- Chương 1: Định Mệnh
- Chương 2: Một Nhà Phù Thủy Xứ Ai Cập
- Chương 3: Người Đạo Sĩ Bên Bờ Sông Adyar
- Chương 4: Pháp Môn Yoga Và Vấn Đề Sống Chết
- Chương 5: Người Tu Sĩ Suốt Đời Không Nói
- Chương 6: Nhà Lãnh Đạo Tinh Thần Miền Nam Ấn
- Chương 7: Ngọn Đồi Thiêng
- Chương 8: Tu Sĩ Và Thuật Sĩ
- Chương 9: Vị Pháp Sư Thành Bénarès
- Chương 10: Khoa Chiêm Tinh Học
- Chương 11: Một Cuộc Gặp Gỡ Lạ Lùng
- Chương 12: Đạo Viện Trong Rừng Thẳm
- Chương 13: Những Chân Lý Diệu Huyền
Nguyễn Hữu Kiệt dịch, Nguyễn Minh Tiến hiệu đính
CHƯƠNG 13: NHỮNG CHÂN LÝ DIỆU HUYỀN
Một buổi chiều, tôi nhìn thấy một
người khách lạ bước vào tịnh thất với dáng điệu trầm tĩnh và ngồi xuống sàn,
gần bên giường của Đức Maharichi. Người ấy có một màu da đen sậm và một
gương mặt rất sáng sủa. Anh ta vẫn im lặng không nói gì, nhưng Đức Maharichi
liền tiếp đón anh ta bằng một nụ cười thân mật.
Cái phong độ cốt cách của người này tạo ra một ấn tượng sâu xa trong lòng tôi.
Anh ta giống như một pho tượng Phật tạc trong tảng đá, gương mặt biểu lộ một sự
bằng an, trầm lặng khác thường. Khi bốn mắt chúng tôi gặp nhau, anh ta nhìn
thẳng vào tôi một hồi lâu làm cho tôi phải thấy ngượng và quay mặt đi chỗ khác.
Suốt buổi chiều hôm đó, anh ta không thốt ra một lời nào cả. Qua ngày hôm sau,
tôi lại gặp anh ta trong một trường hợp thật bất ngờ. Tôi vừa rời khỏi tịnh
thất trở về chòi để nấu nước pha trà, vì người giúp việc của tôi đã đi chợ
vắng. Khi vừa mở khóa cánh cửa lớn, tôi sắp sửa bước vào thì có một vật cựa
quậy dưới đất và ngừng lại cách chân tôi trong gang tấc. Những cử động im lặng
của nó và một tiếng huýt nhỏ như tiếng sáo mà tôi nghe thoáng qua trong bóng
tối trước khi tôi nhìn thấy rõ đó là vật gì, nhắc nhở cho tôi biết rằng có một
con rắn ở trong chòi.
Trong một lúc, tôi cảm thấy trong lòng rối loạn vì sợ hãi và không biết phải
làm thế nào. Thần kinh tôi bị căng thẳng đến cực độ. Tôi nhìn con rắn không
chớp mắt, và nó cũng phùng mang giương mắt nhìn lại tôi.
Sau cùng, tôi định tĩnh tinh thần và hối hả rút lui. Tôi định đi tìm một cây
gậy lớn để đập cho nó một gậy giập xương sống, thì bỗng đâu người khách lạ ngày
hôm qua thình lình xuất hiện ở ngoài sân. Gương mặt trầm tĩnh và đôi mắt nhìn
yên lặng của anh ta làm cho tôi bớt sợ hãi và lấy lại sự bình tĩnh. Anh ta đến
gần chòi tranh, với cái nhìn thoáng qua anh ta đã thấu rõ tình hình và thản
nhiên bước vào chòi. Tôi bèn la lớn để báo động nhưng anh ta không màng để ý
đến tiếng kêu của tôi. Một lần nữa tôi lại băn khoăn sợ hãi, vì mặc dầu không
có khí giới anh ta vẫn đưa hai tay về phía con rắn. Con rắn há miệng và le cái
lưỡi dài như hình mũi chĩa thò ra thụt vào, nhưng có vẻ như không định mổ vào
người kia.
Trong khi đó có hai người đang tắm dưới ao gần bên, nghe tiếng kêu của tôi bèn
vội vã chạy tới. Trước khi họ đến gần chòi tranh thì người khách lạ đã khom
lưng ngồi gần bên con rắn và lấy tay nhẹ vuốt trên lưng nó trong khi con rắn
cúi đầu sát đất và nằm im lặng! Nó không còn phùng mang le lưỡi một cách dữ tợn
như trước nữa, cho đến khi hai người kia bước đến và làm cho nó giựt mình. Khi
ấy, nó bèn quẫy đuôi dường như sực tỉnh, và trước bốn cặp mắt của chúng tôi, nó
nhanh nhẹn bò ra khỏi chòi tranh và trong khoảnh khắc đã biến mất dạng trong
khu rừng rậm.
– Đó là một con rắn hổ mang!
Một trong hai người mới đến sau lên tiếng bình phẩm. Người này là một thương
gia ở thành phố gần bên, thường đến thăm đạo viện để chiêm ngưỡng Đức Tôn Sư
hoặc đàm đạo với tôi. Tôi bày tỏ sự ngạc nhiên về việc người khách lạ đùa giỡn
với con rắn một cách không chút sợ sệt. Anh thương gia bèn giải thích:
– À, đó là đạo sĩ
Ramiah. Ông ta là một trong những đệ tử cao nhất của
đức Maharichi. Ông ta là một người có bản lĩnh khá lắm.
Tôi không thể trò chuyện với người
yogi này vì tôi nhận thấy ông ta giữ
giới tịnh khẩu, ngoài ra còn có những giới hạnh đặc biệt khác nữa mà ông ta tự
nguyện giữ theo. Hơn nữa, ông ta là người bản xứ, sử dụng thổ ngữ Telugu
chứ không biết tiếng Anh. Tôi cũng nghe nói rằng ông ta là một người sống ẩn
dật và rất kín đáo, thường không giao thiệp với ai. Ông ta sống trong một cái
nhà nhỏ xây bằng gạch dưới bóng mát của một tảng đá khổng lồ bên cạnh bờ ao, và
là đệ tử của Đức Maharichi đã mười năm nay.
Tuy nhiên, sau đó không lâu, sự cách biệt giữa chúng tôi đã được lấp bằng. Tôi
gặp ông ta trên bờ ao khi ông ta cầm một cái bình nhỏ bằng đồng xuống ao để múc
nước. Dáng điệu ung dung tự tại của ông ta làm tôi thích thú, lúc đó tôi sẵn có
đem theo máy ảnh trong túi, tôi mới ra dấu hiệu đề nghị ông ta cho phép tôi
chụp một bức ảnh. Ông ta không phản đối, và sau khi chụp ảnh ông ta còn theo
tôi về chòi.
Tại đây chúng tôi thấy một người đệ tử già của Đức
Maharichi, đã bảy
mươi lăm tuổi, là một công chức sở Hỏa xa về hưu, đang ngồi đợi ngoài của chờ
tôi về. Cũng do sự tình cờ, tôi được biết ông lão này biết tiếng Telugu
khá giỏi cũng như tiếng Anh và ông sẵn lòng làm thông ngôn cho chúng tôi, tuy
rằng chỉ bằng bút đàm.
Người đạo sĩ không thích nói nhiều và cũng không muốn bị ai phỏng vấn, nhưng
tôi tìm cách gợi chuyện để được biết thêm vài điều về cuộc đời của ông ta.
Đạo sĩ
Ramiah đã trên bốn mươi lăm tuổi, có sở hữu đất ruộng tại tỉnh Nellore,
và mặc dầu không chính thức xuất gia, ông ta vẫn giao lại cho gia đình cai quản
toàn bộ đồn điền tài sản để bản thân có thời giờ theo đuổi việc học đạo.
Ông ta có một nhóm đệ tử riêng ở tỉnh
Nellore, nhưng mỗi năm một lần ông
ta rời khỏi tỉnh này để đến viếng Đức Maharichi và ở lại đạo viện của
Ngài chừng đôi ba tháng.
Thuở thiếu thời, ông ta đã từng đi châu du khắp miền Nam Ấn để tìm thầy học
đạo. Ông ta đã học với nhiều vị danh sư và phát triển được một vài quyền năng
đặc biệt. Đối với các phép luyện khí công và tham thiền, ông ta đều thực hành
rất dễ dàng. Dường như ông ta đã vượt xa cả các vị thầy của mình, vì ông ta đã
trải qua những trạng thái định mà các vị thầy của ông ta không thể giải thích
được một cách thỏa đáng.
Sau đó ông ta tìm đến Đức
Maharichi, Ngài liền giải thích cho ông ta
nghe về những thành tựu mà ông ta đã đạt được trên đường tu tập và giúp đỡ ông
ta tiếp tục tu tập tiến xa hơn nữa.
Đạo sĩ
Ramiah cho tôi biết rằng lần này ông ta định ở lại đạo viện trong
hai tháng nên có đem theo một người tiểu đồng. Ông ta cũng bày tỏ sự vui lòng
khi thấy một người Âu như tôi chú trọng đến nền minh triết cổ truyền của Đông
phương.
Tôi đưa cho ông ta xem một tờ tạp chí Anh ngữ có in hình ảnh, và ông ta bình
phẩm một cách lạ lùng về một bức ảnh trong đó:
– Chừng nào các nhà bác học thông thái ở phương Tây không còn tìm cách làm cho
các động cơ chạy nhanh hơn, và bắt đầu quay nhìn vào nội tâm của họ thì chủng
tộc các ông mới có thể tìm thấy hạnh phúc chân thật và vững bền hơn. Ông có
chắc rằng người Âu Tây các ông sẽ được hạnh phúc hơn chăng mỗi khi họ phát minh
ra được một thứ máy móc mới lạ để giúp họ di chuyển hoặc làm việc nhanh chóng
hơn?
Trước khi từ giã, tôi hỏi ông ta về chuyện con rắn hổ mang hôm trước. Ông ta
mỉm cười và viết câu trả lời như sau:
– Có gì mà phải sợ? Tôi đến gần nó với tấm lòng lành, không nuôi tư tưởng ác,
và một tâm từ bi đối với tất cả chúng sinh.
Tôi nghĩ chắc hẳn còn có điều gì ẩn giấu sau những lời giải thích giản dị đó,
nhưng tôi không hỏi gì thêm mà để cho ông ta trở về nhà.
Trong những tuần lễ sau cuộc gặp gỡ đầu tiên với đạo sĩ
Ramiah, tôi đã
có dịp biết thêm về ông ta nhiều hơn nữa. Chúng tôi thường gặp nhau hoặc ở chỗ
đất trống chung quanh chòi, hoặc trên bờ ao, hoặc ở trước nhà ông ta. Tình bằng
hữu đã nảy sinh giữa chúng tôi, nhưng đó là một mối tình câm, không lời, và một
hôm nó được biểu lộ bằng cử chỉ, khi người đạo sĩ đặt một bàn tay lên đầu tôi
để ban ân huệ và siết chặt hai bàn tay tôi trong tay ông ta.
Ngoài vài câu bút đàm mà người đệ tử già dịch lại cho tôi nghe, chúng tôi không
ai nói với nhau một lời nào trong suốt thời gian kết bạn. Tuy nhiên, tôi cảm
thấy giữa tôi và đạo sĩ
Ramiah có một sợi dây liên lạc mật thiết không
thể nào cắt đứtđược.
Thỉnh thoảng, tôi cùng đi bách bộ với ông ta trong khu rừng rậm. Có đôi lần
chúng tôi cùng trèo lên sườn đồi giữa những tảng đá lớn dựng lên lởm chởm và đi
một cách rất vất vả mệt nhọc trên đường núi gồ ghề. Mặc dầu vậy, ông ta vẫn giữ
một thái độ ung dung tự tại mà tôi không khỏi lấy làm cảm phục.
Một lần cách đó không lâu, tôi lại có dịp thấy ông ta biểu lộ rõ ràng năng lực
phi thường của ông ta. Tôi vừa nhận được thư từ quê nhà gửi sang với những tin
chẳng lành. Tình hình tài chánh của tôi gặp cơn khủng hoảng bất ngờ, và bởi đó
tôi sẽ không thể kéo dài chuyến du hành của tôi ở Ấn Độ nữa. Lẽ tự nhiên là tôi
có thể ở lại đạo viện thêm ít lâu, vì các đệ tử của Đức
Maharichi sẵn có
cảm tình với tôi và sẵn lòng dung nạp. Nhưng bản tính tôi không thích như thế.
Tôi chỉ còn một cách là trở về xứ sở.
Việc này xảy đến cho tôi như một thử thách về sự tu luyện tinh thần mà tôi đã
theo đuổi bấy lâu nay, nhưng vì bản lĩnh của tôi thật ra cũng chưa có gì đáng
kể nên tôi không vượt qua nổi cơn thử thách đó.
Tôi cảm thấy trong lòng nao núng và chán nản vô cùng. Tôi không thể cảm nhận
được sự giao cảm tâm linh với Đức
Maharichi như mọi khi, và đành rời
khỏi tịnh thất một cách đột ngột sau khi đến viếng Ngài chỉ có một lát.
Suốt ngày hôm đó, tôi đi thẩn thơ vô định một cách tuyệt vọng và nguyền rủa sự
yếu đuối của chính bản thân mình. Tôi trở về chòi, nằm buông xuôi trên giường,
cả thể xác lẫn tinh thần đều mệt mỏi.
Tôi nằm dã dượi và thiếp đi được một lúc, nhưng tôi giựt mình ngồi chồm dậy khi
nghe có tiếng gõ cửa. Tôi mời khách vào và ngạc nhiên khi thấy người khách ấy
không phải ai khác mà chính là đạo sĩ
Ramiah.
Tôi ngồi dậy và khi ông ta ngồi xếp bằng dưới nền gạch, tôi cũng ngồi như thế
trước mặt ông ta. Có lẽ ông ta đã nhận biết được cơn xáo trộn và khủng hoảng
tinh thần vừa qua trên nét mặt tôi, nên ông ta chăm chú nhìn tôi với một câu
hỏi trong ánh mắt.
Mặc dầu chúng tôi ngôn ngữ bất đồng, nhưng có một cảm giác lạ lùng khiến tôi cứ
nói chuyện với ông ta bằng tiếng Anh, hy vọng rằng ông ta sẽ hiểu được tư tưởng
của tôi cho dù ông ta không hiểu được những lời tôi nói.
Với vài câu vắn tắt, tôi thuật lại những tin chẳng lành vừa xảy ra từ bên nhà,
và phụ họa thêm bằng những cử chỉ, sắc mặt thất vọng và chán nản.
Ramiah
ngồi lẳng lặng nghe. Khi tôi đã nói xong, ông ta gật đầu đáp lại một cách trịnh
trọng, ra dấu cho tôi biết rằng ông ta đã hiểu rõ được câu chuyện.
Một lát sau, ông ta đứng dậy và lấy tay ra hiệu mời tôi đi theo. Chúng tôi đi
xuyên qua khu rừng rậm, nhưng chỉ độ một lát là đến một khoảng đất trống. Ánh
nắng mặt trời xế trưa rọi thẳng vào người chúng tôi. Tôi tiếp tục đi theo ông
ta độ nửa tiếng đồng hồ, đến một gốc cây đa lớn, chúng tôi ngừng lại và ngồi
nghỉ dưới bóng mát.
Sau khi ngồi nghỉ được một lúc, chúng tôi lại đi bộ thêm nửa giờ xuyên qua rừng
rậm, và sau cùng chúng tôi đi xuống một cái ao lớn theo một con đường tắt mà
Ramiah
có vẻ rất quen thuộc.
Chúng tôi ngồi trên bờ ao, dưới ao có rất nhiều hoa sen. Người
yogi chọn
bóng mát của một thứ cây lùn thấp và ngồi dưới gốc cây, tôi cũng ngồi bên cạnh
ông ta. Ngọn cây với cành lá sum sê tỏa ra trên đầu chúng tôi như một cây dù
lớn. Cảnh vật nơi đây hoàn toàn vắng lặng không có một bóng người, chỉ toàn là
rừng rậm bao bọc chung quanh.
Ramiah
ngồi xếp bằng, hai chân tréo, và ra hiệu bảo tôi ngồi xích lại
gần. Kế đó, ông ta quay mặt về phía ao sen và trong giây phút đã nhanh chóng đi
vào trạng thái nhập định.
Giờ phút trôi qua một cách chậm chạp nhưng
Ramiah vẫn ngồi điềm nhiên
bất động, gương mặt ông ta cũng yên tịnh như mặt nước hồ sen, thân hình ông ta
ngay ngắn như một pho tượng đồng.
Nửa giờ trôi qua, ông ta vẫn ngồi yên như thế, gương mặt dường như biến đổi bởi
một sự yên tịnh càng lúc càng thâm trầm hơn trước, đôi mắt nhìn thẳng vào hư
không hay nhìn những ngọn đồi xa xa ở tận chân trời tôi cũng không biết được.
Sau một thời gian không lâu, tôi dần dần chịu ảnh hưởng của bầu không khí im
lặng chung quanh và sự điềm tĩnh lạ lùng của người bạn này. Một sự bằng an
tuyệt vời đã xâm chiếm tâm hồn tôi một cách từ từ, thấm thía, dịu dàng và chắc
chắn. Một sự ung dung tự tại và thản nhiên trước nghịch cảnh mà tôi chưa hề bao
giờ đạt tới từ trước, nay đến với tôi một cách dễ dàng. Người đạo sĩ đã giúp đỡ
tôi bằng một phương pháp bí mật và huyền diệu, tôi không còn nghi ngờ gì về
điều đó nữa. Ông ta đã dùng sự giao cảm giữa hai tâm thức để ảnh hưởng đến tôi
một cách mầu nhiệm như thế. Sự bằng an tuyệt vời tỏa ra từ ông ta trong trạng
thái thiền định thâm sâu đã có sự ảnh hưởng rõ rệt đến tâm thức đang xao động
của tôi.
Sức nóng mặt trời đã giảm bớt khi đến lúc xế chiều, bãi cát nóng gắt cũng đã
nguội dần. Một vài tia nắng màu vàng sậm từ hướng tây chiếu thẳng vào gương mặt
của người đạo sĩ, làm cho thân hình ông ta dường như tỏa hào quang sáng chói.
Một niềm an lạc vô biên tràn ngập cõi lòng tôi, những sự thay đổi của cuộc đời,
những nỗi thăng trầm của số kiếp nay không còn là điều quá ư quan trọng đối với
tôi nữa, khi tôi bắt đầu sống với nội tâm thiêng liêng của chính tôi.
Trong lúc đó, tôi nhận thấy một cách rõ ràng rằng con người có thể thản nhiên
và an vui trước nghịch cảnh nếu người ấy nhận thức được chân ngã của mình, rằng
thật là một điều khờ dại khi cứ mãi bám víu lấy những sự vật phù du giả tạo
giữa cuộc đời trần gian, mãi ôm ấp vun bồi cho một cái bản ngã hoàn toàn hư
dối, không thật.
Tôi cũng nhận thấy rằng khi một người nhận biết và nghe theo tiếng nói của nội
tâm, người ấy sẽ có thể trải qua những cơn phong ba chìm nổi của cuộc đời thế
gian mà lòng không nao núng hay sợ sệt. Tôi cảm thấy rằng, ở một nơi nào đó sâu
thẳm trong nội tâm luôn tồn tại những giá trị căn bản chân thật và bất di bất
dịch của cuộc đời, và khi người ta nhận thức được những giá trị ấy rồi thì tất
cả những sự lo âu phiền não của cuộc đời sẽ tự nó tan biến mãi mãi không còn
nữa.
Nhờ sự chuyển biến tinh thần vừa diễn ra trong tâm hồn mà tôi đã trút hết được
gánh nặng của sự thất vọng ưu phiền. Tôi không còn biết tới thời gian trôi qua
trong khi tôi có được cái kinh nghiệm tốt đẹp tuyệt vời nói trên, và tôi cũng
không biết làm sao có thể giải thích một cách mỹ mãn sự huyền diệu của nội tâm
khi nó được hoàn toàn vắng lặng và không tùy thuộc ở thời gian hay không gian.
Bóng hoàng hôn đã buông xuống khu rừng rậm. Lúc ấy tôi không còn ý thức được
cảnh vật chung quanh nữa, nhưng từ sâu thẳm trong tiềm thức, tôi nhớ lại rằng
màn đêm sụp xuống rất mau chóng ở vùng nhiệt đới, và lúc đó tôi đang ngồi giữa
rừng sâu hoang vắng cô liêu. Tuy nhiên, tôi lại không cảm thấy sợ sệt chút nào
khi ngồi bên cạnh người đạo sĩ, nhất là khi người ấy lại đưa tôi đến thám hiểm
vào nội tâm huyền bí để được thấm nhuần trong bầu không khí an lạc tuyệt vời...
Sau cùng, khi người đạo sĩ sờ nhẹ vào cánh tay tôi để ra hiệu cho tôi đứng dậy
thì chung quanh trời đã tối đen. Chúng tôi nắm tay nhau đi trong đêm tối xuyên
qua khu rừng hoang để trở về nhà, không có đèn đuốc soi đường, nhưng người đạo
sĩ dường như được dìu dắt bởi một thứ giác quan lạ lùng. Vào một lúc khác, khu
rừng này có lẽ đã làm cho tôi phải sợ sệt, vì ban đêm là lúc mà các loài thú dữ
rời khỏi sào huyệt của chúng để đi kiếm mồi, và chúng tôi thừa biết là có vô số
độc trùng ác thú đang lởn vởn chung quanh trong rừng này.
Tôi nhớ lại con chó
Jackie ở đạo viện vẫn thường đi chơi với tôi trong
vườn hoặc chia sớt bữa ăn với tôi ở chòi tranh, một hôm đã trở về nhà với cuống
họng bị xé toang, máu me đầm đìa vì vết cắn của một con beo gấm, và một con chó
khác cũng bị cọp tha mất, không trở về. Biết đâu đêm nay tôi cũng sẽ thoáng
nhìn thấy trong bóng tối cặp mắt xanh biếc và sáng ngời của một con beo gấm,
hay vô ý dạp nhằm một con rắn hổ mang nằm khoanh tròn dưới đất, hoặc giẫm chân
lên một con bồ cạp lửa mà nọc độc có thể làm chết người dễ dàng?
Nhưng ngay tức khắc tôi cảm thấy hổ thẹn vì những ý nghĩ đó bên cạnh người đạo
sĩ không hề sợ sệt, và tôi liền nép mình trong hào quang an tịnh che chở của
ông ta mà lúc này tôi cảm nhận rõ là đang bao bọc quanh tôi.
Đêm càng khuya, khu rừng càng vang rền những âm thanh rùng rợn. Tiếng sủa của
một con chó rừng văng vẳng từ đàng xa. Những loài thú hoang dã khác cũng rú lên
để đáp lại, và khi chúng tôi về đến gần cái ao bên cạnh nhà thì tiếng ễnh ương,
rắn mối, trùng dế, dơi chuột... đang hòa thành một khúc nhạc lạ lùng, bí hiểm.
Sáng hôm sau, khi thức giấc tôi cảm thấy tâm hồn hoàn toàn nhẹ nhàng thư thái,
sẵn sàng chào đón một vũ trụ tràn đầy ánh sáng, nhộn nhịp tưng bừng...
Còn biết bao nhiêu chuyện mà tôi có thể viết về đời sống ở đạo viện và về những
cuộc đàm thoại của tôi với Đức
Maharichi. Tôi càng thấy rõ rằng Ngài là
người nối nghiệp của một quá khứ huy hoàng xa xăm, khi mà người ta xem sự khám
phá chân lý thiêng liêng cũng có giá trị không kém gì sự tìm ra một mỏ vàng. Từ
nay, tôi biết chắc rằng tôi đã gặp ở nơi thâm sơn cùng cốc này một trong những
bậc siêu nhân cuối cùng còn sót lại của xứ Ấn Độ.
Gương mặt trầm lặng của vị hiền giả này làm cho tôi cảm thấy gần gũi hơn với
những bậc thánh nhân hiền triết của xứ Ấn Độ thời xưa. Tuy nhiên, tôi vẫn cảm
thấy rằng cái phần thâm sâu huyền diệu nhất của Ngài vẫn chưa được biểu lộ rõ
ràng. Có khi Ngài vẫn sống cách biệt một cách lạ lùng, và những khi khác Ngài
lại ban rải ân huệ thiêng liêng của Ngài cho tôi với một hảo ý tuyệt vời, và
điều đó nối liền tôi với Ngài bằng những sợi dây nhân duyên bền chặt và trường
cửu.
Tôi đã quen dần với cái phong thái bí ẩn của Ngài và chấp nhận hiểu về Ngài
theo những gì tôi nhìn thấy. Tuy Ngài sống cách biệt với thế giới bên ngoài và
không chịu tiếp xúc với người thế gian, nhưng người nào có đầy đủ nhân duyên sẽ
được dắt dẫn đến sự giao cảm tâm linh với Ngài. Tôi càng yêu quí Ngài hơn nữa
khi tôi thấy Ngài rất giản dị và khiêm tốn giữa một bầu không khí cao cả và
thiêng liêng thật sự mà người ta cảm thấy rõ rệt ở chung quanh Ngài.
Ngài không hề tuyên bố về những năng lực thần bí hay một sứ mạng thiêng liêng
nào đó, cho dù điều đó chắc chắn sẽ được những người Ấn Độ dễ dàng tin theo, vì
họ là một dân tộc sẵn có sự tin tưởng nơi thần quyền, và sẵn sàng thánh hóa
Ngài ngay trong khi Ngài đang còn sống, nếu Ngài không phải là một người hoàn
toàn chân thật và cực lực phản đối những tư tưởng đó.
Nhưng tôi vẫn cảm nhận một điều rằng sự có mặt trên thế gian của những người
như Đức
Maharichi dường như không phải là do sự ngẫu nhiên tình cờ. Ngài
như một vị sứ giả thiêng liêng tiếp tục công trình của những bậc hiền giả đã
từng xuất hiện trải qua dòng lịch sử nhân loại để gìn giữ, duy trì sự sinh hoạt
tâm linh trên mặt dịa cầu. Người ta phải chấp nhận sự kiện là những bậc hiền
giả chỉ xuất hiện để chỉ ra cho chúng ta thấy được chân lý, chứ không phải để
thảo luận đôi co gì với chúng ta.
Dầu sao, những giáo lý của Ngài có một tính cách hấp dẫn đối với tôi vì nó rất
thực tế và đúng tinh thần khoa học. Ngài không sử dụng đến một sức mạnh thần
thông siêu phàm nào và cũng không đòi hỏi một đức tin mù quáng. Danh từ Thượng
đế cũng không hề xuất hiện trên đôi môi của Ngài. Ngài chỉ đưa ra một phương
pháp giúp mỗi người tự phân tách bản ngã, và phương pháp đó có thể thực hành
đối với bất cứ ai, cho dù người đó có những tín ngưỡng như thế nào. Nhưng
phương pháp đó khi được thực hiện một cách đúng đắn và miên mật chắc chắn sẽ
đưa con người đến sự nhận thức được chân ngã hay chân như, Phật tánh của chính
mình.
Càng ngày tôi càng nhận thức được rằng có một phần sức mạnh tinh thần của Đức
Maharichi
thường xuyên được chuyển sang cho tôi, cho dù chúng tôi không trao đổi với nhau
một lời nào.
Tuy nhiên, ngày dự định lên đường sắp tới làm trở ngại những cố gắng của tôi.
Tôi cố nán lại ít lâu, nhưng sức khoẻ của tôi lại giảm sút và làm cho tôi phải quyết
định từ giã đạo viện càng sớm càng tốt.
Thật vậy, khi nghe theo tiếng nói của nội tâm và từ
Bombay trở về đây,
tôi đã có đủ ý chí gạt bỏ sự kháng cự của một thể xác đau yếu và một tinh thần
mệt mỏi để lưu ngụ tại vùng nóng bức này. Nhưng sức người có hạn, mà cái thể
xác vật chất này của tôi cũng có sự giới hạn chịu đựng của nó, cho nên không
bao lâu thì cơn bịnh cũ của tôi đã bộc phát trở lại và sức khoẻ của tôi nhanh
chóng suy sụp đến một mức độ đáng báo động. Sự thật là tôi chưa từng bao giờ
cảm thấy suy yếu đến thế.
Vài giờ trước khi bước vào một buổi thiền định bên cạnh Đức
Maharichi
thì tôi bắt đầu run lên một cách dữ dội, khắp cả thân mình toát mồ hôi như tắm,
triệu chứng của một cơn sốt nóng sắp đến.
Sau khi viếng thăm một nơi thánh điện thâm nghiêm ở ngôi đền lớn, tôi hối hả
trở về và bước vào tịnh thất khi giờ công phu buổi chiều đã trôi qua hết nửa
phần. Tôi lẳng lặng ngồi xuống sàn gạch và tréo chân theo thế ngồi thiền như
thường lệ. Trong vài giây đồng hồ, tôi định tĩnh tinh thần và tập trung tư
tưởng vào một điểm nhất định. Đến lúc tôi nhắm mắt thì tâm thức của tôi đã chú
ý hoàn toàn vào nội tâm và tập trung ở đó. Hình dáng Đức
Maharichi ngồi
nhập định hiện rõ ràng trong tâm trí tôi. Noi theo lời chỉ dẫn thường xuyên của
Ngài, tôi cố gắng vượt qua hình bóng ấy để an trụ vào phần vô sắc tướng, tức là
bản chất thực sự của thực tại.
Tôi ngạc nhiên khi thấy những cố gắng của tôi có kết quả rất mau chóng, và hình
bóng ngài đã biến mất trong tâm trí tôi, tôi không còn cảm thấy gì khác hơn là
một sự an tĩnh trống không trong tâm thức.
Những suy luận của lý trí trong những lần tham thiền ban sơ của tôi trước kia
đã dứt hẳn. Tôi đã từng dò hỏi, cân nhắc và phân tích những ý thức của tôi về
thể chất, về tình cảm và lý trí, nhưng khi nhận thức rõ đó không phải là chân
ngã, tôi đã buông bỏ hết tất cả những điều đó.
Kế đó, tôi tập trung tâm thức vào việc quán xét chính nó, để tìm xem nguồn gốc
của nó ở đâu. Đây là lúc tôi bước vào giai đoạn quyết liệt. Trong khi tôi giữ
cho tâm thần yên tịnh, lý trí phân biệt đã tự rút lui, cảnh vật chung quanh bắt
đầu lu mờ và đắm chìm vào một sự vắng lặng hư không. Trong trạng thái đó, hành
giả thường phải luôn duy trì sự tập trung tư tưởng, không để cho tâm thức bị
xao động vì bất cứ lý do gì.
Cuộc đời thế gian với bao nhiêu sự cám dỗ, thử thách, vẫn luôn rình rập chung
quanh người tu tập. Giữ gìn cho thân tâm vắng lặng, không bị xao động bởi ngoại
cảnh thật là một điều khó lắm thay!
Đêm nay, tôi đạt tới trạng thái đó một cách rất mau chóng, sau khi đã loại trừ
một loạt những tư tưởng vẩn vơ vẫn thường đột nhập vào tâm trí trước khi tâm
thần được bình tĩnh yên lặng. Một sức mạnh mới mẽ và dồi dào bắt đầu tác động
mãnh liệt trong tâm thức tôi và thúc đẩy tôi tiến sâu hơn vào nội tâm. Nỗ lực
đầu tiên đã mang lại kết quả thật nhanh chóng khác thường, hầu như có phần quá
dễ dàng, và sự căng thẳng của giai đoạn này được nối tiếp theo sau bằng một cảm
giác khoan khoái, nhẹ nhàng và thoải mái.
Trong giai đoạn kế tiếp, tôi cảm nhận được sự tách rời ra khỏi hoạt động của lý
trí và quán sát nó một cách khách quan. Một tia sáng trực giác dần dần tỏa
chiếu cho tôi thấy rõ rằng mọi suy diễn và khái niệm của lý trí đều chỉ hoàn
toàn dựa trên nền tảng của một cái tôi hư dối, không thật và không bền vững.
Tôi quán xét những tư tưởng của chính tôi với một sự siêu thoát lạ thường. Cái
trí biện luận, suy diễn từ trước đến nay vẫn được xem như một khả năng quí báu
mà người ta lấy làm tự hào, nay đã bộc lộ rõ sự yếu kém và sai lầm của nó.
Nhưng rồi tôi cũng nhận thấy rằng cái trí suy diễn sai lệch đó thật ra cũng
không nằm ngoài bản thể của tự tánh, nên ngay khi tôi vừa nhận biết được sự hư
dối của nó thì nó không còn có khả năng dắt dẫn tôi đi vào những con đường sai
lệch nữa.
Thật là một điều lạ lùng mà trước đây tôi không hề biết đến. Tôi không hề nghĩ
rằng người ta có thể quan sát sự hoạt động của những tư tưởng trong tâm trí
mình, như thể là của một người nào khác. Nhưng quả thật là trong trạng thái
thiền định hiện thời, tôi đang quan sát được từng ý niệm, từng tư tưởng của chính
tôi phát khởi lên như thế nào và chấm dứt, tan biến ra sao.
Dù vậy, tôi vẫn cảm thấy còn có một sự trói buộc, hạn chế bởi những tư tưởng
rất tinh tế, mà khi thoáng nhìn qua không thể hoàn toàn nhận biết được. Nhưng
càng ngày những tư tưởng vi tế ấy càng xuất hiện nhiều hơn và thực sự tạo thành
một áp lực khó lòng dứt bỏ, giải thoát được. Tôi nhớ lại rằng đức
Maharichi
không bao giờ bảo tôi nên chặn đứng một cách quyết liệt những hoạt động của lý
trí. Ngài luôn dặn dò rằng:
– “Con chỉ cần truy ngược dòng mọi tư tưởng cho đến lúc thấy được tận nguồn gốc
sinh khởi của nó, và khi con nhận thức được bản chất thực sự của mọi tư tưởng
thì tự chúng sẽ chấm dứt, tan biến như những bọt nước mà thôi.”
Tôi liền buông bỏ mọi cố gắng kháng cự với sự sinh khởi của các niệm tưởng và
tự đưa mình vào một trạng thái tỉnh giác nhưng hoàn toàn không phản kháng. Tôi
có cảm tưởng rằng trạng thái tỉnh giác này rất giống như một con rắn đang lặng
lẽ rình mồi.
Tôi duy trì trạng thái thiền định đó cho đến khi tôi nhận thức được rằng lời
dạy của đức
Maharichi quả thật không sai. Những đợt sóng niệm tưởng bắt
đầu giảm bớt dần dần và ngày càng trở nên yếu ớt, trong khi sự tỉnh giác trong
tâm thức tôi ngày càng sáng suốt hơn. Tôi bắt đầu kinh nghiệm được một trạng
thái an lạc lạ lùng khoan khoái nhất từ trước đến giờ.
Thời gian dường như ngừng trôi khi tâm thức tôi tràn ngập trạng thái an lạc và
sáng suốt đó. Những cảm xúc của giác quan thông thường dường như đã hoàn toàn
mất hẳn, tôi không còn nghe, thấy, nhận biết hay nhớ nghĩ đến điều gì nữa. Và
trạng thái an lạc này dường như có thể kéo dài bất tận mà không chịu bất cứ một
sự giới hạn nào.
Trong trạng thái an lạc đó, tôi cảm thấy được một điều mới lạ là sự tự do tuyệt
đối hoàn toàn. Một khái niệm tự do mà trước đây dù có ai mô tả cho tôi hẳn tôi
cũng không sao hiểu được. Đó là sự thoát hẳn ra khỏi mọi chi phối và dẫn dắt
của tư tưởng, thật chẳng khác nào thoát ra khỏi chốn ngục tù đen tối để thở hít
bầu không khí tự do phóng khoáng bên ngoài! Và còn hơn thế nữa, đây là một sự
tự do không còn giới hạn, cho dù giới hạn đó là không gian mênh mông hay thời
gian vô tận.
Trong trạng thái an lạc đó, những đắng cay của dĩ vãng, những ưu tư phiền muộn
của tương lai, thảy đều tiêu tan không còn chỗ đứng. Tôi đã đạt được một sự tự do
thiêng liêng và một niềm hạnh phúc an lạc không thể tả. Tôi cảm nhận được mình
đang mở rộng hai tay ôm lấy toàn thể vũ trụ và muôn loại chúng sinh với một
tình thương bao la thâm trầm, vì tôi đã hiểu được một cách sâu sắc rằng: “Khoan
dung không chỉ là tha thứ, mà còn là thương yêu tất cả!”
Con người không bao giờ có thể tìm thấy chân giá trị của cuộc đời khi chưa biết
được giá trị của sự thương yêu. Do sự si mê đó, người ta điên đảo chạy theo
những lý thuyết tà vạy, tìm kiếm hạnh phúc của chính mình bằng cách đánh cắp
hạnh phúc của kẻ khác. Thật là hoang tưởng! Nhưng sự hoang tưởng đó đã ngự trị
trong nhân loại từ Đông sang Tây hàng bao nhiêu thế kỷ rồi! Tất cả những cuộc
chiến tranh khốc liệt đã từng xảy ra trên mặt đất này đều nói lên điều đó. Chúng
chẳng có ý nghĩa gì khác hơn là sự tranh giành hạnh phúc, vì người ta luôn
tưởng rằng hạnh phúc là một cái gì đó có thể cướp lấy từ kẻ khác. Nhưng sự thật
đã cho thấy điều ngược lại. Kẻ thắng và người thua trong một cuộc chiến đều
phải nhận lãnh những mất mát khổ đau thay vì là sự an vui hạnh phúc như người
ta mong đợi.
Ngược lại, khi người ta biết mở lòng thương yêu kẻ khác thì chính bản thân họ
sẽ có thể tìm thấy lẽ sống chân thật trong sự an vui hạnh phúc thật sự, mà
người được thương yêu cũng nhận được những niềm vui an ổn. Quả là một nhận thức
có vẻ như đi ngược lại với những gì mà nhân loại đang theo đuổi, nhưng đó lại
là một nhận thức hoàn toàn sáng suốt và chính xác. Con người chỉ có thể tìm
được ý nghĩa đó khi chịu quay lại quán xét nội tâm của chính mình.
Con người từ xa xưa đã luôn khắc khoải đi tìm ý nghĩa đích thật của cuộc đời,
nhưng không hề biết rằng cái ý nghĩa sâu xa và chân thật nhất của đời chỉ có
thể được tìm thấy ngay trong nội tâm của mỗi người. Khi một người sống buông
thả theo dục vọng thì sự sáng suốt trong nội tâm sẽ là một điều hoàn toàn xa lạ
đối với anh ta. Và một khi biết quay về với sự tĩnh lặng trong nội tâm, kiềm
chế mọi dục vọng, thì trí tuệ sáng suốt chắc chắn sẽ tự nhiên được hiển lộ.
Nguyên lý đơn giản này lại chính là những gì mà tất cả các bậc thánh nhân hiền
triết đông tây kim cổ đều nhận biết.
Con người luôn hướng về những bậc hiền triết từ thời xưa để tìm học những tư
tưởng cao siêu và những triết lý uyên áo, nhưng thật ra thì những sự tìm kiếm
đó chẳng bao giờ mang lại cho chúng ta một tri thức giác ngộ thật sự. Chỉ khi
nào ta nhận biết được bản tính chân thật của chính mình thì tâm thức ta mới
được tắm tràn trong ánh sáng trí tuệ. Tất cả những gì là tốt đẹp cao cả về tư
tưởng và tình cảm đều sẽ tự chúng hiển hiện trong tâm thức chúng ta một cách dễ
dàng mà không cần phải tìm kiếm.
Sự giác ngộ tự tánh cũng sẽ đồng thời làm thức tỉnh một tình thương bao la rộng
lớn đến nỗi có thể chuyển hóa được cả một đời người, và cũng chuyển hóa cả
những người chung quanh. Không gì có thể làm thay đổi được chân lý cổ xưa này,
mặc dầu có thể nó đã được biết đến qua nhiều thế hệ kể từ khi con người bắt đầu
xuất hiện trên quả này; nhưng cũng không gì khó đạt được hơn chân lý giản dị
này, bởi những dục vọng tiềm tàng trong mỗi con người luôn xô đẩy chúng ta đi
về hướng ngược lại.
Mặc dù không còn một chút ý niệm nào về thời gian trôi qua, nhưng cuối cùng rồi
tôi cũng ra khỏi trạng thái thiền định thâm sâu kỳ diệu đó. Tôi nhận thấy rằng
tôi vẫn còn ngồi trong tịnh thất của Đức
Maharichi, nhưng gian phòng giờ
đây đã vắng lặng như tờ, làm tôi có cảm giác như không còn sự hiện diện của bất
cứ ai khác. Đôi mắt tôi chợt nhìn lên chiếc đồng hồ treo tường và nhận ra rằng
giờ này có lẽ tất cả mọi người đều đã đến phòng ăn để dùng cơm chiều.
Kế đó, tôi cảm thấy hình như vẫn còn có ai đó đang ngồi bên cạnh tôi. Đó là vị
đệ tử già bảy mươi lăm tuổi vẫn còn ngồi cạnh tôi trên sàn gạch và chăm chú
nhìn tôi một cách rất có thiện cảm. Ông ta cho tôi biết:
– Sư huynh đã nhập định được gần hai tiếng đồng hồ.
Tôi đưa mắt nhìn, gương mặt của ông ta đầy những vết nhăn, dấu tích sự tàn phá
của thời gian. Ông ta vừa nói với tôi vừa nở một nụ cười rất tươi, dường như
cũng nhận biết và muốn chia sớt niềm hạnh phúc vừa rồi của tôi. Tôi định mở lời
để đáp lại, nhưng lấy làm ngạc nhiên mà thấy rằng tôi không thể phát ra tiếng
nói được nữa! Phải mất gần mười lăm phút sau đó tôi mới thu hồi lại được giọng
nói của mình. Trong khi đó, ông lão lại nói tiếp:
– Đức
Maharichi đã theo dõi sư huynh một cách chặt chẽ trong suốt thời
gian đó.Khi đức Tôn Sư trở lại tịnh thất, những người đi theo Ngài cũng vào
ngồi lại một lúc trước khi sửa soạn đi ngủ. Ngài bước lên giường gỗ ngồi xếp
bằng như thường lệ. Ngài ngồi trong tư thế nghỉ, khuỷu tay mặt chống lên đùi,
bàn tay mặt đỡ lấy cằm, hai ngón tay đặt bên gò má. Bốn mắt chúng tôi gặp nhau,
và ngài tiếp tục nhìn tôi một cách chăm chú.
Khi người tiểu đồng hạ thấp cái bấc đèn theo như lệ thường mỗi đêm, tôi lại
ngạc nhiên khi nhận ra một tia sáng lạ thường trong cặp mắt yên lặng của đức
Tôn Sư. Đôi mắt Ngài chiếu sáng ngời như hai ngôi sao giữa đêm tối. Tôi chưa
từng gặp một người nào có cặp mắt lạ lùng như nhà hiền triết này. Nếu cặp mắt
con người có thể biểu lộ một năng lực siêu nhiên thì hẳn đó chính là trường hợp
của Đức
Maharichi.
Khói trầm bay lên nghi ngút tỏa mùi thơm khắp phòng trong khi tôi vẫn nhìn vào
đôi mắt không chớp của Ngài. Bốn mươi phút lặng lẽ trôi qua trong tình trạng
đó, tôi với Ngài đều im lặng nhìn nhau mà không ai thốt ra một lời nào. Giữa
lúc này, lời nói nào có ích gì. Bây giờ, chúng tôi hiểu nhau hơn trong im lặng,
vì trong cái im lặng thâm trầm đó tâm hồn chúng tôi hòa hợp lẫn nhau một cách
tuyệt diệu và chính trong sự giao cảm âm thầm này mà tôi nhận được một thông
điệp không lời nhưng rất rõ ràng.
Sau khi tôi đã nhận thức được quan điểm của Đức
Maharichi về cuộc đời,
từ nay đời sống nội tâm của tôi đã bắt đầu có thể hòa hợp với sống tinh thần
của Ngài.
Trong hai ngày kế đó, tôi phải chiến đấu với cơn sốt sắp đến và cố gắng giữ
vững tinh thần. Vị đệ tử già bước đến chòi của tôi vào một buổi trưa và nói:
– Thời gian chung sống của sư huynh với chúng tôi nay đã chấm dứt. Nhưng chắc
có ngày sư huynh sẽ trở lại với chúng tôi chứ?
– Lẽ tất nhiên tôi sẽ trở lại.
Tôi đáp một cách tự tin. Khi anh ta ra về, tôi đứng trước cửa nhìn lên ngọn đồi
thiêng,
Arunachala, nói theo tiếng Ấn Độ. Nó đã trở thành cái bối cảnh
linh thiêng của cuộc đời tôi. Bất cứ lúc nào, khi tôi đang làm gì, dầu là đang
ăn uống, nói chuyện, đi bách bộ, hay ngồi thiền, tôi chỉ ngước mắt lên là nhìn
thấy cái dáng hùng vĩ của nó nhô lên trước mặt, hoặc ở chỗ lộ thiên, hoặc xuyên
qua khung cửa sổ. Người ta không thể quan niệm được rằng một nơi đạo viện thâm
nghiêm như chốn này mà không có một ngọn đồi như thế, và tôi cũng đã chịu ảnh
hưởng bởi cái sức hấp dẫn lạ lùng của nó.
Chiều đến, tôi chào từ giã tất cả mọi người trong đạo viện, trừ ra Đức
Maharichi.
Tôi cảm thấy nhẹ nhàng sung sướng bởi vì tôi đã thành công trong sự chiến đấu
để đạt tới một kết quả chắc chắn về đường tâm linh, và cũng bởi vì tôi đã thắng
trận mà không phải hy sinh cái thái độ hợp lý của tôi cho một đức tin mù quáng.
Tuy nhiên, khi Đức
Maharichi cùng tôi bước ra đến sân đạo viện lần cuối
cùng, tôi cảm thấy sự sung sướng của tôi thình lình biến mất và nhường chỗ cho
một nỗi buồn man mác. Tôn Sư đã chinh phục được tôi một cách lạ lùng và tôi cảm
thấy buồn vô hạn khi phải từ giã Ngài ra đi.
Ngài đã nối liền hai linh hồn chúng tôi bằng những sợi dây nhân duyên vô cùng
bền chặt, tuy rằng Ngài không có ý muốn nào khác hơn là giúp tôi tự giải thoát.
Ngài đã giúp tôi nhận thức được chân như, Phật tánh và tự mình biến những danh
từ đó thành một kinh nghiệm sống động, độc đáo và vô cùng huyền diệu.
Tôi cố kéo dài giờ phút từ biệt, và không thể nào biểu lộ hết những nỗi xúc cảm
thâm trầm trong lòng tôi.
Nền trời xanh thẫm chiếu muôn ngàn ánh sao lóng lánh, vầng trăng non mới mọc
giống như cái lưỡi liềm bằng bạc treo lủng lẳng trên không trung. Hàng nghìn
con đom đóm lập lòe làm cho khu vườn trở thành một tấm thảm chói sáng rực được
thêu bằng kim cương, và những chiếc lá dừa đẩy đưa một cách dịu dàng trước ngọn
gió chiều hiu hắt.
Cuộc phiêu lưu kỳ diệu của tôi vào cảnh giới tâm linh đã mang đến cho tôi những
kết quả tuyệt diệu không ngờ, nhưng giờ phút chia tay với nơi này cũng đã đến.
Tuy vậy, biết đâu rồi thế cuộc xoay vần lại chẳng có ngày nào đó tôi sẽ trở lại
chốn này?
Tôi chắp hai tay đưa lên trán theo phong tục bản xứ và thốt vài lời từ biệt.
Ngồi trên chiếc giường gỗ, Tôn Sư không nói một lời. Dưới ánh đèn dầu leo lét,
tôi còn thoáng thấy gương mặt trầm lặng của Ngài với màu da đồng bạch và cặp
mắt sáng ngời. Một cái chắp tay vái chào cuối cùng, một cái vẫy tay nhẹ của
Ngài đáp lại, và thế là hết.
Tôi trèo lên cỗ xe bò đợi sẵn ngoài sân, người phu xe vung roi quất mạnh. Cỗ xe
từ từ lăn bánh, hai con bò dễ dạy lầm lũi tiến bước trong đêm khuya thơm ngát
mùi hương của vùng nhiệt đới.