Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

48. Pháp tu Tịnh độ

Wednesday, February 23, 201100:00(View: 9613)
48. Pháp tu Tịnh độ

PHÁ MÊ KHAI NGỘ
 Lê Sỹ Minh Tùng

48. Pháp tu Tịnh độ 
(Pure Land) 

Đức Phật đã chế ra 84,000 pháp môn để giúp chúng sinh tùy theo căn cơ của họ mà tu luyện. Căn cơ của mỗi người cao thấp khác nhau thì khả năng thu nhập của họ cũng không giống nhau được. Pháp môn Tịnh độ đã được chính Đức Phật chế ra để giúp đại đa số chúng sinh có thể vãng sinhphương pháp tu hành thì tương đối dễ dàng nhất so với các pháp môn khác. Dựa theo pháp môn nầy thì người tu chỉ cần chú tâm niệm Phật A Di Đà thì có thể vãng sanh về Tây phương Cực lạc được.

tính chất hữu hiệu của nó nên pháp môn Tịnh độcứu cánh cho tất cả mọi người nếu muốn thoát khỏi sinh tử luân hồi. Chính ngài Diên Thọ, tổ thứ sáu của Tịnh độ tông khuyên chúng ta như sau:

”Có thiền, mà có tịnh thì như cọp mạnh thêm sừng”.

 Ngài còn thiết tha khuyên:

Có thiền mà không có tịnh,

Mười người tu thì lạc đến chín.

Ấm cảnh nếu đã hiện tiền,

Liền theo đó mà đi lẹ.

Thật vậy, chính ngài Văn Thù Bồ-tát trong kinh Quán Tam Muội cũng xác định là:

”Trong các pháp môn tu, không có pháp môn nào qua môn niệm Phật. Niệm Phật là vua của các pháp môn”.

Ngoài ra, những Bồ-tát như Quán Thế Âm, Thế Chí, Di Lặc, Mả Minh, Long thọ… đều cầu sanh Cực lạc cả. Trong lịch sử Phật giáo có rất nhiều bậc chánh truyền Thiền tông nhưng vì muốn chắc chắn để được vãng sanh, cuối cùng cũng đổi sang môn Tịnh độ. Những vị đó là Thiền sư Thừa Viển, Vĩnh Minh, Phát Huệ, Thức Hiển, Triệt Ngộ, Liên Trì…

 Điển hình là trường hợp của Thiền sư Triệt Ngộ. Chính ngài đã biết trước ngày giờ ngài sẽ vãng sanh nên sai đệ tử lập đàng trai và nói với họ rằng:

”Hôm qua ta thấy ba vị đại sĩVăn Thù, Thế ChíQuán Âm. Hôm nay lại được chính Phật đến tiếp dẫn”. 

Sau đó ngài bèn kết ấn Di Đà rồi an tườngviên tịch. Tất cả đại chúng còn nghe mùi hương lạ phảng phất khắp hư không. Như thế thì vãng sanh là Phật đến tiếp dẫn khi còn sống chớ đâu phải chờ cho đến lúc chết. Nói một cách khác là sống mà được tiếp dẫn thì gọi là được vãng sanh.

 Vậy Tịnh độ tông có những kinh sách gì?

 1) Kinh Vô lượng thọ: Kinh nầy chép lại 48 lời thề nguyện của Pháp tạng Tỳ kheo với Đức Phật Thế Tự Tại Vương Như Lai trước khi Ngài thành Phật A Di Đà. Ngài phát nguyện là sau khi thành Phật thì Ngài sẽ lập ra một cõi thật trang nghiêm thanh tịnh để tiếp dẫn chúng sanh trong mười phương thế giới. Nếu chúng sanh ấy thường niệm đến danh hiệu Ngài và thường cầu được vãng sanh cõi Tịnh độ của Ngài.

 2) Kinh Quán Vô lượng thọ: Kinh nầy ghi rõ 16 pháp quan và 9 phẩm để dạy chúng sinh được vãng sanh về Tây phương Cực lạc.

 3) Kinh Tiểu Bổn A Di Đà: Đây là kinh nói về cõi Cực lạc trang nghiêm khiến chúng ta sanh lòng ham mộ mà phát nguyện tu theo pháp môn “Trì danh niệm Phật cho đến khi Nhất tâm bất loạn” để được vãng sanh về cõi nầy.

 4) Kinh Bửu Tích: Diễn tả việc Đức Phật Thích Ca thuyết pháp môn “Trì danh niệm Phật” cho vua cha Tịnh Phạn để ngài an tâmvãng sanh.

 7) Kinh Đại Bổn A Di Đà: Bao gồm kinh Thập lục quan, kinh Ban Châu niệm Phật, kinh Bi Hoa, kinh Phương Đẳng, kinh Hoa Nghiêm…

Vậy có bao nhiêu cách niệm Phật?

 1) Trì Danh Niệm Phật: Mỗi ngày từ lúc mới thức dậy cho đến khi đi ngủ thì chúng ta phải chuyên tâm trì niệm danh hiệu của Phật A Di Đà. Khi đi, khi đứng, khi nằm, khi ngồi, khi ăn và trước khi đi ngủ thì chúng ta đừng bao giờ quên niệm Phật. Ngoài ra, chúng ta có thể theo phương pháp kinh hành niệm Phật, hoặc tọa thiền niệm Phật thì kết quả có thể khả quan hơn. Mỗi khi niệm Phật xong thì chúng ta phải hồi hướng cầu sanh về Tịnh độ.

 2) Quán Tượng Niệm Phật: Chúng ta phải chú tâm chiêm ngưỡngquan sát các tướng tốt mà liên tưởng đến các đức tánh của Phật. Chẳng hạn như chiêm ngưỡng đôi mắt của Phật thì liên tưởng đến trí tuệ của Phật. Khi chiêm ngưỡng nụ cười hiền hòa của Phật thì chúng ta liên tưởng đến tánh từ bi hỷ xả của Phật. Nhờ sự liên tưởng nầy mà các đức tính tốt của Phật như từ bi hỷ xã, bình đẳng, lợi tha được thấm nhuần vào tâm của chúng ta. Nếu làm được như vậy thì càng ngày tâm của chúng ta sẽ được thanh tịnh. Chúng ta có thể lọc sạch những niệm ác và sẽ giống tâm Phật, dĩ nhiên sau đó chúng ta sẽ được vãng sanh về cõi Phật

 3) Quán Tưởng Niệm Phật: Mặc dầu trước mắt không có tượng hay ảnh của Phật nhưng chúng ta liên tưởng như có Đức Phật A Di Đà cao lớn đứng trên tòa sen và phóng tỏa hào quang như tấm lụa vàng bao phủ cả thân hình. Chúng ta ngồi ngay thẳng và hay tay chắp lại để tưởng mình đang ngồi trên đài sen và đang được Đức Phật tiếp dẫn. Chúng ta chăm chú mãi mãi như thế như khi đi, đứng, nằm, ngồi cũng không dừng nghĩ cho đến khi nào mở mắt hay nhắm mắt cũng đều thấy Phật. Lúc đó thì chúng ta đã thuần thục và khi lâm chung chắc chắn sẽ được vãng sanh về Tịnh độ.

 4) Thật Tướng Niệm Phật: Khi mà niệm Phật đã đến bản thể chơn tâm. Chơn tâm không sanh diệt, không khứ lai, không hư và không giả.

 5) Tham Cứu Niệm Phật: Chúng ta phải tham khảo, cứu xét, suy niệm câu niệm Phật. Chẳng hạn như khi niệm:” Nam mô A Di Đà Phật” thì chúng ta phải quan sát câu niệm nầy từ đâu mà đến và sau đó sẽ đi về đâu? Niệm đây là ai niệm? Nhờ vào sự chuyên tâm chú ý tham khảo cầu niệm Phật như thế cho nên vọng tưởng dần dần chìm lặng và cưối cùng chúng tathể đạt được “Nhất tâm bất loạn”. Dĩ nhiên, đến khi lâm chung, chúng ta sẽ được vãng sanh về cảnh giới Cực lạc.

Tóm lại: “Người niệm Phật đến khi hết vọng tưởngngộ nhập được chơn tâm rồi thì Phật A Di Đà hay cảnh Tịnh độ cũng chỉ ở nội tâm mình hiện ra chứ không phải đâu xa”. Bởi vậy, kinh Phật mới nói rằng: ”Tự tánh Di Đà, duy tâm Tịnh độ” là vậy.

Trong môn Tịnh độ nầy thì lấy tâm tín nguyện mà chuyên trì danh hiệu Phật. Trì cho đến lúc nhất tâm bất loạn thì sự nghiệp tu Tịnh độ đã đến chổ thành tựu và sẽ được vãng sanh.

Muốn tu theo những pháp môn khác thì chúng ta phải sám hối hết tất cả những tội nghiệp hiện tại cũng như trong quá khứ bằng không thì sự tu đạo sẽ gặp nhiều chướng ngại. Còn người tu tịnh độ thì được mang cả nghiệp mà vãng sanh. Và đây được gọi là đối nghiệp vãng sanh. Thêm nữa, chí tâm mà niệm một tiếng Phật thì có thể diệt được tội nặng sanh tử trong mười kiếp vậy.

Còn một điều quan trọng khác là một khi tu những pháp môn khác thì chúng ta phải đoạn trừ mọi phiền não. Còn theo Tịnh độ tông thì chúng ta chỉ cần tu tịnh nghiệp là được ra khỏi tam giới mà không cần phải đoạn sạch phiền não. Khi đã được vãng sanhchấm dứt sanh tử và một khi đã vào cõi Thánh rồi thì việc tu đạo lại càng dễ dàng hơn. Lúc đó chúng ta sẽ dễ dàng tăng quả vị một khi đã có cơ hội gần gủi với chư Phật. 

Lúc sắp lâm chung chúng ta phải làm gì?

Cổ nhân có nói: ”Ta thấy người khác chết, trong lòng cảm thấy xót xa. Chẳng phải thương cho kẻ chết mà xót xa cho chính thân ta”.

Chúng ta đã biết đời là vô thường. Của cải, tiền bạc, thân bằng, quyến thuộc cũng đều là duyên giả tạm. Sống tùy giả cảnh thì khi chết rũ sạch không? Có biết bao người vì luyến tiếc tiền của hoặc thân thuộc, đến khi sắp chết phải gặp bao khó khăn, không yên tâm nhắm mắt cho được. Do vậy, con người trước khi lâm chung thì thường có những mối nghi ngờ và chính nó sẽ là 

 những căn nguyên làm cản trở cho việc vãng sanh của họ. Có ba mối nghi ngờchúng ta cần biết đến:

 1) Nghi ngờ mình mang nhiều nghiệp nặngthời gian tu hành ít nên lo sợ không được vãng sanh: Họ quên rằng Đức Phật A Di Đà từng có lời thệ nguyện: ”Chúng sanh nào chí tâm muốn về miền Cực lạc thì niệm danh hiệu Ngài đến mười niệm. Nếu không được vãng sanh, Ngài thề không thành Phật”. Phật không bao giờ nói dối. Mười niệm là thời gian tu hành rất ngắn mà còn được vãng sanh huống chi chúng ta niệm còn hơn số đó. Hơn nữa, dầu kẻ nghiệp nặng đến đâu mà nếu chí tâm sám hối nương về Phật A Di Đà thì Ngài sẽ tiếp dẫn.

 2) Nghi ngờ mình bản nguyện chưa trả xong, tham, sân, si chưa dứt thì lo sợ không được vãng sanh: Nói về đạo thì có người nguyện cất chùa, hay nguyện tụng kinh bao nhiêu số nhưng chưa đạt được thì sắp lâm chung. Phật dạy: “Chỉ tín tâm niệm Phật khi được vãng sanh sẽ làm vô lượng vô biên công đức. Còn bản nguyện chỉ là việc nhỏ, làm xong hay chưa xong không mấy quan hệ và chẳng có hại chi cả”. Bây giờ nói về đời: Có người lo cho cha già mẹ yếu suy tàn không có người chăm sóc. Lo cho vợ dại con thơ thiếu chỗ nương tựa hoặc có kẻ thiếu nợ chưa kịp trả. Tâm nguyện của họ chưa vẹn nên lòng chưa yên. Phật lại dạy rằng:” Lúc ta sắp chết, dù có lo hay không, cũng chẳng làm gì được. Chi bằng chuyên tâm niệm Phật thì khi được vãng sanh về Tây phương thì tất cả mọi bản nguyện trái duyên đều có thể trả xong. Tất cả kẻ oán người thân đều có thể được cứu độ”.

 3) Nghi ngờ mình niệm Phật mà Phật không đến rước thì không được vãng sanh: Người niệm Phật tùy theo công đức của mình nên khi lâm chung thì thấy Phật, Bồ-tát, hay Thánh đến rước. Có khi không thấy chi nhưng nhờ sức nguyện tinh tấn của mình và Phật lực thầm giúp đở cho nên thần thức tự bay về Tây phương Cực lạc. Chỉ cần lúc ấy họ phải chí tâm niệm Phật chớ đừng nghĩ ngợi chi khác. Nếu nghi ngờ sẽ tự sanh ra chướng ngại.

Còn một điều nữa là trong gia đình từ cha mẹ, anh em, vợ chồng, con cái đều là do đời trước có nợ nần, ân oán nên kiếp nầy mới tạm hội ngộ nhau mà thôi. Khi nhân duyên đã hết thì mỗi người đi mỗi ngã. Nếu có lòng thương là tốt hơn chúng ta nên gác bỏ tình cảm trần gian để cầu sanh về Tây phương cực lạc. Khi cái chết sắp đến, dù có quyến luyến cũng không thể đem theo, không làm chi được. Bởi vì chính xác thân của chúng ta cũng phải tan về cát bụi. Nếu luyến ái thì khó mà được vãng sanh lại bị khổ luân hồi vô cùng vô tận.

Có nên khóc lóc cho người thân khi họ sắp chết không?

Theo Phật giáo, khi có người sắp chết thì thân bằng quyến thuộc không nên khóc lóc và cũng đừng lộ nét bi thương. Bởi vì lúc bấy giờ người sắp chết đã đi đến ngã rẽ phân chia giữa quỉ, người và Thánh. Đây là giây phút quan trọng nhất trong cuộc đời của họ chẳng khác nào ngàn cân treo dưới sợi tóc. Chúng ta chỉ chí tâm trợ niệm Phật A Di Đà là tốt nhứt. Dẫu người có chí nguyện vãng sanh mà bị thân quyến thương khóc làm cho khởi động niệm tình ái thì tất bị đọa luân hồi. Do đó bao nhiêu công phu tu luyện đều phí cả. Nên nhớ khi người sắp mãn phần thì họ cần sự trợ niệm của chúng ta bởi vì lúc nầy từ tinh thần đến thể chất của họ đều yếu kém mê mờ, khó mà tự chủ cho được. Chúng ta nên thỉnh tượng hay hình Đức Phật A Di Đà để trước mắt họ cho họ nhìn thấy. Sau đó cắm một bình hoa tươi và đốt vài nén nhang. Bởi vì khói thơm vừa thoáng để tiến đến chánh niệm cho họ. Chúng ta vẫn tiếp tục thay phiên nhau hay cùng nhau niệm Phật A Di Đà cho họ.

Làm gì khi họ mới tắt hơi?

Một điều thật quan trọng là khi họ mới tắt hơi thì không nên vội di động thân thể của họ cho dù có dơ dáy. Trước và sau khi chết, người thân không được khóc mà chỉ tiếp tục niệm Phật A Di Đà. Phải đợi 8 tiếng đồng hồ sau mới được đụng xác họ bởi vì trong khoảng thời gian nầy thì người chết vẫn còn cảm giác. Tuy họ đã chết, nhưng A-Lại-Da thức còn chưa ra khỏi xác thân họ. A-Lại-Da thứcthần thức đã giữ gìn tất cả những nghiệp thức của họ đã tao ra khi còn sống trong kiếp nầy và của kiếp trước dựa theo nghiệp lực để dẫn họ đi đầu thai khi có đủ nhân duyên

Việc gì sẽ xảy ra cho họ khi mà họ mới lâm chung?

Có ba trường hợp xảy ra cho người vừa mới lâm chung:

1) Những người khi còn sống tạo ra rất nhiều thiện nghiệp, làm lành tránh dữ thì sẽ sinh lên cõi trời tức thì sau khi chết. Nhưng nên nhớ cõi trời ở đây vẫn nằm trong lục đạo, có nghĩa là chúng ta chưa thoát ra khỏi vòng sanh tử.

2) Những người lúc sinh thời tạo quá nhiều ác nghiệp thành thử nghiệp quả của họ quá nặng do đó khi chết họ sẽ bị đọa tức thì vào đường súc sanh, ngả quỷ hay địa ngục.

3) Những người tu tịnh nghiệp sẽ được vãng sanh về Tây phương Cực lạc.

Ngoài ba trường hợp trên thì người chết phải đợi trong vòng 49 ngày để thần thức hội đủ tất cả các nhân duyên rồi mới được chuyển sinh tùy theo nghiệp thức của họ.

Vì thế từ lúc mới chết cho đến khi đi đầu thai là khoảng 49 ngày thành thử cách tốt nhất là trong khoảng thời gian nầy chúng ta liên tiếp tụng, niệm Phật để trợ lực thêm cho họ. Nếu ho sinh vào cõi trời , nhờ sự trợ lục nầy họ có thể tăng thêm phước lạc. Nếu họ bị đọa vảo ba đường dữ, nhờ sự trợ lực nầy, họ cũng giảm đi nỗi khổ đau và cải thiện sự đầu thai của họ. Còn như họ đã sinh về cõi Phật thì phẩm sen cũng được nâng cao

Còn việc cúng tế thì sao?

Chúng ta là người Phật tử thì chỉ nên cúng kiến những món chay mà thôi. Khi phải sát sinh để cúng cho họ thì chẳng những chúng ta tự mình tạo ra ác nghiệp mà còn gieo nghiệp ác cho người quá vãng nữa. Như vậy có thể cản trở cho việc vãng sanh của họ.

Chúng ta phần lớn hấp thụ giáo lý Khổng Mạnh nên thường tổ chức cúng giỗ cho rình rang. Bởi vì Đức Khổng Tử nói rằng: “Thờ cha kính mẹ lúc còn sống cũng như khi chết”. Nhưng khi hỏi thì con người sẽ đi về đâu sau khi chết thì Ngài trả lời:”Việc sống còn không biết hết, thì việc chết miễn bàn”. Thật vậy, Đạo Khổng chỉ dạy con người một đời mà thôi có nghĩa là từ lúc sinh ra đến lúc chết. Nếu cho rằng cúng tế thật rình rang để tỏ lòng hiếu để đối với người chết thì thật là bất hiếu. Tại sao vậy? Bởi vì nếu lúc cha mẹ còn sinh tiền không giúp họ tu nhân tích đức, tu đạo để được vãng sanh thì là con bất hiếu rồi. Đến khi họ chết thì lo cúng giỗ cho lớn nhưng nếu họ chứng được thì là nguy to. Tại sao? Bởi vì sau bao năm mà họ không đầu thai được chỗ nào tức là không được siêu thoát thì họ đã thành ma đói rồi. Thật là một điều thê thảm. Còn nếu họ không chứng thì mình cúng lớn là để mình ăn cho sướng mà thôi. 

Mỗi năm nhân mùa Vu lan báo hiếu thì thường thường chúng ta về chùa để cầu nguyện cho ông bà quá vãng. Đây là dựa theo chuyện của ngài Mục kiền Liên ngày nọ để cứu mẹ là bà Thanh Đề ở dưới địa ngục. Nếu chúng ta đã học qua Phật pháp thì người con có hiếu là không phải đợi đến rằm tháng bảy mới lo cho cha mẹ. Lo như vậy là đã quá trễ rồi. Đó là con bất hiếu chứ đâu phải là hiếu tử. Nếu muốn báo hiếu cho cha mẹ thì từ đây phải khuyến khích họ cùng chúng ta để lo tu học, niệm Phật, tạo nhiều công đứcphước đức. Nên làm lành tránh dữ thì dù chúng ta không đến chùa vào lễ Vu lan nhưng chắc chắn tương lai của họ cũng như của mình sẽ vô cùng sáng sủa. Đây là cách báo hiếu chân thật.

Niệm Phật tam muội.

 Người niệm Phật khi đạt đến chỗ tuyệt đỉnh tận cùng thì sẽ thấy cảnh hư linh sáng lạng và vọng giác tiêu tan. Lúc đó họ sẽ quên hết thân tâm ngoại cảnh, không còn ảnh hưởng thời gian không gian và tâm thể bừng sáng để chứng vào cảnh giới “vô niệm vô bất niệm”. Không niệm mà niệm, không thấy biết mới là sự thấy biết chân thật bởi vì có thấy biết tức là lạc theo trần giới. Đến đây thì nước bạc non xanh, suối reo chim hót và tâm quang sáng chói.

 Có bốn môn niệm Phật tam muội là:

I. Bát chu tam muội: Bát chu có nghĩa là Phật lập. Khi thực hành môn nầy thì chúng ta phải lấy 90 ngày làm một định kỳ. Trong thời gian ấy, ngày đêm chúng ta chỉ đứng hoặc đi, lúc nào cũng tưởng Đức Phật A Di Đà hiện thân với 32 tướng tốt và 80 vẻ đẹp. Khi công thành thì chúng ta sẽ thấy Đức Phật A Di Đàchư Phật mười phương hiện ra đứng trước mặt chúng ta để khen ngợi. Người tu môn nầy thì khi đi, mỗi bước đều không rời danh hiệu Phật. Pháp môn nầy công đức rất cao nhưng chỉ dành cho những bậc thượng căn mà thôi.

II. Nhất hạnh tam muội: Nhất hạnh có nghĩa là chuyên nhất về một môn mà thôi. Khi tu theo môn nầy thì chúng ta thường ngồi và chỉ chuyên nhất quán tưởng hoặc niệm danh hiệu Đức A Di Đà. Mặc dầu tu một môn nhưng công phu thật viên hạnh. Môn nầy thì dành cho mọi người.

III. Pháp hoa tam muội: Đây là một trong 16 tam muội như kinh Pháp Hoa Diệu Âm Bồ-tát đã nói. Khi tu theo môn nầy thì chúng ta có thể thay đổi giữa ngồi và đi để quán Phật hoặc niệm Phật cho đến khi nào chứng nhập vào Chánh định. Phép tu nầy thì có phần dễ hơn Nhất hạnh tam muội ở trên.

IV. Tùy tự ý tam muội: tu theo pháp môn nầy thì tùy tâm mà đi đứng, nằm ngồi để niệm danh hiệu Phật A Di Đà cho đến khi vào tam muội. Lối tu nầy con được gọi là: ”Lưu thủy niệm Phật”. Cũng như ngọn nước của dòng sông cứ kiên tục chảy mãi, dầu gặp cây đá ngăn cản thì nó chỉ dội lại rồi cũng tìm lối chảy đi. Người tu theo lối nầy thì cứ mỗi buổi trưa lễ Phật A Di Đà bốn mươi tám lạy. Còn Quán Thế Âm, Thế ChíHải Chúng mỗi danh hiệu bảy lạy. Sau đó quỳ xuống để sám hối. Rồi từ đó cho đến tối, lúc đi đứng nằm ngồi đều niệm Phật. Họ có thể lần chuỗi ghi số, hoặc niệm suông, cho đến khi đi ngủ. Trước khi đi ngũ thì lễ Phật một lần nữa và đem công đức tu trong ngày mà phát nguyện hồi hướng vãng sanh. Pháp tu nầy tuy tùy tiện dễ dàng nhưng phải tránh bớt duyên và cố tâm bền bỉ mới mong thành tựu.

 Vội vội vàng vàng khổ nhọc cầu

 Mưa mưa nắng nắng trải xuân thu

 Hôm hôm sớm sớm lo sinh kế

 Lãng lãng quên quên thấy bạc đầu

 Thị thị phi phi không kết liểu

 Phiền phiền não não những bi ưu

 Rành rành rõ rõ một đường đạo

 Vạn vạn ngàn ngàn chẳng chịu tu.

Cho nên chúng ta phải tu, phải lo niệm Phật:

“Nắm lấy chuổi tràng trần niệm dứt

Nghiễm nhiên thành Phật đã lâu rồi”
 
 

Phần Tóm Lược

 Ngày nay rất nhiều người tu Tịnh độ, lễ bài rất chuyên cần mà vẫn không đạt kết quả bao nhiêu? Họ đi chùa lễ Phật, tham dự nhiều Phật thất năm nầy qua năm khác mà chứng nào vẫn tật nấy… Tại sao?

 Đối với Tịnh độ thì người tu phải nắm vững những nguyên tắc căn bản rất quan trọng là chí tâm chí thành mà thường được gọi là Tín, Hạnh, Nguyện thay vì thực hành như một thói quen máy móc nên không có kết quả bao nhiêu.

 Nên nhớ Tịnh độ không những chú trọng đến tha lực (Phật lực A Di Đà) mà còn đòi hỏi cả công phu về tự lực nữa. Quy tắc căn bản về pháp môn niệm Phật là phải biết nghiêm trì sáu căn: Mắt, Tai, Lưỡi, Mũi, Thân, Ý và ba nghiệp: Thân, Khẩu, Ý cho thật thanh tịnh để lúc niệm Phật được nhất tâm. Đây chính là phần tự lựccon người phần lớn bỏ quên đi không chú ý đến. Khi niệm Phật, hành lễ mà thấy tự tâm tha thiết mạnh mẽ, không hề có vọng tưởng thì có thể cảm thông được với chân tâm của chư Phật trong Pháp giới. Thật ra tâm Phật và tâm của chúng sinh không hề khác nhau, đều cùng một Bản Thể, nhưng vì chúng sinh chưa ý thức được điều nầy vì còn bị vô minh che phủ nên mới có sự phân biệt, xa cách. Thêm nữa, chúng sinh từ vô thỉ đến nay đã gây ra biết bao tội ác cho nên dù công phu tu tập đến đâu cũng khó mà giải trừ hết nghiệp chướng trong một đời nên phải nhờ oai lực của câu niệm Phật để tiêu trừ bớt nghiệp giúp cho tín căn, tín lực gia tăng mà được vãng sinh. Đó là phần tha lực.

 Còn về phần tự lực thì khi người niệm Phật thì họ biết giữ sao cho mắt đừng bị chi phối bởi ngoại cảnh, đừng nhìn ngang nhìn dọc làm cho tâm sinh loạn tưởng. Muốn tâm được thanh tịnh thì phải biết làm chủ sáu căn của mình. Khi niệm Phật thì mắt chỉ chăm chú nhìn lên tượng Phật hoặc giữ hình ảnh của Phật A Di Đà trong tâm mà thôi. Mắt không nên nhìn chung quanh rồi tâm sinh vọng động để rồi suy nghĩ, lo lắng đủ điều thì làm sao có thể đạt được trạng thái nhất tâm bất loạn được. Niệm tới đâu phải biết tới đó, niệm một câu biết một câu, niệm mười câu biết mười câu chớ không lầm lẫn hoặc lầm lạc

 Khi niệm Phật đừng để cho tai nghe những tiếng động khác chung quanh mà làm cho tâm ý khởi vọng động. Các căn còn lại như mũi, lưỡi, thân, ý cũng phải kiểm soát như thế thì vọng động không xen vào trong tâm thức của người niệm Phật. Khi tất cả sáu căn được thu nhiếp và được đặt dưới sự kiểm soát của tâm để không còn vọng động, không còn loạn tưởng thì đạt được Nhất Tâm Bất Loạn. Nếu nghĩ lại đây là Chánh Niệm của người tu Tịnh độ và đây cũng chính là Chánh Niệm của người tu thiền. Phương tiện tuy có khác nhưng mục đích nào có khác gì đâu. 

 Trong ba nghiệp thì Ý Nghiệp là mạnh nhất. Ý là nhân mà thân khẩu là quả của nó. Vì thế đối với người tu Tịnh độ thì ít ai có thể kiểm soát được nên người niệm Phật phải trông vào tha lực của chư Phật hộ trì cho. Nếu người niệm Phật chí tâm chí thành niệm danh hiệu Phật A Di Đà thì tâm vọng tưởng, tâm điên đảo, tâm nghĩ ngợi lung tung sẽ từ từ tan biến và được thay bằng bản tâm thanh tịnh. Oai lực của sáu chữ hồng danh rất lớn, bất khả tư nghì cho nên nếu người niệm Phật nhất tâm trì tụng thì có thể khắc phục được Ý Nghiệp của mình. Khi ba nghiệp Thân-Khẩu-Ý được thanh tịnh, sáu căn không còn dính mắc thì trí tuệ sáng suốtchắc chắn sẽ được vãng sanh về cõi Tây phương Cực Lạc

 Tóm lại pháp môn Tịnh độ bao gồm cả tự lực lẫn tha lực, tuy giản dị nhưng công năng vô cùng huyền diệu. Muốn tu theo pháp môn nầy mà không nắm vững quy tắc căn bản là nghiêm trì sáu căn và ba nghiệp thì cho dù họ có đọc tụng thiên kinh vạn quyển, niệm muôn trùng biến thì cũng chẳng có lợi ích bao nhiêu. Rất nhiều người cho rằng tu Tịnh độ chỉ trông nhờ vào tha lực tiếp dẫn của Phật A Di Đà mà thôi thì cũng là một thiếu sót. Bởi vì thiếu tự lực thì không thể được nhất tâm. Mà không nhất tâm thì làm sao thông cảm được với chân tâm của chư Phật. Thêm nữa, một số người niệm Phật để cầu phước hay để xin xỏ việc nầy việc nọ thì cũng là đi ngược lại với đường lối của Tịnh độ bởi vì niệm Phật mà thiếu tâm thành chỉ mong cầu nầy nọ tức là tâm vẫn còn tham thì làm sao có kết quả được. Đối với người tu Tịnh độ thì họ không cần xin gì ngoài việc vãng sinh về cõi Tây phương mà thôi. 

 Vì Tịnh độ bao gồm cả tự lựctha lực nên Tịnh gồm cả Thiền và Mật. Đó là người tu phải ý thức hành vi cử chỉ của mình và vừa tha thiết niệm hồng danh Phật A Di Đà để cầu vãng sinh. Pháp môn nầy do chính Đức Phật Thích Ca nói ra và chư Phật mười phương đều tán thán. Ngay cả Bồ-tát Di Lặc chỉ còn một đời nữa sẽ thành Phật mà còn ngày đêm hành lễ thì đủ biết tầm quan trọng và công năng của nó như thế nào. 

Chúng ta niệm danh hiệu Phật A Di Đà để dẹp trừ vọng tưởng chấp trước bao nhiêu đời. Vì thế một câu niệm Phật như cầm chổi quét sạch vọng tưởng. Niệm mãi không quên khiến vọng niệm tự tiêu trừ. Sáng niệm Phật, tối niệm Phật. Đi đứng nằm ngồi trong 24 tiếng niệm niệm không quên. Thầm thầm lặng lặng, công phu thuần thục chín mùi thì cảnh Tây phương Cực lạc hiện trước mắt, được lợi ích vô biên.


Send comment
Off
Telex
VNI
Your Name
Your email address
(View: 47026)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(View: 8975)
Phật Đà Thập Đại Đệ Tử Tán - Hòa thượng Tuyên Hóa giảng thuật, Nguyễn Minh Tiến Việt dịch
(View: 14296)
Các tác phẩm của Thầy phần lớn được dịch từ Hán tạng, gồm giới kinh và các nguồn văn học Phật giáo Đại thừa với tư tưởng uyên thâm về triết họctâm lý học.
(View: 32506)
Đã phát khởi chí nguyện Đại thừa, lại kiên quyết thực hiện chí nguyện ấy, đó thực sự là cung cách hùng dũng của con sư tử đang vươn mình, và do đó phải được nhìn đến bằng cung cách của con voi chúa.
(View: 32388)
Vua và phu nhân gởi thơ cho Thắng Man, đại lược ca ngợi công đức vô lượng của Như Lai, rồi sai kẻ nội thị tên Chiên Đề La đem thư đến nước A Du Xà... HT Thích Thanh Từ dịch
(View: 10111)
Tất cả các nhà đạo học và thế học muốn thành tựu kết quả tốt đẹp trong cuộc đời, thì trước hết, họ phải trải qua quá trình kham nhẫn, nỗ lực, tu, học, rèn luyện tự thân, giúp đỡ, và đem lại lợi ích cho tha nhân.
(View: 14541)
Bảy Đức Thế Tôn quá khứ từ Thế Tôn Tỳ Bà Thi, Thế Tôn Thích Ca, và chư Thế Tôn vị lai đều chứng ngộ Vô Thượng Bồ Đề từ sự chứng ngộ sự thật Duyên khởi.
(View: 13938)
Trong các bản Kinh Pháp Cú, phổ biến nhất hiện nay là Kinh Pháp Cú Nam Truyền, tức là Kinh Pháp Cú dịch theo Tạng Pali.
(View: 13578)
Có lần Đức Phật sống tại Rajagaha (Vương Xá) trong Khu Rừng Tre gần Nơi Nuôi Những Con Sóc. Lúc bấy giờ, vị Bà La Môn tên là Akkosa Bharadvaja đã nghe người ta đồn đãi như sau:
(View: 17565)
Tôi nghe như vầy. Có lần Đức Phật, trong khi đi hoằng pháp ở nước Kosala nơi có một cộng đồng rất đông Tỳ Kheo, ngài đi vào một tỉnh nhỏ nơi cư trú của người Kalama
(View: 39996)
Quy Sơn Cảnh Sách Học Giải - Tác Giả: Thiền Sư Quy Sơn Linh Hựu; Thích Thiện Trí (Thánh Tri) Phỏng Việt Dịch và Viết Bài Học Giải
(View: 12319)
Kinh này khởi đầu bằng lời người Bà La Môn hỏi rằng làm thế nào người ta có thể tự thanh tịnh hóa khi nhìn thấy một vị Thượng nhân đã Thanh tịnh,
(View: 55169)
Nguyên xưa ngài Quán Nguyệt Pháp sư đem hai thời kinh khóa tụng: Mai đóng chung và chiều nhập chung lại làm một đại thể làm một tập lớn. - Chú giải: Ngài Quán Nguyệt; Dịch giả: HT Thích Khánh Anh
(View: 13222)
Tôi nghe như vậy: Một thời, đức Thế Tôn trú tại thành phố Śrāvastī (Xá-vệ), nơi rừng cây Jeta (Kì-đà), vườn của Ông Anāthapiṇḍada (Cấp-cô-độc),
(View: 12815)
Bài kinh này trong đoạn cuối (bài kệ 787), câu “không nắm giữ gì, cũng không bác bỏ gì” được Thanissaro Bhikkhu ghi chú rằng ...
(View: 13356)
Lúc bấy giờ, Bồ tát Đại sĩ Akṣayamatir[1] từ chỗ ngồ đứng dậy, vắt thượng y[2] qua một bên vai, chắp hai tay[3] hướng về đức Thế Tôn và thưa rằng:
(View: 13276)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào?
(View: 15317)
Đại ý bài kinh này Đức Phật dạy chúng đệ tử không nên truy tìm quá khứ, không nên ước vọng tương lai vì quá khứ đã đoạn tận.
(View: 19211)
Evaṃ me sutaṃ, “như vầy tôi nghe”, là lời Ngài Ananda bắt đầu mỗi bài kinh mà có lẽ không Phật tử nào là không biết.
(View: 25588)
Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538), thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm.
(View: 11110)
Phật dạy giới này áp dụng chung cho tất cả các Phật tử tại gia, không phân biệt Phật tử này thuộc thành phần hay đẳng cấp xã hội nào.
(View: 8754)
Sa-môn Thích Đàm Cảnh dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, vào thời Tiêu-Tề (479-502). Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn, tại Canada, năm 2018.
(View: 12576)
Đức Phật A Di Đà tự thân có ánh sáng vô lượng, chiếu khắp cả mười phương mà không có vật gì có thể ngăn che. Vì vậy nên Phật A Di Đà có nghĩa là Vô Lượng Quang Phật.
(View: 15312)
Nguyên tác Hán văn: Tì-kheo Linh Diệu, tông Thiên Thai soạn - Dịch sang tiếng Việt: Thích Thọ Phước
(View: 14951)
Ngài Buddhaghosa sanh ra và lớn lên nước Magadha, thuộc Trung Ấn Độ, vào thế kỷ thứ V trong ngôi làng Ghosa, gần địa danh nơi đức Phật thành đạo Bodhigaya
(View: 18628)
Nghiên Cứu Về Kinh A Hàm (Ãgama, Sanscrist)
(View: 18473)
Ai nói như sau, này các Tỷ-kheo: "Người này làm nghiệp như thế nào, như thế nào, người ấy cảm thọ như vậy, như vậy".
(View: 15777)
Đây là những điều tôi nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Cấp Cô Độc trong vườn cây Kỳ Đà ở thành Vương Xá.
(View: 20247)
Vào thời Đức Thích-ca-mâu-ni, không có hệ thống chữ viết được phổ biếnẤn Độ. Do đó, những thuyết giảng của Ngài được ghi nhớ và ...
(View: 14369)
"Lại nữa, lúc bấy giờ Mahāmati thưa rằng: “Bạch Thế Tôn, ngài đã từng dạy rằng: từ lúc Như Lai chứng nghiệm giác ngộ cho đến...
(View: 15963)
Kinh Địa Tạng là một trong các kinh Đại thừa được phổ biến rộng rãi trong quần chúng Việt Nam từ hơn nửa thế kỷ nay song song với các kinh Kim Cương, Di Đà, Phổ Môn...
(View: 16072)
Nguyên tác: Tôn giả Thế Thân (Acarya Vasubandhu) - Hán dịch: Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng; Việt dịch: Tỳ khưu Tâm Hạnh
(View: 10702)
No. 1613 - Nguyên tác: Tôn giả An Huệ; Dịch Hán: Tam Tạng Pháp sư Địa-bà-ha-la; Dịch Việt: Tâm Hạnh
(View: 13385)
Duy thức nhị thập luận, do bồ tát Thế Thân soạn, ngài Huyền trang dịch vào đời Đường... được thu vào Đại chính tạng, tập 31, No.1590.
(View: 13152)
Bồ-tát Trần Na tạo luận. Tam tạng Pháp sư Huyền Trang phụng chiếu dịch. Việt dịch: Quảng Minh
(View: 19167)
Nghe như vầy, một thời Đức Phật ở nước Xá Vệ ở vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc cùng chúng đại Tỳ Kheo năm trăm vị. Bấy giờ các thầy Tỳ Kheo...
(View: 16682)
No. 699; Hán dịch: Đời Đại Đường, Trung Thiên Trúc, Tam tạng Pháp sư Địa bà ha la, Đường dịch là Nhật Chiếu
(View: 18120)
Đức Phật Thích-Ca Mưu-Ni, bắt đầu chuyển pháp-luân, độ cho năm vị Tỳ-Khưu là Tôn-giả Kiều-Trần-Như v.v... Sau cùng, Ngài thuyết pháp độ cho ông Tu-bạt-đà-la.
(View: 14793)
Kinh Phạm Võng nằm trong Đại Chánh Tạng, tập 24, ký hiệu 1484, gọi đủ là Phạm võng kinh Lô xá na Phật thuyết bồ tát tâm địa giới phẩm đệ thập
(View: 13944)
Phật thuyết-giảng Kinh Phạm-Võng để dạy về giới-luật, và các pháp cao-siêu vượt thoát được sáu mươi hai kiến-chấp vốn là các tà-kiến đã...
(View: 13494)
Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi, tại Jetavana, vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Độc). Ở đây,,,
(View: 18302)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434; Dịch Phạn - Hán: Tam Tạng Cát-ca-dạ, Dịch Hán - Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ; Hiệu đính: HT Thích Như Điển
(View: 13326)
Đời Đường, Thận Thủy Sa Môn Huyền Giác Soạn; Thánh Tri dịch nghĩa Việt và viết bài học giải...
(View: 16627)
Phật giáo được khai sáng ở Ấn-độ vào năm 589 trước kỉ nguyên tây lịch (năm đức Thích Ca Mâu Ni thành đạo), và đã tồn tại liên tục, phát triển không ngừng trên ...
(View: 14405)
Trong truyền thống Phật giáo Bắc truyền, Dược Sư là một bản kinh thường được trì tụng nhằm mục đích giải trừ tật bệnh, cầu nguyện bình an...
(View: 15066)
Thích-ca là phiên âm của tiếng Phạn. Phiên âm Hán Việt là Năng Nhân. Tức là họ của đấng hóa Phật ở cõi Ta-bà...
(View: 17343)
Kinh chuyển Pháp luân là bài thuyết Pháp đầu tiên của Đức Phật Thích-ca sau khi Ngài đã đắc đạo.
(View: 13702)
Ba Ngàn Oai Nghi Của Vị Đại Tỳ Kheo - Được xếp vào tập T24 - Kinh số 1470 - Tổng cộng kinh này có 2 quyển
(View: 15091)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(View: 17052)
Satipatthana Sutta là một bản kinh quan trọng làm nền tảng cho một phép thiền định chủ yếu trong Phật giáo là Vipassana...
(View: 24078)
Kinh Tứ Thập Nhị Chương là một bài Kinh được truyền bá khá rộng rải ở các Tồng Lâm Tự Viện của Trung QuốcViệt Nam từ xưa đến nay.
(View: 14877)
Bản dịch này được trích ra từ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh Vol. 48, No. 2010. Bởi vì lời dạy của Tổ Tăng Xán quá sâu sắc, súc tích, và bao hàm trong 584 chữ Hán,
(View: 13007)
Dịch từ Phạn sang Tạng: Kluḥi dbaṅ-po, Lhaḥi zla-ba; Dịch Tạng sang Việt: Phước Nguyên
(View: 23021)
Trí Phật là trí Kim – cang, Thân Phật là thân Kim – Sắc, cõi Phật là cõi Hoàng – kim, lời Phật tất nhiên là lời vàng.
(View: 16452)
Bấy giờ Hòa Thượng Vakkali nhìn thấy Đức Phật đang đi đến từ xa, và ông đã cố gắng ngồi dậy.
(View: 23810)
Xin dâng hết lên Tam Bảo chứng minh và xin Quý Ngài cũng như Quý Vị tùy nghi xử dụng in ấn tiếp tục hay trì tụng cũng như cho dịch ra những ngôn ngữ khác...
(View: 20561)
Niệm Phật Tâm Muội do HT Hư Vân soạn, Sa môn Hiển Chơn dịch; Tọa Thiền Dụng Tâm Ký do Viên Minh Quốc Sư soạn, HT Thích Thanh Từ dịch
(View: 16710)
Khi Bồ-tát Quán Tự Tại hành sâu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, ngài soi thấy năm uẩn đều KHÔNG, liền qua hết thảy khổ ách.
(View: 33686)
Viết ra các bài Phật học thường thức này, chúng tôi không có tham vọng giới thiệu toàn bộ Phật pháp và chỉ cốt giúp cho các bạn sơ cơ hiểu được một cách đúng đắn, đạo lý năm thừa trong Phật giáo mà thôi.
(View: 13662)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, Kinh văn số 1675. Tác giả: Long Thọ Bồ Tát; Sa Môn Sắc Tử dịch Phạn sang Hán; HT Thích Như Điển dịch Việt
Quảng Cáo Bảo Trợ
free website cloud based tv menu online azimenu
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant