ra những ngôn ngữ khác...
(View: 20561)
Niệm Phật Tâm Muội do HT Hư Vân soạn, Sa môn Hiển Chơn dịch; Tọa Thiền Dụng Tâm Ký do Viên Minh Quốc Sư soạn, HT Thích Thanh Từ dịch
(View: 16710)
Khi Bồ-tát Quán Tự Tại hành sâu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, ngài soi thấy năm uẩn đều KHÔNG, liền qua hết thảy khổ ách.
(View: 33686)
Viết ra các bài Phật học thường thức này, chúng tôi không có tham vọng giới thiệu toàn bộ Phật pháp và chỉ cốt giúp cho các bạn sơ cơ hiểu được một cách đúng đắn, đạo lý năm thừa trong Phật giáo mà thôi.
(View: 13662)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, Kinh văn số 1675. Tác giả: Long Thọ Bồ Tát; Sa Môn Sắc Tử dịch Phạn sang Hán; HT Thích Như Điển dịch Việt
Quảng Cáo Bảo Trợ
free website cloud based tv menu online azimenu
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant