Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

34. Diệt đế

Wednesday, February 23, 201100:00(View: 9510)
34. Diệt đế

PHÁ MÊ KHAI NGỘ
 Lê Sỹ Minh Tùng

34. Diệt đế
(Nirodha Dukkha) (Cessation of Suffering)

 Qua hai phần Khổ đếTập đế thì chúng ta đã quen thuộc với đời là biển khổ và nguyên nhân nào đưa đến những cảnh khổ nầy. Nói như thế, không phải Đức Phật chỉ cho chúng ta thấy đời là biển khổ để chúng ta nhìn cuộc đời này toàn là một màu đen âm u ảm đạm và không có chút ánh sáng. Sống như thế thì ích lợi gì? Và chân lý như vậy thì làm sao mà gọi là chân lý tối thượng cho được? Xin trả lời rằng giáo lý nhà Phật là một giáo lý hoàn toàn viên mãn để mang lại hạnh phúc chân thật cho tất cả mọi người. Đứng về phương diện tâm lý thì Đức Phật cho ta thấy rằng: khi đói thì mình mới thấu hiểu được giá trị lúc được no, cũng như kẻ nghèo thì sẽ sung sướng khi được giàu sang và khi đau ốm mới thấy giá trị của lúc còn lành mạnh. Cùng một ý nghĩa đó, Đạo Phật không phải chỉ giới thiệu những cảnh khổ ải, thê lương để gieo vào lòng chúng ta sự chán đời và tuyệt vọng, mà có mục đích để khai thị cho chúng sinh biết rõ tận căn cơ của mọi sự khổ để tìm phương pháp đạt đến một chân hạnh phúc và chứng được Niết Bàn.

 Trong thế gian này chúng ta thường thấy có hai hạng người:

 1) Hạng người thứ nhất là họ nhìn cuộc sống này với một tư tưởng lạc quan. Họ rất yêu đời bởi vì họ đang hưởng thụ giàu sang phú quý và công danh thành đạt. Cuộc đời này đối với họ thì lúc nào cũng đẹp như bài thơ nên họ không cần phải tu nhân tích đức và lo cho ngày mai. Họ nghĩ rằng với sự giàu có như vậy thì người khác cần đến họ chứ họ chả cần đến ai. Đối với những người nầy thì vật chất, tiền tài và danh vọng đã làm tâm trí của họ bị lu mờ. Họ chỉ thấy ngày nay mà quên đi ngày mai. Họ chỉ biết hiện tại mà không nghĩ gì đến kiếp tương lai. Phật giáo gọi họ là những kẻ không sáng suốt, mê muội. Tai sao thế? Chúng ta thấy trên thế gian nầy có ai giàu sang, quyền thế hơn vua Tần Thủy Hoàng ngày xưa chưa? Vậy vua nhà Tần bây giờ ở đâu? Có lẽ ông ta đã tiêu ma thành cát bụi từ mấy ngàn năm rồi còn đâu nữa mà an hưởng! Nên nhớ là cuộc đời tạm bợ mà chúng ta đang sống nầy chẳng khác chi là quán trọ chứ đâu phải là nhà. Họ có thể sung sướng ngày nay hoặc là kiếp nầy nhưng ngày mai, kiếp sau thì sao? Họ có thể thoát ra khỏi cảnh ốm đau, già yếu được không? Còn thân tứ đại của họ kéo dài được bao lâu để cho họ an hưởng? Cái sung sướng vật chất tạm bợ có phải là sung sướng chân thật không? Hay là càng giàu thì càng lo! Càng trèo cao thì càng té nặng.

 2) Còn hạng người thứ hai là loại người thông minh và có trí tuệ sáng suốt. Thật vậy, chỉ có sự thức tỉnh sáng suốt mới cho chúng ta thấy đâu là mê, đâu là thật. Không phá mê thì làm sao mà khai ngộ cho được? Những hạnh phúc trên trần gian nầy đều là sự sung sướng giả tạo. Bởi vì khi vừa mới chớm thấy sung sướng thì chúng ta đã lo lắng bồn chồn, không biết sự sung sướng này sẽ kéo dài bao lâu. Lo lắngđau khổ chứ ai gọi là sung sướng bao giờ. Thế thì chưa thấy sung sướngđau khổ đã hiện lên rồi. Người thông trí tuệ thì biết rằng mọi cấu tạo trên thế gian đều là vô thường bao gồm cả cái thân tứ đại của chúng ta. Một khi đã là vô thường thì làm sao mà tồn tại bất biến mãi mãi cho được. Nay có, mai không, lúc ẩn, lúc hiện biến chuyển quay cuồng theo thời gian

 Vậy đâu là chân hạnh phúc? 

Đây là điểm hay nhất trong toàn bộ giáo lý của Đức Phật vì nó là cứu cánh của chúng sinh khi tu đạo. Thử nghĩ cả đời chúng ta cố gắng tu hànhcuối cùng không đạt đến chỗ này được thì thực là uổng công phí sức. Cũng như người học sinh cho dầu có học hành cực khổ cách mấy mà không thi đỗ thì chẳng ích lợi gì. Công trình dồi kinh mài sử chẳng khác nào như dã tràng xe cát biển đông mà thôi. Chỉ khi nào chúng ta chứng được chân hạnh phúc thì lúc đó chúng ta mới thật sự đạt được hạnh phúc viên mãn và không còn bị chi phối bởi luật sanh tử luân hồi cũng như không còn phiền não chấp trước đeo đuổi ta nữa.

Vậy thế nào là chân hạnh phúc?

Phật giáo không dạy con người những hạnh phúc tạm bợ nhất thời của thế gian vì chính nó là cội nguồn của biết bao lo âu phiền não và khổ đau sau nầy. Chẳng hạn như chúng ta vừa mới mua một cái nhà thật sang thật đẹp. Ngày tân gia chắc chắn phải là ngày mà gia đình hảnh diện và hạnh phúc. Nhưng cái hạnh phúc nầy kéo dài bao lâu? Vài tháng sau thì chủ nhà phải lo lắng nào là tiền nhà, tiền thuế, tiền bảo hiểm, tiền bảo trì và bao nhiêu món tiền khác liên quan đến căn nhà nầy. Vậy cái hạnh phúc nhất thời trong vài tháng đầu có phải là cội nguồn của biết bao lo lắng buồn phiền của những năm tháng sau nầy. Vì thế hạnh phúcđạo Phật nhấn mạnh ở đây chính là sự an lạc, thanh tịnh trong tâm của con người. Đây chính là Niết bàn trong trần thế vậy.

Sau cùng, Diệt đếchân lý chân thật, chắc chắn và giúp chúng sinh đạt được một hạnh phúc chân thật, viên mãn. Một khi chúng sinh chứng được quả vị nầy thì chúng sinh đó đã chứng được Niết Bàn vậy.

Nhưng trước khi nói về Niết Bàn, chúng tôi muốn giới thiệu đến quý vị tất cả những giai đoạn từ lúc mới bắt đầu tu cho tới khi đạt đến quả vị Bồ-tát, và Phật. Vâng, đây không phải là việc dễ dàng mà đạt được. Nhưng nếu chúng ta cố gắng trì công thì giấc mơ kia một ngày nào đó sẽ biến thành sự thật. Bởi vì ngày xưa Nguyễn Bá Học cũng nói:” Đường đi không khó vì ngăn sông cách núi, mà khó vì lòng người ngại núi e sông”. Hay là:” Không sợ bông hồng kia có quá nhiều gai, mà chỉ sợ trong những gai kia không có một đóa hoa hồng mà thôi”. Thật vậy, Đức Phật đã hiểu rõ sự khó khăn nầy nên Ngài đã chế ra 84,000 pháp môn khác nhau để giúp chúng sinh tùy theo căn cơ và khả năng của mình mà cố gắng tu hành ngõ hầu đạt thành chánh quả. Do đó mới có câu:

“Nắm lấy chuổi tràng trần niệm dứt,

Nghiểm nhiên thành Phật đã từ lâu”.

Vậy chúng ta phải qua những giai đoạn nào?

 Tu Gia Hạnh: Đây là giai đoạn khởi đầu trong cuộc đời tu hành của chúng ta. Việc đầu tiên là phải thông qua giáo lý căn bản của đạo Phật bắt đầu từ luật Nhân quả Luân hồi, thuyết Vô thường Vô ngã, Nghiệp cănNghiệp báo, Từ Bi hỷ xả, Bố thí, Trì giớicuối cùngTứ diệu đế. Một khi quý vị đã nắm chắc những điều căn bản đó thì những điều thấy biết sai lầm điên đảo sẽ tan biến mất.Tuy nhiên, muốn trừ bỏ tất cả mọi Kiến hoặc, thì chúng ta phải cần nhiều thì giờ tu tập để loại mọi thành kiến mê lầm của phàm phu mà đến Thánh trí để dự vào vòng Thánh quả.

1) Tu-Đà-Hoàn: Một khi đã qua được giai đoạn đầu thì ý thức của chúng ta đã sáng suốt không còn bị mê lầm nữa. Tuy nhiên thất thức vẫn còn chấp ngã nên chúng ta vẫn còn nằm trong vòng luân hồi sanh tử. Một khi phá được cái chấp ngã thì chúng ta đã chứng được vị Tu-Đa-Hoàn.

2) Tư-Đà-Hàm: Sau khi chứng được quả Tu-Đà-Hoàn ở trên, có nghĩa là chúng ta đã loại được Kiến hoặc nhưng chưa đụng tới Tư hoặc. Tư hoặc là loại nặng ký và gồm có 9 phần (hạ hạ, hạ trung, hạ thượng, trung hạ, trung trung, trung thượng, thượng hạ, thượng trung, thượng thượng). Nếu chúng ta đạt được 6 phần đầu thì quý vị đã chứng được Tu-Đà-Hàm. Đây là quả vị thứ hai trong Thánh văn thừa.

3) A-Na-Hàm: tạm dịch là bất lai, có nghĩa là không trở về cõi dục nữa. Đây là giai đoạn cực kỳ quan trọng của kẻ tu hành bởi vì khi bước qua ngưỡng cửa này thì họ không còn ảnh hưởng của sự sanh tử nữa. Họ sẽ không còn bị tái sanh trừ khi chính họ phát nguyện trở lại cõi nầy để độ sanh. Nếu chúng ta cố gắng đạt 3 phần còn laị của Tư hoặc thí quý vị đã chứng được quả A-Na-Hàm.

4) A-La-Hán: Khi chúng ta đã bỏ được những mê lầm của Kiến hoặcTư hoặc thì việc sau cùng là phải cố gắng loại bỏ phần còn lại của mê lầm là Vi Tế hoặc.

Ø Đối với Tham vi tế, chúng ta có thể dùng Thiền định để đạt minh Tâm kiến tánh hoặc Niệm Phật cho đến khi nhất Tâm bất loạn để chế phụctiêu diệt nó.

Ø Đối với Sân vi tế, đối với loại nầy thì thật khó mà nhận biết được những hiện tượng nhỏ nhặt nầy bởi vì nó chỉ phát hiện dưới hình thức tiềm năng. Chẳng hạn như đôi khi chúng ta cảm thấy chán nản buồn bực mà không hiểu tại sao. Những tình cảm này xuất hiện rất yếu ớt đến nổi chúng ta chỉ có thể cảm nhận nó một cách mơ hồ hoặc là đôi khi không thể nhận biết được. Để trừ Sân vi tế, con người phải phát tâm Bồ-đề, tham thiền hay niệm Phật để làm cho tâm trong lành, hiền hòa. Cố gắng làm cho mọi người được an vui thì tâm của họ sẽ an tịnh.

Ø Đối với Si vi tế, chúng sinh phải phát huy trí tuệ để giúp cho tâm thanh tịnh bởi vì trí tuệ lúc nào cũng thắng vô minh.

Khi đã loại bỏ mọi Vi Tế thì chúng sinh đã chứng được quả A-La-hán. Đây là quả vị cao nhất trong Thanh văn thừa. Đến đây, thì quý vị có phước đức hoàn toàn, trí tuệ cao cả, không còn bị phiền não quấy phá, và dĩ nhiên không bị luân hồi sanh tử chi phối nữa. Đối với con người, thoát khỏi vòng luân hồi sanh tử là một thành công vĩ đại bởi vì họ không bị sống chết, khổ đau, lo buồn và sợ hãi chi phối nữa.

Khi đã chứng được quả vị A-La-hán thì chúng sinh có hai chọn lựa:

1) Nếu chúng sinh thỏa chí với địa vị này mà không muốn phát tâm tu thêm để đạt những quả vị cao hơn thì được gọi là Bất hối tâm đơn A-la-hán.

2) Nếu chúng sinhlợi căn lợi trí và muốn phát tâm tu luyện thêm chứ không tự mãn ở địa vị đã chứng thì được gọi là Hồi tâm đại A-la-hán.

Thêm một điểm nữa là khi tu luyện, hể chúng ta đoạn trừ mê lầm được chừng nào thì chứng quả đến chừng ấy chớ không phải chờ sanh qua kiếp khác mới chứng được quả kia đâu.

Một khi quý vị chứng được quả Tu-Đa-Hoàn thì chúng sinh có được 5 phép thần thông sau đây:

1) Thiên nhãn thông: là có nhãn lực nhìn thấy khắp muôn loài cùng sự sanh hóa trong thế gian bao la hiện tại.

2) Thiên nhĩ thông: là có nhĩ lực để nghe khắp mọi nơi bao gồm loài người và lòai vật.

3) Tha tâm thông: là có tâm lực biết được tâm niệm sở cấu của kẻ khác.

4) Túc mạng thông: là có trí lực hiểu biết các kiếp trước của mình.

5) Thần tức thông: là có thể thu nhận được thần thông tự tại như ý muốn.

Năm phép thần thông nầy, tuy có phần đặc biệt hơn người thường nhiều nhưng chưa đạt được điểm quan trọng nhất là Lậu Tận Thông. Bởi vì chứng được lậu tận thông sẽ mang đến trí tuệ thông suốt của ba đời. Không còn bị các phiền não làm ngăn cản và thoát ra được cảnh sanh tử luân hồi. Chỉ có những vị A-la-hán mới chứng được quả vị này.

Sau cùng, Đức Phật dạy chúng sanh phải trải qua 55 quả vị thì mới thành Phật được. Đó là: Thập tín, Thập trụ, Thập hạnh, Thập hồi hướng, Tứ gia hạnh, Thập địa và sau cùng là Đẳng giác. Song song với 55 quả vị nầy thì chúng sinh còn phải đương đầu với 50 món ma và đây là những điều nguy hiểm nhứt trên đường tu hành.

Chúng ta hiện tại đang sống trong thời mạc pháp thành thử không có gì là lạ khi chúng ta nghe có người tự xưng mình là Bồ-tát nầy hay Quán Thế Âm nọ. Đức Phật khi còn sanh tiền đã nghiêm cấm các đệ tử của Ngài về việc mạo xưng này.

Phật dạy rằng:

”A Nan, chính thật Bồ-tát hay A-la-hán thị hiện, mà còn không cho người biết, tại sao những người phàm phu lại dám mạo nhận xưng mình là Phật, hay Bồ-tát... Cũng như người cùng đinh, mà mạo xưng mình là Đế vương, thì sẽ bị tội tru diệt. A Nan, nếu người tu hành, không đoạn trừ đại vọng ngữ, mà muốn được đạo, thì cũng như người tự cắn cái rún của mình, làm sao mà cắn được”. 

Khi nói về tâm phiền não, tâm ô nhiễm thì có người hỏi: Nếu tâm này (tâm ô nhiễm) bị diệt thì lấy gì để tiếp tục tu hành? Xin thưa: Tâm của chúng ta có hai phần: chơn thể và vọng tưởng. Khi diệt, thì chúng ta chỉ diệt cái tâm “vọng tưởng” mà thôi chớ không phải diệt cái “chơn thể” của tâm. Cũng như vì gió mà làm cho nước nổi sóng. Nếu gió ngừng thì sóng sẽ lặn chớ nước không bị diệt.


Send comment
Off
Telex
VNI
Your Name
Your email address
(View: 47028)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(View: 8977)
Phật Đà Thập Đại Đệ Tử Tán - Hòa thượng Tuyên Hóa giảng thuật, Nguyễn Minh Tiến Việt dịch
(View: 14296)
Các tác phẩm của Thầy phần lớn được dịch từ Hán tạng, gồm giới kinh và các nguồn văn học Phật giáo Đại thừa với tư tưởng uyên thâm về triết họctâm lý học.
(View: 32507)
Đã phát khởi chí nguyện Đại thừa, lại kiên quyết thực hiện chí nguyện ấy, đó thực sự là cung cách hùng dũng của con sư tử đang vươn mình, và do đó phải được nhìn đến bằng cung cách của con voi chúa.
(View: 32388)
Vua và phu nhân gởi thơ cho Thắng Man, đại lược ca ngợi công đức vô lượng của Như Lai, rồi sai kẻ nội thị tên Chiên Đề La đem thư đến nước A Du Xà... HT Thích Thanh Từ dịch
(View: 10112)
Tất cả các nhà đạo học và thế học muốn thành tựu kết quả tốt đẹp trong cuộc đời, thì trước hết, họ phải trải qua quá trình kham nhẫn, nỗ lực, tu, học, rèn luyện tự thân, giúp đỡ, và đem lại lợi ích cho tha nhân.
(View: 14541)
Bảy Đức Thế Tôn quá khứ từ Thế Tôn Tỳ Bà Thi, Thế Tôn Thích Ca, và chư Thế Tôn vị lai đều chứng ngộ Vô Thượng Bồ Đề từ sự chứng ngộ sự thật Duyên khởi.
(View: 13938)
Trong các bản Kinh Pháp Cú, phổ biến nhất hiện nay là Kinh Pháp Cú Nam Truyền, tức là Kinh Pháp Cú dịch theo Tạng Pali.
(View: 13578)
Có lần Đức Phật sống tại Rajagaha (Vương Xá) trong Khu Rừng Tre gần Nơi Nuôi Những Con Sóc. Lúc bấy giờ, vị Bà La Môn tên là Akkosa Bharadvaja đã nghe người ta đồn đãi như sau:
(View: 17565)
Tôi nghe như vầy. Có lần Đức Phật, trong khi đi hoằng pháp ở nước Kosala nơi có một cộng đồng rất đông Tỳ Kheo, ngài đi vào một tỉnh nhỏ nơi cư trú của người Kalama
(View: 39996)
Quy Sơn Cảnh Sách Học Giải - Tác Giả: Thiền Sư Quy Sơn Linh Hựu; Thích Thiện Trí (Thánh Tri) Phỏng Việt Dịch và Viết Bài Học Giải
(View: 12320)
Kinh này khởi đầu bằng lời người Bà La Môn hỏi rằng làm thế nào người ta có thể tự thanh tịnh hóa khi nhìn thấy một vị Thượng nhân đã Thanh tịnh,
(View: 55169)
Nguyên xưa ngài Quán Nguyệt Pháp sư đem hai thời kinh khóa tụng: Mai đóng chung và chiều nhập chung lại làm một đại thể làm một tập lớn. - Chú giải: Ngài Quán Nguyệt; Dịch giả: HT Thích Khánh Anh
(View: 13223)
Tôi nghe như vậy: Một thời, đức Thế Tôn trú tại thành phố Śrāvastī (Xá-vệ), nơi rừng cây Jeta (Kì-đà), vườn của Ông Anāthapiṇḍada (Cấp-cô-độc),
(View: 12815)
Bài kinh này trong đoạn cuối (bài kệ 787), câu “không nắm giữ gì, cũng không bác bỏ gì” được Thanissaro Bhikkhu ghi chú rằng ...
(View: 13356)
Lúc bấy giờ, Bồ tát Đại sĩ Akṣayamatir[1] từ chỗ ngồ đứng dậy, vắt thượng y[2] qua một bên vai, chắp hai tay[3] hướng về đức Thế Tôn và thưa rằng:
(View: 13276)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào?
(View: 15317)
Đại ý bài kinh này Đức Phật dạy chúng đệ tử không nên truy tìm quá khứ, không nên ước vọng tương lai vì quá khứ đã đoạn tận.
(View: 19212)
Evaṃ me sutaṃ, “như vầy tôi nghe”, là lời Ngài Ananda bắt đầu mỗi bài kinh mà có lẽ không Phật tử nào là không biết.
(View: 25588)
Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538), thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm.
(View: 11110)
Phật dạy giới này áp dụng chung cho tất cả các Phật tử tại gia, không phân biệt Phật tử này thuộc thành phần hay đẳng cấp xã hội nào.
(View: 8754)
Sa-môn Thích Đàm Cảnh dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, vào thời Tiêu-Tề (479-502). Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn, tại Canada, năm 2018.
(View: 12576)
Đức Phật A Di Đà tự thân có ánh sáng vô lượng, chiếu khắp cả mười phương mà không có vật gì có thể ngăn che. Vì vậy nên Phật A Di Đà có nghĩa là Vô Lượng Quang Phật.
(View: 15312)
Nguyên tác Hán văn: Tì-kheo Linh Diệu, tông Thiên Thai soạn - Dịch sang tiếng Việt: Thích Thọ Phước
(View: 14952)
Ngài Buddhaghosa sanh ra và lớn lên nước Magadha, thuộc Trung Ấn Độ, vào thế kỷ thứ V trong ngôi làng Ghosa, gần địa danh nơi đức Phật thành đạo Bodhigaya
(View: 18629)
Nghiên Cứu Về Kinh A Hàm (Ãgama, Sanscrist)
(View: 18473)
Ai nói như sau, này các Tỷ-kheo: "Người này làm nghiệp như thế nào, như thế nào, người ấy cảm thọ như vậy, như vậy".
(View: 15778)
Đây là những điều tôi nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Cấp Cô Độc trong vườn cây Kỳ Đà ở thành Vương Xá.
(View: 20248)
Vào thời Đức Thích-ca-mâu-ni, không có hệ thống chữ viết được phổ biếnẤn Độ. Do đó, những thuyết giảng của Ngài được ghi nhớ và ...
(View: 14369)
"Lại nữa, lúc bấy giờ Mahāmati thưa rằng: “Bạch Thế Tôn, ngài đã từng dạy rằng: từ lúc Như Lai chứng nghiệm giác ngộ cho đến...
(View: 15963)
Kinh Địa Tạng là một trong các kinh Đại thừa được phổ biến rộng rãi trong quần chúng Việt Nam từ hơn nửa thế kỷ nay song song với các kinh Kim Cương, Di Đà, Phổ Môn...
(View: 16072)
Nguyên tác: Tôn giả Thế Thân (Acarya Vasubandhu) - Hán dịch: Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng; Việt dịch: Tỳ khưu Tâm Hạnh
(View: 10702)
No. 1613 - Nguyên tác: Tôn giả An Huệ; Dịch Hán: Tam Tạng Pháp sư Địa-bà-ha-la; Dịch Việt: Tâm Hạnh
(View: 13385)
Duy thức nhị thập luận, do bồ tát Thế Thân soạn, ngài Huyền trang dịch vào đời Đường... được thu vào Đại chính tạng, tập 31, No.1590.
(View: 13152)
Bồ-tát Trần Na tạo luận. Tam tạng Pháp sư Huyền Trang phụng chiếu dịch. Việt dịch: Quảng Minh
(View: 19167)
Nghe như vầy, một thời Đức Phật ở nước Xá Vệ ở vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc cùng chúng đại Tỳ Kheo năm trăm vị. Bấy giờ các thầy Tỳ Kheo...
(View: 16682)
No. 699; Hán dịch: Đời Đại Đường, Trung Thiên Trúc, Tam tạng Pháp sư Địa bà ha la, Đường dịch là Nhật Chiếu
(View: 18120)
Đức Phật Thích-Ca Mưu-Ni, bắt đầu chuyển pháp-luân, độ cho năm vị Tỳ-Khưu là Tôn-giả Kiều-Trần-Như v.v... Sau cùng, Ngài thuyết pháp độ cho ông Tu-bạt-đà-la.
(View: 14793)
Kinh Phạm Võng nằm trong Đại Chánh Tạng, tập 24, ký hiệu 1484, gọi đủ là Phạm võng kinh Lô xá na Phật thuyết bồ tát tâm địa giới phẩm đệ thập
(View: 13944)
Phật thuyết-giảng Kinh Phạm-Võng để dạy về giới-luật, và các pháp cao-siêu vượt thoát được sáu mươi hai kiến-chấp vốn là các tà-kiến đã...
(View: 13494)
Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi, tại Jetavana, vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Độc). Ở đây,,,
(View: 18302)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434; Dịch Phạn - Hán: Tam Tạng Cát-ca-dạ, Dịch Hán - Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ; Hiệu đính: HT Thích Như Điển
(View: 13326)
Đời Đường, Thận Thủy Sa Môn Huyền Giác Soạn; Thánh Tri dịch nghĩa Việt và viết bài học giải...
(View: 16627)
Phật giáo được khai sáng ở Ấn-độ vào năm 589 trước kỉ nguyên tây lịch (năm đức Thích Ca Mâu Ni thành đạo), và đã tồn tại liên tục, phát triển không ngừng trên ...
(View: 14405)
Trong truyền thống Phật giáo Bắc truyền, Dược Sư là một bản kinh thường được trì tụng nhằm mục đích giải trừ tật bệnh, cầu nguyện bình an...
(View: 15066)
Thích-ca là phiên âm của tiếng Phạn. Phiên âm Hán Việt là Năng Nhân. Tức là họ của đấng hóa Phật ở cõi Ta-bà...
(View: 17343)
Kinh chuyển Pháp luân là bài thuyết Pháp đầu tiên của Đức Phật Thích-ca sau khi Ngài đã đắc đạo.
(View: 13702)
Ba Ngàn Oai Nghi Của Vị Đại Tỳ Kheo - Được xếp vào tập T24 - Kinh số 1470 - Tổng cộng kinh này có 2 quyển
(View: 15091)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(View: 17052)
Satipatthana Sutta là một bản kinh quan trọng làm nền tảng cho một phép thiền định chủ yếu trong Phật giáo là Vipassana...
(View: 24078)
Kinh Tứ Thập Nhị Chương là một bài Kinh được truyền bá khá rộng rải ở các Tồng Lâm Tự Viện của Trung QuốcViệt Nam từ xưa đến nay.
(View: 14877)
Bản dịch này được trích ra từ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh Vol. 48, No. 2010. Bởi vì lời dạy của Tổ Tăng Xán quá sâu sắc, súc tích, và bao hàm trong 584 chữ Hán,
(View: 13008)
Dịch từ Phạn sang Tạng: Kluḥi dbaṅ-po, Lhaḥi zla-ba; Dịch Tạng sang Việt: Phước Nguyên
(View: 23021)
Trí Phật là trí Kim – cang, Thân Phật là thân Kim – Sắc, cõi Phật là cõi Hoàng – kim, lời Phật tất nhiên là lời vàng.
(View: 16452)
Bấy giờ Hòa Thượng Vakkali nhìn thấy Đức Phật đang đi đến từ xa, và ông đã cố gắng ngồi dậy.
(View: 23810)
Xin dâng hết lên Tam Bảo chứng minh và xin Quý Ngài cũng như Quý Vị tùy nghi xử dụng in ấn tiếp tục hay trì tụng cũng như cho dịch ra những ngôn ngữ khác...
(View: 20561)
Niệm Phật Tâm Muội do HT Hư Vân soạn, Sa môn Hiển Chơn dịch; Tọa Thiền Dụng Tâm Ký do Viên Minh Quốc Sư soạn, HT Thích Thanh Từ dịch
(View: 16710)
Khi Bồ-tát Quán Tự Tại hành sâu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, ngài soi thấy năm uẩn đều KHÔNG, liền qua hết thảy khổ ách.
(View: 33686)
Viết ra các bài Phật học thường thức này, chúng tôi không có tham vọng giới thiệu toàn bộ Phật pháp và chỉ cốt giúp cho các bạn sơ cơ hiểu được một cách đúng đắn, đạo lý năm thừa trong Phật giáo mà thôi.
(View: 13662)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, Kinh văn số 1675. Tác giả: Long Thọ Bồ Tát; Sa Môn Sắc Tử dịch Phạn sang Hán; HT Thích Như Điển dịch Việt
Quảng Cáo Bảo Trợ
free website cloud based tv menu online azimenu
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant