Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Chương II: Nguyên Tắc Tu Đạo Với Giới Định Tuệ

01 Tháng Mười 201000:00(Xem: 12906)
Chương II: Nguyên Tắc Tu Đạo Với Giới Định Tuệ


Chương II: Nguyên Tắc Tu Đạo Với Giới Định Tuệ

1- QUAN HỆ GIỮA TU ĐẠOTAM HỌC.

Về đức mục tu đạo, tuy có nhiều, nhưng chủ yếu thì không ngoài Tam học giới, định, tuệ. Từ đây, tôi tưởng nên trình bày qua về Tam học (nhưng, về giới, đặc biệt về luật, đã nói trong thiên trước rồi, nên ở đây không đề cập đến nữa). Trước hết hãy nhận xét về tổng thể của Tam học. Sự quan hệ giữa nguyên tắc căn bản của Tu đạo luận như thế nào? Tôi tưởng phải thuyết minh cái quan hệ tất nhiên bất ly giữa Tu đạoTam học. Tam học của Phật giáo không phải chỉ là chia làm ba để tiện cho phương pháp tu dưỡng, nhưng trong đó giáo lý căn bản và tổ chức nhân sinh có sự liên quan mật thiết.

Theo Phật giáo, sự sinh hoạt của chúng ta lấy dục làm cơ sở để thành lập, ngã chấp, ngã dục là nền tảng của sự sinh tồn. Như đã nói nhiều lần, trong cái căn bản của ngã chấp, ngã dục ấy có yêu cầu sinh mệnh vô hạn mà, như đã trình bày qua, tuy được gọi là tâm tính bản tịnh, nhưng về phương diện một hiện tượng thì sự sinh hoạt của chúng ta do vô minhái dục chi phối; đó là quan điểm nhất ban của Phật giáo. Như trước đã nói, người ta có nghiệp tập từ vô thủy, tự nhiên phải theo hạn định dự trước, người ta tuy sống nhưng được quy định bởi tính tích hay cảnh ngộ mà trong đó đặc trưng của sinh mệnh không thể không phát hiện hoạt động tự phát được. Cái lý do tại sao Phật giáo cho thế giới này là khổ là do sự sợ hãi tự nhiên về khổ khổ, hoại khổhành khổ như trên kia đã nói, tuy ở lực chi phối nhưng trong đó đã mang đầy đủ nghiệp tập tự nhiên ràng buộc mất tự do (đại khái được gọi là hành khổ), phương pháp để giải thoát khỏi sự ràng buộc tự nhiên từ cả bên trong lẫn cả bên ngoài ấy mà đạt đến tự do chân chính, ta không thể tìm kiếm ở bên ngoài mà phải tâm cầu bên trong, nếu nói một cách đơn giản thì đó là sự cải tạo tinh thần của ta, đây không những là con đường giải thoát duy nhất; mà là con đường tắt tất nhiên: có thể nói, đó là chú ý nhất quán của Phật giáo. Theo Phật giáo thì sức ép thiên nhiên có thể được cải tạo, nhưng phải rất từ từ chứ không gấp rút được. Trái lại, tâm người ta, trên thực tế, thật vô cùng khó khăn nếu không có một ý chí kiên quyếtcố gắng không ngừng thì không thể nào cải tạo được nó một cách triệt để. Đây chính là lý do tại sao Phật giáo, nhận xét về phương diện giá trị, chủ trương thế giới là sản phẩm của tâm, bất luận mê hay ngộ, tất cả đều do nơi tâm. Về điểm này, xin trích mấy câu kinh văn để chứng minh:

Xe do các nghiệp mà khởi, tâm thức quay với xe, theo nhân mà chuyển đến, hễ nhân hoại thì sẽ diệt – Tạp-a-hàm, Kinh 49 (Đại chính, 2, trang 356, cột dưới).

Tâm mang thế gian đi, tân dẫn thế gian đến, chỉ có tâm là thể chế ngự được thế gian – Tạp-a-hàm, Kinh 36 (Đại chính, 2, trang 264, thượng).

Tâm là căn bản, tâm sai tâm khiến, trong tâm nghĩ ác thì tức làm ác, tội khổ đuổi theo cũng như bánh xe quay theo trục xe. Tâm là căn bản, tâm sai tâm khiến, trong tâm nghĩ thiện thì tức tâm thiện, hạnh phúc đi theo cũng như bóng theo hình – Xá-lợi-phất-a-tỳ-đàm luận, quyển 15 (Đại chính, 28, trang 628, trung).

2- TUỆ HỌC.

Đến đây, vấn đề được nêu lên là: làm thế nào để cải tạo tâm một cách triệt để? Ở đây, phát sinh tác dụngtam học Giới, Định, Tuệ.

Để cải tạo tâm, trước hết không thể không biết rõ sự thự hiện tại. Nói một cách khác, đồng thời với cảm giác thống khổ mất tự do, phải thức tỉnh tinh thần mong cầu lý tưởng vĩnh viễn bất động. Phật giáo nói đến như thực tri kiếnbát nhã rốt ráo không ngoài ý nghĩa đó. Phật giáo sở dĩ được coi là một tôn giáo trọng trí tuệ nhất trong các tôn giáo là vì Phật giáo lấy sự tự giác chân chính làm trọng yếu. Bởi thế, mà trí tuệ kể là một trong Tam học. Song, có điều quan trọng là chúng ta đừng lầm lẫn trí tuệ ở đây với trí thức do học vấn. Phật giáo, đặc biệt đến A-tỳ-đạt-ma, như đã trình bày ở trên, tuy rất giàu thuyết minh tri thức học vấn, nhưng đó thật ra chỉ là phương tiện để đạt đến trí chứ không có một nhiệm vụ tất nhiên nào cả. Trí tuệ của Phật giáo có nghĩa là trí phán đoán cuộc đờivô giá trị, đầu đau khổ, và tin chắc chắn vào giá trị của giải thoát Niết bàn: đó là điều chúng ta cần ghi nhận (về sau, kinh Bát nhã lấy không làm đối tượng của trí tuệ chính cũng từ đây mà ra). Theo ý nghĩa ấy, Phật giáo trên đại thể, có thể nói bao hàm khuynh hướng chủ trí chủ nghĩahợp lý chủ nghĩa. Nhưng, nếu cho Phật giáochủ nghĩa hợp lý, và chủ nghĩa chủ trí thì lại là một sai lầm lớn, bởi lẽ, trong trí tuệ của Phật giáo còn bao hàm cả phán đoán tình ý, cho nên, trọng trí tuệ mà không bỏ qua tình tình ý.

3- BA TUỆ VĂN, TƯ, TU.

Song, làm thế nào để nuôi thành trí tuệ đó? Theo Phật giáo, trí tuệ có nhiều giai đoạn, phải dần dần và theo thứ tự mà tiến sâu vào. đầu tiên phát tâm cũng do trí tuệcuối cùng được giải thoát cũng lại do trí tuệ. Về điểm này tôi xin nói sau, ở đây, hiện đang bàn về vấn đề tu dưỡng, và trên đại cương, có thể chia tuệ làm ba giai đoạn, tức là ba tuệ văn, tư, tu. Trong luận Thành Thật, quyển 16, phẩm Tam tuệ 194, lấy nó làm một đề mục độc lập để luân cứu; trong Câu xá, quyển 22, thì nó làm phương tiện để vào kiến đạo. Đương nhiên, đây chưa hẳn đã là cách phân loại đặc hữu của Phật giáo. Trong kinh Du Già (Yogasutra I, 48), cũng nói “Do thánh giáo lượng, tỷ lượng và nhiệt liệt tu tập thiền định, do ba thứ đó mà hành giả được trí tuệ, được vô thượng Du già”. Cứ theo chú giải của Vi Da Xá thì câu đó vì là truyền thuyết được dẫn dụng cho nên được thừa nhậnphương pháp đạt đến trí tuệ cần thiết cho tất cả hạng người tu hành, nhưng trong Phật giáo, sự phân loại này, ít ra cũng có một ý nghĩa rất trọng yếu.

Tựu trung, cái gọi là văn tuệ, như Thành-thật-luận nói, chỉ là cho trí tuệ phát sinh các Tu Đa La. Nếu nói một cách đơn giản thì đó là trí tuệ do nghe mà hiểu được nghĩa lý của điều mình nghe mà có. Trong tất cả trí tuệ, đây tuy là nông cạn nhất, nhưng, về phương diện tu dưỡng nhập môn trong Phật giáo, sự xuất hiện của nó được coi là rất trọng yếu. Vì văn tuệ ở đây không phải hàm ý tất cả học vấn thuộc về tai, nhưng tất phải là văn tuệ của Phật giáo. Theo ý nghĩa ấy, Thành-thật-luận trích lời trong kinh nói: “nghe các kinh điển của Vi Đà của thế tục vì không thể sinh trí tuệ vô lậu nên không thể gọi là văn tuệ” (Tam tuệ phẩm 194). Đệ tử của Phật được xưng là Thanh văn rốt cục cũng không ngoài ý nghĩa đó. Bởi vậy, ta có thể giải thích văn tuệ trong Phật giáo đã bao hàm ý thức tín ngưỡng Tam bảo, tức niềm tin vững chắc cho rằng duy chỉ có Phật, Pháp, Tăng là điểm tựa chân chính cho việc cầu giải thoát. Do đó, nếu đứng về phương diện tiêu cực mà nói, ngoài Phật giáo ra, tất cả kinh điển, chế đagiáo pháp khác, trên căn bản, không có sức cải tạo con người. Trên thực tế, so với các nơi Đại thừa Phật giáo thịnh hành, tại những xứ mà Thanh văn thừa (Tiểu thừa) được truyền bá, người ta thấy rất ít yếu tố khác xâm nhập Phật giáo, và nền Phật giáo tại các nơi đó được bảo trì một cách thuần tịnh, có thể nói, cũng nhờ ở ý thức tín ngưỡng trên. Đối với ý nghĩagiá trị của văn tuệ, chúng ta cần phải đặc biệt chú ý. Tóm lại, nếu muốn từ Phật giáo để rút ra một sự phán đoán chính xác về đời người, thì điều kiện tiên quyết là phải hiểu rõ nghĩa lý trong các giáo phái được ghi chép trong kinh điển hay trực tiếp nghe Phật dạy.

Nghe chính pháp mà hiểu một cách chính xác và nếu chỉ ghi nhớ trong đầu óc không thôi thì rốt cục nó cũng chỉ là tri thức, không giúp ích cho tâm linh con người. Muốn cải tâm tất phải sinh hoạt hóa chính pháp, tức là phải sống theo chính pháp. Mà cái phương pháp sinh hoạt hóa chính pháp được đưa ra là hai loại tu tuệ và tư tuệ tiếp sau văn tuệ. Tư tuệ có nghĩa là nghiền ngẫm những điều mình đã được nghe để xác định nghĩa lý của nó. Bà sa, quyển 42 (Đại chính, 27, trang 217, trung), nói: văn tuệ chủ yếu là nơi câu văn, tư tuệ tuy cũng do văn nhưng lại đặt nặng ở nghĩa (tham chiếu Câu xá, quyển 22). Lại tiến lên bước nữa, bỏ văn theo nghĩa mà sự quy định sinh hoạt nội tâm của người ta là tu tuệ, mà trên phương diện pháp tướng của A-tỳ-đạt-ma, chủ yếu là do thiền định mới có thể đạt được. Đến tu tuệ thì trí tuệ mới triệt để đến tâm linh, bởi thế, cái cực trí của tu tuệ là tâm giải thoát[1] (nghĩa là thoát dục), tuệ giải thoát (nghĩa là thoát vô minh), cuối cùng trở thành đại tự giác tận trívô sinh trí.

4- ĐỊNH HỌC.

Muốn đưa tu tuệ tiếp tục tiến lên, thì không phải chỉ dựa vào sự hoạt động cân não hay tác dụng quan niệm là đủ, mà thật ra, phải đợi đến năng lực thiền địnhthực hành mới có thể tiến lên được. Trong việc sinh hoạt hóa tư tưởng, mà tư tưởng lại phải do hành vi để tiến tới cụ thể hóa. Như vậy là ở đây, cuối cùng phải có công phu dung hóa tư tưởngcông phu làm cho hành vi đi đến cụ thể hóa. Cái phương pháp dung hòa tư tưởngthiền định, còn quy định hành quy để đi đến cụ thể hóagiới luật. Tựu trung, thiền định như sẽ trình bày sau, về phương diện tiêu cực thâm cảm sự tồn tạivô giá trị, ức chế ngã chấp, ngã dục; còn về phương diện tích cực thì lấy sự tự do giải phóng sinh hoạt tinh thần làm tổ chức. Theo đồ thức ấy, một mặt ức chế cảm giác, mặt khác nhờ sức tập trung tinh thần để cải tạo sự sinh hoạt của người ta. Có thể nói, phương pháp này là căn bản trong tất cả phương pháphành đạo của Phật giáo và thông cả Đại, Tiểu thừa, không miột giáo lý nào trong Phật giáo được thành lập ngoài thiền. Nhất là Tiểu thừa giáo, vì xấy dựng trên cái gọi là tự lực chủ nghĩa, nên, nếu rời xa thiền thì tất cả chỉ còn một lý luân suông. Theo ý nghĩa ấy, tôi cho rằng, nếu rời xa thiền thì không có tuệ là tất nhiên, nhưng đồng thời cũng không có giới nữa.

5- GIỚI HỌC.

Như vậy thì giới hạnh chẳng qua chỉ là sản phẩm phụ thuộc của thiền thôi sao? Không phải thế. Vì đứng ở một phương diện mà nói, nếu xa lìa tuệ và thiền thì giới hạnh chỉ là hình thức, nhưng đứng ở phương diện khác mà nói, nếu không thực hành giới hạnh thì tuệ và thiền không thể được hoàn thành; đồng thời nhờ thực hành giới hạnh mà tuệ và thiền mới trở nên thuần chân, bởi thế, giới hạnh quyết không thể được coi nhẹ hơn tuệ và thiền. Không những thế, nếu khảo sát xa hơn chút nữa, thì tuệ và thiền không khỏi có tính cách cá nhân, còn giới hạnh, bất luận theo ý nghĩa nào đều có tính xã hội, vì mỗi cử động của người giữ giớiảnh hưởng rất lớn đối với xã hội, về quan hệ, ít ra là về mặt thực tế, nói theo một ý nghĩa nào đó, giới hạnh, so với thiền, tuệ, có ý nghĩa rất trọng yếu, đây là điểm chúng ta cần ghi nhận. Cái lý do tại sao Phật giáo đồ nguyên thủy tuy coi coi trọng thiền, tuệ, nhưng cũng nhiệt liệt thảo luận về giới luật chính là ở đó. Theo ý nghĩa ấy thì tuệ và thiền cần phải có giới mới được hoàn thành, nếu xa rời giới hạnh thì thiền và tuệ không thể coi là hoàn toàn.

6- SỰ QUAN HỆ HỖ TƯƠNG GIỮA TAM HỌC.

Tam học giới, định, tuệ, về mặt biểu diện, tuy thuộc những phạm trù khác nhau, nhưng về phương diện căn bản cải tạo sự sinh hoạt của người ta, thì chúng có quan hệ rất mật thiết, hay có thể nói, là quan hệ nhân duyên mà các bậc cổ đức thường ví như chiếc đỉnh ba chân, thiếu một chân không đứng được. Tức là, muốn hoàn thành tuệ tất phải dự tưởng thiền và giới hạnh; cũng thế, muốn cho giới được hoàn thành tuệ tất phải dự tưởng thiền và tuệ, nếu không, sẽ chẳng thể nào đạt đến giải thoát hoàn toàn. Đây không phải chỉ là chủ trương của Phật giáo chính thống mà ngay đến Phật giáo bộ phái cũng không có gì thay đổi. Đương nhiên, cứ theo văn tựnhận xét Tam học thì đó là phương châm lý tưởng để tu đạo, thể hiện tam vị nhất thể, nhưng, trên thực tế, từ thời đại Phật giáo nguyên thủy đã do ý kiến nhiều người mà có ít nhiều điểm bất đồng. Cũng vì thế mà đã sản sinh ra khuynh hướng các nhà chuyên môn (như Tu Bồ Đề[2] chuyên ở trong núi. Ưu Ba Li là nhà chuyên về luật, và A Nan thì chuyên về thiền định v.v…). Nhất là thời đại bộ phái[3] thì khuynh hướng ấy lại càng rõ rệt, rồi đến Trung Quốc, Nhật Bản thì cuối cùng đã chia thành Luật tôn, Thiền tôn, Học vấn tôn (Giáo tôn) v.v… tuy có lập ra phái, nhưng đến Phật giáo bộ phái thì, tóm lại, lấy Tam học làm nhất thể mà hướng tời tu đạo, đó là nghĩa căn bản mà ta không thể bỏ qua.


[1] Về ý nghĩa tâm giải thoáttrí tuệ giải thoát, có thể tham chiếu Visuddhimagga, “Dùng định để ngăn phiền não nên gọi là tâm giảithoát” (Thành-thật-luận, quyển 44, thiện giác phẩm 182).

[2] Tăng nhất a hàm,quyển 2 (Đại chính, 2, trang 557) – A. I,p. 24 – 26, có đưa ra cả Tỷ khưu, Tỷ khưu ni, Tín nam, Tín nữ.

[3] theo Bộ chấp dị luận thì như Khôi sơn trụ bộ (Kê dân bộ, Ngưu gia bộ) lấy luật làm phương tiện, nghiên hẳn về thiền, đó là một thí dụ. Lại nữa, về giá trị tu đạo của giới, định, tuệ thì trong visuddhimagga Chapt, I, p. nói: “Do giới mà vượt ác thú, do định mà siêu Dục giới, do tuệ mà vượt “Tam giới”.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 32565)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(Xem: 6434)
Phật Đà Thập Đại Đệ Tử Tán - Hòa thượng Tuyên Hóa giảng thuật, Nguyễn Minh Tiến Việt dịch
(Xem: 11091)
Các tác phẩm của Thầy phần lớn được dịch từ Hán tạng, gồm giới kinh và các nguồn văn học Phật giáo Đại thừa với tư tưởng uyên thâm về triết họctâm lý học.
(Xem: 30224)
Đã phát khởi chí nguyện Đại thừa, lại kiên quyết thực hiện chí nguyện ấy, đó thực sự là cung cách hùng dũng của con sư tử đang vươn mình, và do đó phải được nhìn đến bằng cung cách của con voi chúa.
(Xem: 30308)
Vua và phu nhân gởi thơ cho Thắng Man, đại lược ca ngợi công đức vô lượng của Như Lai, rồi sai kẻ nội thị tên Chiên Đề La đem thư đến nước A Du Xà... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 7883)
Tất cả các nhà đạo học và thế học muốn thành tựu kết quả tốt đẹp trong cuộc đời, thì trước hết, họ phải trải qua quá trình kham nhẫn, nỗ lực, tu, học, rèn luyện tự thân, giúp đỡ, và đem lại lợi ích cho tha nhân.
(Xem: 12029)
Bảy Đức Thế Tôn quá khứ từ Thế Tôn Tỳ Bà Thi, Thế Tôn Thích Ca, và chư Thế Tôn vị lai đều chứng ngộ Vô Thượng Bồ Đề từ sự chứng ngộ sự thật Duyên khởi.
(Xem: 12154)
Trong các bản Kinh Pháp Cú, phổ biến nhất hiện nay là Kinh Pháp Cú Nam Truyền, tức là Kinh Pháp Cú dịch theo Tạng Pali.
(Xem: 11492)
Có lần Đức Phật sống tại Rajagaha (Vương Xá) trong Khu Rừng Tre gần Nơi Nuôi Những Con Sóc. Lúc bấy giờ, vị Bà La Môn tên là Akkosa Bharadvaja đã nghe người ta đồn đãi như sau:
(Xem: 12568)
Tôi nghe như vầy. Có lần Đức Phật, trong khi đi hoằng pháp ở nước Kosala nơi có một cộng đồng rất đông Tỳ Kheo, ngài đi vào một tỉnh nhỏ nơi cư trú của người Kalama
(Xem: 34440)
Quy Sơn Cảnh Sách Học Giải - Tác Giả: Thiền Sư Quy Sơn Linh Hựu; Thích Thiện Trí (Thánh Tri) Phỏng Việt Dịch và Viết Bài Học Giải
(Xem: 9720)
Kinh này khởi đầu bằng lời người Bà La Môn hỏi rằng làm thế nào người ta có thể tự thanh tịnh hóa khi nhìn thấy một vị Thượng nhân đã Thanh tịnh,
(Xem: 52110)
Nguyên xưa ngài Quán Nguyệt Pháp sư đem hai thời kinh khóa tụng: Mai đóng chung và chiều nhập chung lại làm một đại thể làm một tập lớn. - Chú giải: Ngài Quán Nguyệt; Dịch giả: HT Thích Khánh Anh
(Xem: 10620)
Tôi nghe như vậy: Một thời, đức Thế Tôn trú tại thành phố Śrāvastī (Xá-vệ), nơi rừng cây Jeta (Kì-đà), vườn của Ông Anāthapiṇḍada (Cấp-cô-độc),
(Xem: 10381)
Bài kinh này trong đoạn cuối (bài kệ 787), câu “không nắm giữ gì, cũng không bác bỏ gì” được Thanissaro Bhikkhu ghi chú rằng ...
(Xem: 10584)
Lúc bấy giờ, Bồ tát Đại sĩ Akṣayamatir[1] từ chỗ ngồ đứng dậy, vắt thượng y[2] qua một bên vai, chắp hai tay[3] hướng về đức Thế Tôn và thưa rằng:
(Xem: 10338)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào?
(Xem: 12970)
Đại ý bài kinh này Đức Phật dạy chúng đệ tử không nên truy tìm quá khứ, không nên ước vọng tương lai vì quá khứ đã đoạn tận.
(Xem: 16074)
Evaṃ me sutaṃ, “như vầy tôi nghe”, là lời Ngài Ananda bắt đầu mỗi bài kinh mà có lẽ không Phật tử nào là không biết.
(Xem: 21641)
Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538), thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm.
(Xem: 9516)
Phật dạy giới này áp dụng chung cho tất cả các Phật tử tại gia, không phân biệt Phật tử này thuộc thành phần hay đẳng cấp xã hội nào.
(Xem: 7003)
Sa-môn Thích Đàm Cảnh dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, vào thời Tiêu-Tề (479-502). Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn, tại Canada, năm 2018.
(Xem: 10295)
Đức Phật A Di Đà tự thân có ánh sáng vô lượng, chiếu khắp cả mười phương mà không có vật gì có thể ngăn che. Vì vậy nên Phật A Di Đà có nghĩa là Vô Lượng Quang Phật.
(Xem: 12517)
Nguyên tác Hán văn: Tì-kheo Linh Diệu, tông Thiên Thai soạn - Dịch sang tiếng Việt: Thích Thọ Phước
(Xem: 12647)
Ngài Buddhaghosa sanh ra và lớn lên nước Magadha, thuộc Trung Ấn Độ, vào thế kỷ thứ V trong ngôi làng Ghosa, gần địa danh nơi đức Phật thành đạo Bodhigaya
(Xem: 16111)
Nghiên Cứu Về Kinh A Hàm (Ãgama, Sanscrist)
(Xem: 16393)
Ai nói như sau, này các Tỷ-kheo: "Người này làm nghiệp như thế nào, như thế nào, người ấy cảm thọ như vậy, như vậy".
(Xem: 13731)
Đây là những điều tôi nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Cấp Cô Độc trong vườn cây Kỳ Đà ở thành Vương Xá.
(Xem: 16403)
Vào thời Đức Thích-ca-mâu-ni, không có hệ thống chữ viết được phổ biếnẤn Độ. Do đó, những thuyết giảng của Ngài được ghi nhớ và ...
(Xem: 11953)
"Lại nữa, lúc bấy giờ Mahāmati thưa rằng: “Bạch Thế Tôn, ngài đã từng dạy rằng: từ lúc Như Lai chứng nghiệm giác ngộ cho đến...
(Xem: 13693)
Kinh Địa Tạng là một trong các kinh Đại thừa được phổ biến rộng rãi trong quần chúng Việt Nam từ hơn nửa thế kỷ nay song song với các kinh Kim Cương, Di Đà, Phổ Môn...
(Xem: 14227)
Nguyên tác: Tôn giả Thế Thân (Acarya Vasubandhu) - Hán dịch: Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng; Việt dịch: Tỳ khưu Tâm Hạnh
(Xem: 9116)
No. 1613 - Nguyên tác: Tôn giả An Huệ; Dịch Hán: Tam Tạng Pháp sư Địa-bà-ha-la; Dịch Việt: Tâm Hạnh
(Xem: 11663)
Duy thức nhị thập luận, do bồ tát Thế Thân soạn, ngài Huyền trang dịch vào đời Đường... được thu vào Đại chính tạng, tập 31, No.1590.
(Xem: 11185)
Bồ-tát Trần Na tạo luận. Tam tạng Pháp sư Huyền Trang phụng chiếu dịch. Việt dịch: Quảng Minh
(Xem: 16125)
Nghe như vầy, một thời Đức Phật ở nước Xá Vệ ở vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc cùng chúng đại Tỳ Kheo năm trăm vị. Bấy giờ các thầy Tỳ Kheo...
(Xem: 14258)
No. 699; Hán dịch: Đời Đại Đường, Trung Thiên Trúc, Tam tạng Pháp sư Địa bà ha la, Đường dịch là Nhật Chiếu
(Xem: 16102)
Đức Phật Thích-Ca Mưu-Ni, bắt đầu chuyển pháp-luân, độ cho năm vị Tỳ-Khưu là Tôn-giả Kiều-Trần-Như v.v... Sau cùng, Ngài thuyết pháp độ cho ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 12611)
Kinh Phạm Võng nằm trong Đại Chánh Tạng, tập 24, ký hiệu 1484, gọi đủ là Phạm võng kinh Lô xá na Phật thuyết bồ tát tâm địa giới phẩm đệ thập
(Xem: 11934)
Phật thuyết-giảng Kinh Phạm-Võng để dạy về giới-luật, và các pháp cao-siêu vượt thoát được sáu mươi hai kiến-chấp vốn là các tà-kiến đã...
(Xem: 11683)
Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi, tại Jetavana, vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Độc). Ở đây,,,
(Xem: 15546)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434; Dịch Phạn - Hán: Tam Tạng Cát-ca-dạ, Dịch Hán - Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ; Hiệu đính: HT Thích Như Điển
(Xem: 11401)
Đời Đường, Thận Thủy Sa Môn Huyền Giác Soạn; Thánh Tri dịch nghĩa Việt và viết bài học giải...
(Xem: 13926)
Phật giáo được khai sáng ở Ấn-độ vào năm 589 trước kỉ nguyên tây lịch (năm đức Thích Ca Mâu Ni thành đạo), và đã tồn tại liên tục, phát triển không ngừng trên ...
(Xem: 11907)
Trong truyền thống Phật giáo Bắc truyền, Dược Sư là một bản kinh thường được trì tụng nhằm mục đích giải trừ tật bệnh, cầu nguyện bình an...
(Xem: 12510)
Thích-ca là phiên âm của tiếng Phạn. Phiên âm Hán Việt là Năng Nhân. Tức là họ của đấng hóa Phật ở cõi Ta-bà...
(Xem: 14853)
Kinh chuyển Pháp luân là bài thuyết Pháp đầu tiên của Đức Phật Thích-ca sau khi Ngài đã đắc đạo.
(Xem: 11878)
Ba Ngàn Oai Nghi Của Vị Đại Tỳ Kheo - Được xếp vào tập T24 - Kinh số 1470 - Tổng cộng kinh này có 2 quyển
(Xem: 13022)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 14381)
Satipatthana Sutta là một bản kinh quan trọng làm nền tảng cho một phép thiền định chủ yếu trong Phật giáo là Vipassana...
(Xem: 20530)
Kinh Tứ Thập Nhị Chương là một bài Kinh được truyền bá khá rộng rải ở các Tồng Lâm Tự Viện của Trung QuốcViệt Nam từ xưa đến nay.
(Xem: 13099)
Bản dịch này được trích ra từ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh Vol. 48, No. 2010. Bởi vì lời dạy của Tổ Tăng Xán quá sâu sắc, súc tích, và bao hàm trong 584 chữ Hán,
(Xem: 10852)
Dịch từ Phạn sang Tạng: Kluḥi dbaṅ-po, Lhaḥi zla-ba; Dịch Tạng sang Việt: Phước Nguyên
(Xem: 20561)
Trí Phật là trí Kim – cang, Thân Phật là thân Kim – Sắc, cõi Phật là cõi Hoàng – kim, lời Phật tất nhiên là lời vàng.
(Xem: 14227)
Bấy giờ Hòa Thượng Vakkali nhìn thấy Đức Phật đang đi đến từ xa, và ông đã cố gắng ngồi dậy.
(Xem: 20149)
Xin dâng hết lên Tam Bảo chứng minh và xin Quý Ngài cũng như Quý Vị tùy nghi xử dụng in ấn tiếp tục hay trì tụng cũng như cho dịch ra những ngôn ngữ khác...
(Xem: 17462)
Niệm Phật Tâm Muội do HT Hư Vân soạn, Sa môn Hiển Chơn dịch; Tọa Thiền Dụng Tâm Ký do Viên Minh Quốc Sư soạn, HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 13849)
Khi Bồ-tát Quán Tự Tại hành sâu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, ngài soi thấy năm uẩn đều KHÔNG, liền qua hết thảy khổ ách.
(Xem: 31738)
Viết ra các bài Phật học thường thức này, chúng tôi không có tham vọng giới thiệu toàn bộ Phật pháp và chỉ cốt giúp cho các bạn sơ cơ hiểu được một cách đúng đắn, đạo lý năm thừa trong Phật giáo mà thôi.
(Xem: 11904)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, Kinh văn số 1675. Tác giả: Long Thọ Bồ Tát; Sa Môn Sắc Tử dịch Phạn sang Hán; HT Thích Như Điển dịch Việt
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant