Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

A. Nghi thức ở chúng Tỳ-kheo ni

02 Tháng Ba 201100:00(Xem: 11162)
A. Nghi thức ở chúng Tỳ-kheo ni

TĂNG ĐỒ NHÀ PHẬT (HÁN VIỆT)
Đoàn Trung Còn - Nguyễn Minh Tiến dịch và chú giải

TỲ-KHEO VÀ TỲ-KHEO NI

A. NGHI THỨC Ở CHÚNG TỲ-KHEO NI

Người muốn xin thọ giới tỳ-kheo ni, khi mới đến phải cúi đầu lễ lạy hết thảy đại chúng ni tăng. Lễ chúng ni tăng xong rồi, vị ni giới sư sẽ dạy đắp y, mang bình bát, hỏi người ấy rằng:

Năm tấm y và bình bát này có phải là của cô không?

Người xin thọ giới đáp: “Thưa phải.”

Khi ấy, ni giới sư dạy cho người xin thọ giới thưa trước đại chúng rằng:

“Con tên là... ... với năm tấm y và bình bát này xin nguyện suốt đời thọ trì không lìa bỏ.”

Lập lại như vậy ba lần. Rồi mới thưa thỉnh hòa thượng ni rằng:

“Kính bạch đại đức thương tưởng, con tên là ... ... nguyện thỉnh ngài làm hòa thượng ni, xin ngài vì con mà làm hòa thượng ni. Con nương theo ngài mà được chúng tăng cho thọ giới cụ túc. Xin ngài thương xót con.”

Lập lại như vậy ba lần. Khi ấy, vị ni giới sư mới hỏi hòa thượng ni ấy rằng:

“Ngài có thể vì đệ tử thức-xoa-ma-na đây mà làm hòa thượng ni đỡ đầu được chăng?”

Vị hòa thượng ni đáp rằng: “Có thể được.”

Liền đó, ni giới sư bảo người xin thọ giới đi ra một nơi khác, có thể nhìn thấy nhưng không thể nghe được mọi việc trong giới đàn.

Sau đó, vị ni giới sư mới hỏi cả đại chúng rằng:

“Các vị, ai có thể vì đệ tử thức-xoa-ma-na tên ... ... này mà làm giáo thọ sư?”

Vị tỳ-kheo ni nào nhận làm giáo thọ sư sẽ đáp lại rằng: “Tôi có thể làm được.”

Khi ấy, ni giới sư thưa trước đại chúng rằng:

“Kính bạch chư đại đức ni tăng, thức-xoa-ma-na đây tên là ... ....., nay cầu được hòa thượng ni tên là... ..., xin được thọ cụ túc giới. Nay có tỳ-kheo ni tên là... ... nhận làm giáo thọ sư, vì đệ tử tên ... ... mà dạy dỗ. Nếu chư đại đức ni tăng thấy đây là lúc thích hợpưng thuận, tỳ-kheo ni tên ... ... sẽ vì đệ tử tên ... ... này mà làm giáo thọ sư, lo việc dạy dỗ.”

Rồi lại thưa tiếp rằng:

“Kính bạch chư đại đức ni tăng, thức-xoa-ma-na tên ... ... đây, theo hòa thượng ni tên... ... cầu thọ cụ túc giới, đã có tỳ-kheo ni tên ... ... nhận làm giáo thọ sư để dạy dỗ. Như có ai trong số chư đại đức ni tăng ưng thuận việc này, xin lặng thinh chấp nhận. Vị nào không ưng thuận xin tùy ý nói ra.”

Nếu đại chúng ni đều lặng thinh tỏ ý đã ưng thuận, xem như đã lập xong giáo thọ sư cho người xin thọ giới.

Tiếp theo, vị ni sư giáo thọ đi đến chỗ người xin thọ giới đã lánh ra lúc nãy, dạy sửa sang y phục cho tề chỉnh, quỳ gối chân phải xuống, chắp hai tay cung kính. Ni sư giáo thọ dạy rằng:

“Cô nên nghe cho rõ đây. Giờ là lúc phải chí thành, lúc phải nói lên sự thật. Nay ta hỏi cô, điều nào đúng thật, phải thưa là đúng thật, như có gì không thật, phải thưa là không thật.”

Rồi vị ni sư giáo thọ hỏi người xin thọ giới rằng:

“Cô có thật là người nữ bình thường, không có dị tật, khiếm khuyết gì hay không? Cô có mắc các chứng bệnh lâu năm hoặc mất khả năng sanh sản không? Cô có vi phạm vào pháp luật không?

“Cha mẹ cô còn sống không? Cô có chồng hay chưa?”

Nếu đáp là cha mẹ còn sống hoặc đã có chồng, lại hỏi xem cha mẹ hoặc chồng có đồng ý cho xuất gia hay không?

Ni giáo sư lại hỏi tiếp rằng:

“Cô có đủ năm tấm y và bình bát để khất thực hay không? Cô tên là gì? Hòa thượng ni đỡ đầu tên là gì?”

Người xin thọ giới phải theo từng câu hỏi mà trả lời thông suốt.

Ni sư giáo thọ hỏi xong, liền trở lại thưa trước đại chúng rằng:

“Kính bạch chư đại đức ni tăng. Đệ tử thức-xoa-ma-na tên ... ... đây, tôi đã xét hỏi xong, không có các sự ngăn ngại việc xuất gia.”

Ni sư yết-ma khi đó liền nói: “Nếu xét thấy là trong sạch, có thể cho vào đây được.”

Rồi người xin thọ giới thỉnh hòa thượng ni yết-ma, thưa trước đại chúng rằng:

“Kính bạch chư đại đức ni tăng. Đệ tử tên là ... ... theo hòa thượng ni ... ... cầu thọ cụ túc giới. Nay đệ tử xin chư đại đức ni tăng thuận cho hòa thượng ni ... ... làm hòa thượng ni yết-ma của đệ tử. Xin chúng ni tăng và hòa thượng ni... ... mở lòng thương xót ưng thuận cho.”

Thưa thỉnh như vậy ba lần. Ni sư yết-ma liền thưa trước đại chúng rằng:

“Kính bạch chư đại đức ni tăng. Đệ tử tên ... ... đây theo hòa thượng ni ... ... cầu thọ cụ túc giới. Nay lại xin với chúng ni tăng thỉnh hòa thượng yết-ma. Nếu chúng ni tăng thấy đây là lúc thích hợpưng thuận, tôi xin đối trước chúng tăng xét hỏi về các pháp ngăn ngại việc xuất gia.”

Sau đó, ni sư yết-ma ở giữa đại chúng công khai lập lại những câu hỏi mà ni giáo sư đã hỏi. Người xin thọ giới cũng như sự thậttrả lời.

Hỏi đáp xong, ni sư yết-ma thưa trước đại chúng rằng:

“Chư đại đức ni tăng, còn có điều chi chưa hỏi chăng? Nếu có điều chi chưa hỏi xin cứ hỏi. Nếu không, xin lặng yên.”

Như đại chúng không có ai lên tiếng, ni giới sư liền thưa rằng:

“Kính bạch chư đại đức ni tăng. Thức-xoa-ma-na tên... ... đây, theo hòa thượng ni ... ... cầu thọ cụ túc giới. Nay xin được chúng ni tăng thuận cho làm hòa thượng ni yết-ma. Đệ tử ... ... tự nói là trong sạch, không có điều chi khó khăn ngăn ngại việc xuất gia, tuổi đời đã đủ, y bát đầy đủ, có hòa thượng ni ... ... làm hòa thượng ni đỡ đầu. Nếu chư ni tăng thấy đây là lúc thích hợpưng thuận, xin vì đệ tử ... ... mà nhận cho làm hòa thượng ni yết-ma.”

Sau cùng, ni giới sư thưa trước đại chúng rằng:

“Kính bạch chư đại đức ni tăng. Thức-xoa-ma-na tên ... ... đây, theo hòa thượng ni ... ... xin được thọ giới cụ túc, đã xin với chúng ni tăng xin nhận các vị hòa thượng ni yết-ma, hòa thượng ni đỡ đầu, đệ tử này tự nói rằng trong sạch, không có các việc khó khăn ngăn ngại sự xuất gia, tuổi đời đã đủ, y bát đầy đủ, hòa thượng ni ... ... là hòa thượng ni yết-ma, hòa thượng ni ... ... đỡ đầu. Nếu chúng ni tăng thấy đây là lúc thích hợpưng thuận, xin lặng yên chấp nhận. Nếu có ai không ưng thuận xin tùy tiện nói ra.”

Nếu trong chúng ni tăng không có ai phản đối, nghi thứcgiáo hội tỳ-kheo ni đến đây xem như hoàn tất.

Nghi thức này được thực hiện ở tại chùa của chư ni, nhưng việc thọ cụ túc giới còn phải qua giáo hội tỳ-kheo nữa. Ngay trong ngày, người xin thọ giới phải đến chỗ của chư tăngthọ cụ túc giới.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 32587)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(Xem: 6434)
Phật Đà Thập Đại Đệ Tử Tán - Hòa thượng Tuyên Hóa giảng thuật, Nguyễn Minh Tiến Việt dịch
(Xem: 11092)
Các tác phẩm của Thầy phần lớn được dịch từ Hán tạng, gồm giới kinh và các nguồn văn học Phật giáo Đại thừa với tư tưởng uyên thâm về triết họctâm lý học.
(Xem: 30226)
Đã phát khởi chí nguyện Đại thừa, lại kiên quyết thực hiện chí nguyện ấy, đó thực sự là cung cách hùng dũng của con sư tử đang vươn mình, và do đó phải được nhìn đến bằng cung cách của con voi chúa.
(Xem: 30309)
Vua và phu nhân gởi thơ cho Thắng Man, đại lược ca ngợi công đức vô lượng của Như Lai, rồi sai kẻ nội thị tên Chiên Đề La đem thư đến nước A Du Xà... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 7883)
Tất cả các nhà đạo học và thế học muốn thành tựu kết quả tốt đẹp trong cuộc đời, thì trước hết, họ phải trải qua quá trình kham nhẫn, nỗ lực, tu, học, rèn luyện tự thân, giúp đỡ, và đem lại lợi ích cho tha nhân.
(Xem: 12034)
Bảy Đức Thế Tôn quá khứ từ Thế Tôn Tỳ Bà Thi, Thế Tôn Thích Ca, và chư Thế Tôn vị lai đều chứng ngộ Vô Thượng Bồ Đề từ sự chứng ngộ sự thật Duyên khởi.
(Xem: 12155)
Trong các bản Kinh Pháp Cú, phổ biến nhất hiện nay là Kinh Pháp Cú Nam Truyền, tức là Kinh Pháp Cú dịch theo Tạng Pali.
(Xem: 11493)
Có lần Đức Phật sống tại Rajagaha (Vương Xá) trong Khu Rừng Tre gần Nơi Nuôi Những Con Sóc. Lúc bấy giờ, vị Bà La Môn tên là Akkosa Bharadvaja đã nghe người ta đồn đãi như sau:
(Xem: 12581)
Tôi nghe như vầy. Có lần Đức Phật, trong khi đi hoằng pháp ở nước Kosala nơi có một cộng đồng rất đông Tỳ Kheo, ngài đi vào một tỉnh nhỏ nơi cư trú của người Kalama
(Xem: 34445)
Quy Sơn Cảnh Sách Học Giải - Tác Giả: Thiền Sư Quy Sơn Linh Hựu; Thích Thiện Trí (Thánh Tri) Phỏng Việt Dịch và Viết Bài Học Giải
(Xem: 9721)
Kinh này khởi đầu bằng lời người Bà La Môn hỏi rằng làm thế nào người ta có thể tự thanh tịnh hóa khi nhìn thấy một vị Thượng nhân đã Thanh tịnh,
(Xem: 52113)
Nguyên xưa ngài Quán Nguyệt Pháp sư đem hai thời kinh khóa tụng: Mai đóng chung và chiều nhập chung lại làm một đại thể làm một tập lớn. - Chú giải: Ngài Quán Nguyệt; Dịch giả: HT Thích Khánh Anh
(Xem: 10622)
Tôi nghe như vậy: Một thời, đức Thế Tôn trú tại thành phố Śrāvastī (Xá-vệ), nơi rừng cây Jeta (Kì-đà), vườn của Ông Anāthapiṇḍada (Cấp-cô-độc),
(Xem: 10383)
Bài kinh này trong đoạn cuối (bài kệ 787), câu “không nắm giữ gì, cũng không bác bỏ gì” được Thanissaro Bhikkhu ghi chú rằng ...
(Xem: 10587)
Lúc bấy giờ, Bồ tát Đại sĩ Akṣayamatir[1] từ chỗ ngồ đứng dậy, vắt thượng y[2] qua một bên vai, chắp hai tay[3] hướng về đức Thế Tôn và thưa rằng:
(Xem: 10340)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào?
(Xem: 12972)
Đại ý bài kinh này Đức Phật dạy chúng đệ tử không nên truy tìm quá khứ, không nên ước vọng tương lai vì quá khứ đã đoạn tận.
(Xem: 16074)
Evaṃ me sutaṃ, “như vầy tôi nghe”, là lời Ngài Ananda bắt đầu mỗi bài kinh mà có lẽ không Phật tử nào là không biết.
(Xem: 21644)
Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538), thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm.
(Xem: 9517)
Phật dạy giới này áp dụng chung cho tất cả các Phật tử tại gia, không phân biệt Phật tử này thuộc thành phần hay đẳng cấp xã hội nào.
(Xem: 7004)
Sa-môn Thích Đàm Cảnh dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, vào thời Tiêu-Tề (479-502). Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn, tại Canada, năm 2018.
(Xem: 10296)
Đức Phật A Di Đà tự thân có ánh sáng vô lượng, chiếu khắp cả mười phương mà không có vật gì có thể ngăn che. Vì vậy nên Phật A Di Đà có nghĩa là Vô Lượng Quang Phật.
(Xem: 12525)
Nguyên tác Hán văn: Tì-kheo Linh Diệu, tông Thiên Thai soạn - Dịch sang tiếng Việt: Thích Thọ Phước
(Xem: 12650)
Ngài Buddhaghosa sanh ra và lớn lên nước Magadha, thuộc Trung Ấn Độ, vào thế kỷ thứ V trong ngôi làng Ghosa, gần địa danh nơi đức Phật thành đạo Bodhigaya
(Xem: 16114)
Nghiên Cứu Về Kinh A Hàm (Ãgama, Sanscrist)
(Xem: 16395)
Ai nói như sau, này các Tỷ-kheo: "Người này làm nghiệp như thế nào, như thế nào, người ấy cảm thọ như vậy, như vậy".
(Xem: 13733)
Đây là những điều tôi nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Cấp Cô Độc trong vườn cây Kỳ Đà ở thành Vương Xá.
(Xem: 16406)
Vào thời Đức Thích-ca-mâu-ni, không có hệ thống chữ viết được phổ biếnẤn Độ. Do đó, những thuyết giảng của Ngài được ghi nhớ và ...
(Xem: 11953)
"Lại nữa, lúc bấy giờ Mahāmati thưa rằng: “Bạch Thế Tôn, ngài đã từng dạy rằng: từ lúc Như Lai chứng nghiệm giác ngộ cho đến...
(Xem: 13696)
Kinh Địa Tạng là một trong các kinh Đại thừa được phổ biến rộng rãi trong quần chúng Việt Nam từ hơn nửa thế kỷ nay song song với các kinh Kim Cương, Di Đà, Phổ Môn...
(Xem: 14228)
Nguyên tác: Tôn giả Thế Thân (Acarya Vasubandhu) - Hán dịch: Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng; Việt dịch: Tỳ khưu Tâm Hạnh
(Xem: 9120)
No. 1613 - Nguyên tác: Tôn giả An Huệ; Dịch Hán: Tam Tạng Pháp sư Địa-bà-ha-la; Dịch Việt: Tâm Hạnh
(Xem: 11663)
Duy thức nhị thập luận, do bồ tát Thế Thân soạn, ngài Huyền trang dịch vào đời Đường... được thu vào Đại chính tạng, tập 31, No.1590.
(Xem: 11187)
Bồ-tát Trần Na tạo luận. Tam tạng Pháp sư Huyền Trang phụng chiếu dịch. Việt dịch: Quảng Minh
(Xem: 16126)
Nghe như vầy, một thời Đức Phật ở nước Xá Vệ ở vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc cùng chúng đại Tỳ Kheo năm trăm vị. Bấy giờ các thầy Tỳ Kheo...
(Xem: 14259)
No. 699; Hán dịch: Đời Đại Đường, Trung Thiên Trúc, Tam tạng Pháp sư Địa bà ha la, Đường dịch là Nhật Chiếu
(Xem: 16104)
Đức Phật Thích-Ca Mưu-Ni, bắt đầu chuyển pháp-luân, độ cho năm vị Tỳ-Khưu là Tôn-giả Kiều-Trần-Như v.v... Sau cùng, Ngài thuyết pháp độ cho ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 12615)
Kinh Phạm Võng nằm trong Đại Chánh Tạng, tập 24, ký hiệu 1484, gọi đủ là Phạm võng kinh Lô xá na Phật thuyết bồ tát tâm địa giới phẩm đệ thập
(Xem: 11942)
Phật thuyết-giảng Kinh Phạm-Võng để dạy về giới-luật, và các pháp cao-siêu vượt thoát được sáu mươi hai kiến-chấp vốn là các tà-kiến đã...
(Xem: 11683)
Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi, tại Jetavana, vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Độc). Ở đây,,,
(Xem: 15548)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434; Dịch Phạn - Hán: Tam Tạng Cát-ca-dạ, Dịch Hán - Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ; Hiệu đính: HT Thích Như Điển
(Xem: 11405)
Đời Đường, Thận Thủy Sa Môn Huyền Giác Soạn; Thánh Tri dịch nghĩa Việt và viết bài học giải...
(Xem: 13927)
Phật giáo được khai sáng ở Ấn-độ vào năm 589 trước kỉ nguyên tây lịch (năm đức Thích Ca Mâu Ni thành đạo), và đã tồn tại liên tục, phát triển không ngừng trên ...
(Xem: 11908)
Trong truyền thống Phật giáo Bắc truyền, Dược Sư là một bản kinh thường được trì tụng nhằm mục đích giải trừ tật bệnh, cầu nguyện bình an...
(Xem: 12512)
Thích-ca là phiên âm của tiếng Phạn. Phiên âm Hán Việt là Năng Nhân. Tức là họ của đấng hóa Phật ở cõi Ta-bà...
(Xem: 14857)
Kinh chuyển Pháp luân là bài thuyết Pháp đầu tiên của Đức Phật Thích-ca sau khi Ngài đã đắc đạo.
(Xem: 11879)
Ba Ngàn Oai Nghi Của Vị Đại Tỳ Kheo - Được xếp vào tập T24 - Kinh số 1470 - Tổng cộng kinh này có 2 quyển
(Xem: 13024)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 14382)
Satipatthana Sutta là một bản kinh quan trọng làm nền tảng cho một phép thiền định chủ yếu trong Phật giáo là Vipassana...
(Xem: 20534)
Kinh Tứ Thập Nhị Chương là một bài Kinh được truyền bá khá rộng rải ở các Tồng Lâm Tự Viện của Trung QuốcViệt Nam từ xưa đến nay.
(Xem: 13102)
Bản dịch này được trích ra từ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh Vol. 48, No. 2010. Bởi vì lời dạy của Tổ Tăng Xán quá sâu sắc, súc tích, và bao hàm trong 584 chữ Hán,
(Xem: 10854)
Dịch từ Phạn sang Tạng: Kluḥi dbaṅ-po, Lhaḥi zla-ba; Dịch Tạng sang Việt: Phước Nguyên
(Xem: 20562)
Trí Phật là trí Kim – cang, Thân Phật là thân Kim – Sắc, cõi Phật là cõi Hoàng – kim, lời Phật tất nhiên là lời vàng.
(Xem: 14230)
Bấy giờ Hòa Thượng Vakkali nhìn thấy Đức Phật đang đi đến từ xa, và ông đã cố gắng ngồi dậy.
(Xem: 20152)
Xin dâng hết lên Tam Bảo chứng minh và xin Quý Ngài cũng như Quý Vị tùy nghi xử dụng in ấn tiếp tục hay trì tụng cũng như cho dịch ra những ngôn ngữ khác...
(Xem: 17464)
Niệm Phật Tâm Muội do HT Hư Vân soạn, Sa môn Hiển Chơn dịch; Tọa Thiền Dụng Tâm Ký do Viên Minh Quốc Sư soạn, HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 13854)
Khi Bồ-tát Quán Tự Tại hành sâu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, ngài soi thấy năm uẩn đều KHÔNG, liền qua hết thảy khổ ách.
(Xem: 31739)
Viết ra các bài Phật học thường thức này, chúng tôi không có tham vọng giới thiệu toàn bộ Phật pháp và chỉ cốt giúp cho các bạn sơ cơ hiểu được một cách đúng đắn, đạo lý năm thừa trong Phật giáo mà thôi.
(Xem: 11906)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, Kinh văn số 1675. Tác giả: Long Thọ Bồ Tát; Sa Môn Sắc Tử dịch Phạn sang Hán; HT Thích Như Điển dịch Việt
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant