Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

2. Phật quốc phẩm - Đệ nhất

03 Tháng Ba 201100:00(Xem: 8574)
2. Phật quốc phẩm - Đệ nhất

KINH DUY-MA-CẬT (Hán-Việt)
Đoàn Trung Còn - Nguyễn Minh Tiến dịch và chú giải

DUY-MA-CẬT SỞ THUYẾT KINH
QUYỂN THƯỢNG

Phật quốc phẩm - Đệ nhất

 

卷 上

佛 國 品
第 一

如是我聞。
一時佛在毘耶離菴羅樹園。與大比丘衆八千人俱。菩薩三萬二千衆所知識。大智本行皆悉成就。諸佛威神之所建立。為護法城受持正法。能師子吼名聞十方。衆人不 請友而安之。紹隆三寶能使不絕。降伏魔怨制諸外道。悉已清淨永離蓋纏。心常安住無礙解脫。念定總持辯才不斷。布施持戒忍辱精進禪定智慧。及方便力無不具 足。逮無所得不起法忍。已能隨順轉不退輪。善解法相知衆生根。蓋諸大衆得無所畏。功德智慧以修其心。
相好嚴身色像第一。捨諸世間所有飾好。名稱高遠踰於須彌。深信堅固猶若金剛。法寶普照而雨甘露。於衆言音微妙第一。深入緣起斷諸邪見。有無二邊無復餘習。 演法無畏猶師子吼。其所講說乃如雷震。無有量已過量。集衆法寶如海導師。了達諸法深妙之義。善知衆生往來所趣及心所行。近無等等佛自在慧十力無畏十八不 共。關閉一切諸惡趣門。而生五道以現其身。為大醫王善療衆病。應病與藥令得服行。無量功德皆成就。無量佛土皆嚴淨。其見聞者無不蒙益。諸有所作亦不唐捐。 如是一切功德皆悉具足。
其名曰等觀菩薩。不等觀菩薩。等不等觀菩薩。定自在王菩薩。法自在王菩薩。法相菩薩。光相菩薩。光嚴菩薩。大嚴菩薩。寶積菩薩。辯積菩薩。寶手菩薩。寶印 手菩薩。常舉手菩薩。常下手菩薩。常慘菩薩。喜根菩薩。喜王菩薩。辯音菩薩。虛空藏菩薩。執寶炬菩薩。寶勇菩薩。寶見菩薩。帝網菩薩。明網菩薩。無緣觀菩 薩。慧積菩薩。寶勝菩薩。天王菩薩。壞魔菩薩。電德菩薩。自在王菩薩。功德相嚴菩薩。師子吼菩薩。雷音菩薩。山相擊音菩薩。香象菩薩。白香象菩薩。常精進 菩薩。不休息菩薩。妙生菩薩。華嚴菩薩。觀世音菩薩。得大勢菩薩。梵網菩薩。寶杖菩薩。無勝菩薩。嚴土菩薩。金髻菩薩。珠髻菩薩。彌勒菩薩。文殊師利法王 子菩薩。如是等三萬二千人。
復有萬梵天王尸棄等。從餘四天下來詣佛所而爲聽法。復有萬二千天帝。亦從餘四天下來在會坐。并餘大威力諸天.龍神.夜叉.乾闥婆.阿脩羅.迦樓羅.緊那羅.摩睺羅伽.等悉來會坐。諸比丘比丘尼優婆塞優婆夷俱來會坐。
彼時佛與無量百千之衆恭敬圍繞而為說法。譬如須彌山王顯於大海。安處衆寶師子之座。蔽於一切諸來大衆。
爾時毘耶離城有長者子。名曰寶積。與五百長者子俱。持七寶蓋來詣佛所。頭面禮足。各以其蓋共供養佛。佛之威神令諸寶蓋合成一蓋。遍覆三千大千世界。而此世 界廣長之相悉於中現。又此三千大千世界。諸須彌山雪山。目真鄰陀山摩訶目真鄰陀山。香山寶山金山黑山。鐵圍山大鐵圍山。大海江河川流泉源。及日月星辰。天 宮龍宮。諸尊神宮。悉現於寶蓋中。又十方諸佛諸佛說法亦現於寶蓋中。
爾時一切大衆。睹佛神力歎未曾有。合掌禮佛瞻仰尊顏目不暫捨。於是長者子寶積即於佛前以偈頌曰。
目淨脩廣如青蓮
心淨已度諸禪定 
久積淨業稱無量
導衆以寂故稽首。
既見大聖以神變
普現十方無量土 
其中諸佛演說法
於是一切悉見聞 。
法王法力超群生
常以法財施一切 
能善分別諸法相
於第一義而不動 。
已於諸法得自在
是故稽首此法王 
說法不有亦不無
以因緣故諸法生。 
無我無造無受者
善惡之業亦不亡 
始在佛樹力降魔
得甘露滅覺道成。
已無心意無受行
而悉摧伏諸外道 
三轉法輪於大千
其輪本來常清淨。 
天人得道此為證
三寶於是現世間 
以斯妙法濟群生
一受不退常寂然。 
度老病死大醫王
當禮法海德無邊 
毀譽不動如須彌
於善不善等以慈。 
心行平等如虛空
孰聞人寶不敬承 
今奉世尊此微蓋
於中現我三千界。 
諸天龍神所居宮
乾闥婆等及夜叉 
悉見世間諸所有
十力哀現是化變。 
衆睹希有皆歎佛
今我稽首三界尊 
大聖法王衆所歸
淨心觀佛靡不欣。 
各見世尊在其前
斯則神力不共法 
佛以一音演說法
衆生隨類各得解。 
皆謂世尊同其語
斯則神力不共法 
佛以一音演說法
衆生各各隨所解。 
普得受行獲其利
斯則神力不共法 
佛以一音演說法
或有恐畏或歡喜。 
或生厭離或斷疑
斯則神力不共法 
稽首十力大精進
稽首已得無所畏。 
稽首住於不共法
稽首一切大導師 
稽首能斷衆結縛
稽首已到於彼岸。 
稽首能度諸世間
稽首永離生死道 
悉知衆生來去相
善於諸法得解脫。 
不著世間如蓮華
常善入於空寂行 
達諸法相無罣礙
稽首如空無所依。

爾時長者子寶積。說此偈已白佛言。世尊。是五百長者子。皆已發阿耨多羅三藐三菩提心。願聞得佛國土清淨。唯願世尊。說諸菩薩淨土之行。
佛言。善哉寶積。乃能為諸菩薩問於如來淨土之行。諦聽諦聽。善思念之。當為汝說。
於是寶積及五百長者子。受教而聽。
佛言。寶積。衆生之類是菩薩佛土。所以者何。菩薩隨所化衆生而取佛土。隨所調伏衆生而取佛土。隨諸衆生應以何國入佛智慧而取佛土。隨諸衆生應以何國起菩薩 根而取佛土。所以者何。菩薩取於淨國。皆為饒益諸衆生故。譬如有人欲於空地造立宮室隨意無礙。若於虛空終不能成。菩薩如是。為成就衆生故願取佛國。願取佛 國者非於空也。
寶積。當知直心是菩薩淨土。菩薩成佛時不諂衆生來生其國。深心是菩薩淨土。菩薩成佛時具足功德衆生來生其國。菩提心是菩薩淨土。菩薩成佛時大乘衆生來生其 國。布施是菩薩淨土。菩薩成佛時一切能捨衆生來生其國。持戒是菩薩淨土。菩薩成佛時行十善道滿願衆生來生其國。忍辱是菩薩淨土。菩薩成佛時三十二相莊嚴衆 生來生其國。精進是菩薩淨土。菩薩成佛時勤修一切功德衆生來生其國。禪定是菩薩淨土。菩薩成佛時攝心不亂衆生來生其國。智慧是菩薩淨土。菩薩成佛時正定衆 生來生其國。四無量心是菩薩淨土。菩薩成佛時成就慈悲喜捨衆生來生其國。四攝法是菩薩淨土。菩薩成佛時解脫所攝衆生來生其國。
方便是菩薩淨土。菩薩成佛時於一切法方便無礙衆生來生其國。三十七道品是菩薩淨土。菩薩成佛時念處正勤神足根力覺道衆生來生其國。迴向心是菩薩淨土。菩薩 成佛時得一切具足功德國土。說除八難是菩薩淨土。菩薩成佛時國土無有三惡八難。自守戒行不譏彼闕是菩薩淨土。菩薩成佛時國土無有犯禁之名。十善是菩薩淨 土。菩薩成佛時命不中夭。大富梵行所言誠諦。常以軟語眷屬不離。善和諍訟言必饒益。不嫉不恚正見衆生來生其國。
如是寶積。菩薩隨其直心則能發行。隨其發行則得深心。隨其深心。則意調伏。隨其調伏則如說行。隨如說行則能迴向。隨其迴向則有方便。隨其方便則成就衆生。隨成就衆生則佛土淨。隨佛土淨則說法淨。隨說法淨則智慧淨。隨智慧淨則其心淨。隨其心淨則一切功德淨。
是故寶積。若菩薩欲得淨土當淨其心。隨其心淨則佛土淨。
爾時舍利弗。承佛威神作是念。若菩薩心淨則佛土淨者。我世尊本為菩薩時意豈不淨。而是佛土不淨若此。
佛知其念即告之言。於意云何。日月豈不淨耶。而盲者不見。
對曰。不也。世尊。是盲者過非日月咎。
舍利弗。衆生罪故不見如來國土嚴淨。非如來咎。
舍利弗。我此土淨而汝不見。
爾時螺髻梵王語舍利弗。勿作是念。謂此佛土以為不淨。所以者何。我見釋迦牟尼佛土清淨。譬如自在天宮。
舍利弗言。我見此土。丘陵坑坎荊蕀沙礫。土石諸山穢惡充滿。
螺髻梵王言。仁者心有高下。不依佛慧。故見此土為不淨耳。
舍利弗。菩薩於一切衆生悉皆平等。深心清淨。依佛智慧。則能見此佛土清淨。
於是佛以足指按地。即時三千大千世界若干百千珍寶嚴飾。譬如寶莊嚴佛無量功德寶莊嚴土。一切大衆歎未曾有。而皆自見坐寶蓮華。
佛告舍利弗。汝且觀是佛土嚴淨。
舍利弗言。唯然世尊。本所不見。本所不聞。今佛國土嚴淨悉現。
佛語舍利弗。我佛國土常淨若此。為欲度斯下劣人故示是衆惡不淨土耳。譬如諸天共寶器食隨其福德飯色有異。
如是舍利弗。若人心淨便見此土功德莊嚴。
當佛現此國土嚴淨之時。寶積所將五百長者子皆得無生法忍。八萬四千人皆發阿耨多羅三藐三菩提心。
佛攝神足。於是世界還復如故。求聲聞乘者三萬二千諸天及人。知有為法皆悉無常。遠塵離垢得法眼淨。八千比丘不受諸法漏盡意解。

 


Quyển thượng

Phật Quốc Phẩm
Đệ nhất

Như thị ngã văn:
Nhất thời, Phật tại Tỳ-da-ly, Am-la thọ viên, dữ đại tỳ-kheo chúng bát thiên nhân câu. Bồ Tát tam vạn nhị thiên, chúng sở tri thức. Đại trí bổn hạnh giai tất thành tựu. Chư Phật oai thần chi sở kiến lập, vị hộ pháp thành, thọ trì Chánh pháp, năng sư tử hống, danh văn thập phương. Chúng nhân bất thỉnh hữu nhi an chi. Thiệu long Tam bảo năng sử bất tuyệt. Hàng phục ma oán, chế chư ngoại đạo, tất dĩ thanh tịnh, vĩnh ly cái triền, tâm thường an trụ vô ngại giải thoát, niệm, định, tổng trì, biện tài bất đoạn. Bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí huệ cập phương tiện lực, vô bất cụ túc. Đãi vô sở đắc, bất khởi pháp nhẫn, dĩ năng tùy thuận chuyển bất thối luân. Thiện giải pháp tướng, tri chúng sinh căn. Cái chư đại chúng, đắc vô sở úy. Công đức trí huệ, dĩ tu kỳ tâm.
Tướng hảo nghiêm thân, sắc tượng đệ nhất. Xả chư thế gian sở hữu sức hảo. Danh xưng cao viễn, du ư Tu-di. Thâm tín kiên cố, du nhược kim cang. Pháp bảo phổ chiếu, nhi vũ cam-lộ. Ư chúng ngôn âm, vi diệu đệ nhất. Thâm nhập duyên khởi, đoạn chư tà kiến, hữu vô nhị biên, vô phục dư tập. Diễn pháp vô úy, du sư tử hống. Kỳ sở giảng thuyết, nãi như lôi chấn. Vô hữu lượng, dĩ quá lượng, tập chúng pháp bảo, như hải đạo sư. Liễu đạt chư pháp thâm diệu chi nghĩa. Thiện tri chúng sinh vãng lai sở thú, cập tâm sở hành. Cận vô đẳng đẳng Phật tự tại huệ, thập lực, vô úy, thập bát bất cộng. Quan bế nhất thiết chư ác thú môn, nhi sinh ngũ đạo dĩ hiện kỳ thân. Vi đại y vương, thiện liệu chúng bệnh. Ứng bệnh dữ dược, linh đắc phục hành. Vô lượng công đức giai thành tựu. Vô lượng Phật độ giai nghiêm tịnh. Kỳ kiến văn giả, vô bất mông ích. Chư hữu sở tác diệc bất đường quyên. Như thị nhất thiết công đức giai tất cụ túc.
Kỳ danh viết: Đẳng Quan Bồ Tát, Bất Đẳng Quan Bồ Tát, Đẳng Bất Đẳng Quan Bồ Tát, Định Tự Tại Vương Bồ Tát, Pháp Tự Tại Vương Bồ Tát, Pháp Tướng Bồ Tát, Quang Tướng Bồ Tát, Quang Nghiêm Bồ Tát, Đại Nghiêm Bồ Tát, Bảo Tích Bồ Tát, Biện Tích Bồ Tát, Bảo Thủ Bồ Tát, Bảo Ấn Thủ Bồ Tát, Thường Cử Thủ Bồ Tát, Thường Hạ Thủ Bồ Tát, Thường Thảm Bồ Tát, Hỷ Căn Bồ Tát, Hỷ Vương Bồ Tát, Biện Âm Bồ Tát, Hư Không Tạng Bồ Tát, Chấp Bảo Cự Bồ Tát, Bảo Dõng Bồ Tát, Bảo Kiến Bồ Tát, Đế Võng Bồ Tát, Minh Võng Bồ Tát, Vô Duyên Quan Bồ Tát, Huệ Tích Bồ Tát, Bảo Thắng Bồ Tát, Thiên Vương Bồ Tát, Hoại Ma Bồ Tát, Điện Đức Bồ Tát, Tự Tại Vương Bồ Tát, Công Đức Tướng Nghiêm Bồ Tát, Sư Tử Hống Bồ Tát, Lôi Âm Bồ Tát, Sơn Tướng Kích Âm Bồ Tát, Hương Tượng Bồ Tát, Bạch Hương Tượng Bồ Tát, Thường Tinh Tấn Bồ Tát, Bất Hưu Tức Bồ Tát, Diệu Sinh Bồ Tát, Hoa Nghiêm Bồ Tát, Quán Thế Âm Bồ Tát, Đắc Đại Thế Bồ Tát, Phạm Võng Bồ Tát, Bảo Trượng Bồ Tát, Vô Thắng Bồ Tát, Nghiêm Độ Bồ Tát, Kim Kế Bồ Tát, Châu Kế Bồ Tát, Di-lặc Bồ Tát, Văn-thù Sư-lỵ Pháp vương tử Bồ Tát... Như thị đẳng tam vạn nhị thiên nhân.
Phục hữu vạn Phạm thiên vương Thi-khí đẳng, tùng dư Tứ thiên hạ, lai nghệ Phật sở, nhi vị thính pháp. Phục hữu vạn nhị thiên thiên đế, diệc tùng dư Tứ thiên hạ, lai tại hội tọa. Tinh dư đại oai lực chư thiên, long thần, dạ-xoa, càn-thát-bà, a-tu-la, ca-lâu-la, khẩn-na-la, ma-hầu-la-già đẳng, tất lai hội tọa. Chư tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di, câu lai hội tọa.
Bỉ thời, Phật dữ vô lượng bá thiên chi chúng cung kính vi nhiễu, nhi vị thuyết pháp. Thí như Tu-di sơn vương, hiển ư đại hải, an xử chúng bảo sư tử chi tọa, tế ư nhất thiết chư lai đại chúng.
Nhĩ thời, Tỳ-da-ly thành, hữu trưởng giả tử danh viết Bảo Tích, dữ ngũ bá trưởng giả tử, câu trì thất bảo cái lai nghệ Phật sở, đầu diện lễ túc. Các dĩ kỳ cái, cộng cúng dường Phật. Phật chi oai thần linh chư bảo cái hiệp thành nhất cái, biến phú tam thiên đại thiên thế giới. Nhi thử thế giới quảng trường chi tướng, tất ư trung hiện. Hựu thử tam thiên đại thiên thế giới chư Tu-di sơn, Tuyết sơn, Mục-chân-lân-đà sơn, Ma-ha Mục-chân-lân-đà sơn, Hương sơn, Bảo sơn, Kim sơn, Hắc sơn, Thiết vi sơn, Đại thiết vi sơn, đại hải giang hà, xuyên lưu tuyền nguyên, cập nhật nguyệt tinh thần, thiên cung, long cung, chư tôn thần cung, tất hiện ư bảo cái trung. Hựu thập phương chư Phật, chư Phật thuyết pháp, diệc hiện ư bảo cái trung.
Nhĩ thời, nhất thiết đại chúng, đổ Phật thần lực, thán vị tằng hữu. Hiệp chưởng lễ Phật, chiêm ngưỡng tôn nhan, mục bất tạm xả. Ư thị, trưởng giả tử Bảo Tích, tức ư Phật tiền, dĩ kệ tụng viết:

Mục tịnh tu quảng như thanh liên,
Tâm tịnh dĩ độ chư thiền định,
Cửu tích tịnh nghiệp xứng vô lượng,
Đạo chúng dĩ tịch cố khể thủ.
kiến đại thánh dĩ thần biến,
Phổ hiện thập phương vô lượng độ,
Kỳ trung chư Phật diễn thuyết pháp,
Ư thị nhất thiết tất kiến văn.
Pháp vương pháp lực siêu quần sinh,
Thường dĩ pháp tài thí nhất thiết,
Năng thiện phân biệt chư pháp tướng,
Ư đệ nhất nghĩa nhi bất động.
Dĩ ư chư pháp đắc tự tại,
Thị cố khể thủ thử Pháp vương.
Thuyết pháp bất hữu diệc bất vô,
nhân duyên cố chư pháp sinh.
Vô ngã, vô tạo, vô thọ giả,
Thiện ác chi nghiệp diệc bất vong.
Thủy tại Phật thọ lực hàng ma,
Đắc cam-lộ diệt, giác đạo thành.
vô tâm ý, vô thọ hành,
Nhi tất tồi phục chư ngoại đạo.
Tam Chuyển pháp luân ư đại thiên,
Kỳ luân bổn lai thường thanh tịnh,
Thiên nhân đắc đạo, thử vi chứng,
Tam bảo ư thị hiện thế gian.
Dĩ tư diệu pháp tế quần sinh,
Nhất thọ bất thối, thường tịch nhiên.
Độ lão, bệnh, tử đại y vương,
Đương lễ Pháp hải đức vô biên.
Hủy dự bất động như Tu-di,
Ư thiện, bất thiện đẳng dĩ từ,
Tâm hành bình đẳng như hư không,
Thục văn Nhân bảo, bất kính thừa?
Kim phụng Thế Tôn thử vi cái,
Ư trung hiện ngã tam thiên giới:
Chư thiên, long, thần sở cư cung,
Càn-thát-bà đẳng cập dạ-xoa,
Tất kiến thế gian chư sở hữu.
Thập lực ai hiện thị hóa biến,
Chúng đổ hy hữu giai thán Phật.
Kim ngã khể thủ Tam giới tôn,
Đại thánh pháp vương: chúng sở quy,
Tịnh tâm quan Phật, mỵ bất hân?
Các kiến Thế Tôn tại kỳ tiền,
Tư tắc thần lực bất cộng pháp,
Phật dĩ nhất âm diễn thuyết pháp,
Chúng sinh tùy loại các đắc giải.
Giai vị: Thế Tôn đồng kỳ ngữ,
Tư tắc thần lực bất cộng pháp.
Phật dĩ nhất âm diễn thuyết pháp,
Chúng sinh các các tùy sở giải,
Phổ đắc thọ, hành, hoạch kỳ lợi,
Tư tắc thần lực bất cộng pháp.
Phật dĩ nhất âm diễn thuyết pháp,
Hoặc hữu khủng úy, hoặc hoan hỷ,
Hoặc sinh yếm ly, hoặc đoạn nghi,
Tư tắc thần lực bất cộng pháp.
Khể thủ thập lực đại tinh tấn.
Khể thủ dĩ đắc vô sở úy.
Khể thủ trụ ư bất cộng pháp.
Khể thủ nhất thiết đại Đạo sư.
Khể thủ năng đoạn chúng kết phược.
Khể thủ dĩ đáo ư bỉ ngạn.
Khể thủ năng độ chư thế gian.
Khể thủ vĩnh ly sinh tử đạo.
Tất tri chúng sinh lai khứ tướng,
Thiện ư chư pháp đắc giải thoát,
Bất trước thế gian, như liên hoa,
Thường thiện nhập ư không tịch hạnh,
Đạt chư pháp tướng, vô quái ngại,
Khể thủ như không vô sở y.


Nhĩ thời, trưởng giả tử Bảo Tích thuyết thử kệ dĩ, bạch Phật ngôn: Thế Tôn! Thị ngũ bá trưởng giả tử, giai dĩ phát A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề tâm, nguyện văn đắc Phật quốc độ thanh tịnh. Duy nguyện Thế Tôn thuyết chư Bồ Tát tịnh độ chi hạnh.
Phật ngôn: Thiện tai Bảo Tích! Nãi năng vị chư Bồ Tát, vấn ư Như Lai tịnh độ chi hạnh. Đế thính, đế thính! Thiện tư niệm chi. Đương vị nhữ thuyết.
Ư thị, Bảo Tích cập ngũ bá trưởng giả tử thọ giáo nhi thính.
Phật ngôn: Bảo Tích! Chúng sinh chi loại thị Bồ Tát Phật độ. Sở dĩ giả hà? Bồ Tát tùy sở hóa chúng sinh nhi thủ Phật độ. Tùy sở điều phục chúng sinh nhi thủ Phật độ. Tùy chư chúng sinh ưng dĩ hà quốc nhập Phật trí huệ, nhi thủ Phật độ. Tùy chư chúng sinh ưng dĩ hà quốc khởi Bồ Tát căn, nhi thủ Phật độ. Sở dĩ giả hà? Bồ Tát thủ ư tịnh quốc, giai vị nhiêu ích chư chúng sinh cố. Thí như hữu nhân dục ư không địa, tạo lập cung thất, tùy ý vô ngại. Nhược ư hư không, chung bất năng thành. Bồ Tát như thị, vị thành tựu chúng sinh cố nguyện thủ Phật quốc. Nguyện thủ Phật quốc giả, phi ư không dã.
Bảo Tích, đương tri trực tâm thị Bồ Tát tịnh độ, Bồ Tát thành Phật thời, bất siểm chúng sinh lai sinh kỳ quốc. Thâm tâm thị Bồ Tát tịnh độ, Bồ Tát thành Phật thời, cụ túc công đức chúng sinh lai sinh kỳ quốc. Bồ-đề tâm thị Bồ Tát tịnh độ, Bồ Tát thành Phật thời, Đại thừa chúng sinh lai sinh kỳ quốc. Bố thí thị Bồ Tát tịnh độ, Bồ Tát thành Phật thời, nhất thiết năng xả chúng sinh lai sinh kỳ quốc. Trì giới thị Bồ Tát tịnh độ, Bồ Tát thành Phật thời, hành thập thiện đạo mãn nguyện chúng sinh lai sinh kỳ quốc. Nhẫn nhục thị Bồ Tát tịnh độ, Bồ Tát thành Phật thời, tam thập nhị tướng trang nghiêm chúng sinh lai sinh kỳ quốc. Tinh tấn thị Bồ Tát tịnh độ, Bồ Tát thành Phật thời, cần tu nhất thiết công đức chúng sinh lai sinh kỳ quốc. Thiền định thị Bồ Tát tịnh độ, Bồ Tát thành Phật thời, nhiếp tâm bất loạn chúng sinh lai sinh kỳ quốc. Trí huệ thị Bồ Tát tịnh độ, Bồ Tát thành Phật thời, chánh định chúng sinh lai sinh kỳ quốc. Tứ vô lượng tâm thị Bồ Tát tịnh độ, Bồ Tát thành Phật thời, thành tựu từ, bi, hỷ, xả chúng sinh lai sinh kỳ quốc. Tứ nhiếp pháp thị Bồ Tát tịnh độ, Bồ Tát thành Phật thời, giải thoát sở nhiếp chúng sinh lai sinh kỳ quốc.
Phương tiện thị Bồ Tát tịnh độ, Bồ Tát thành Phật thời, ư nhất thiết pháp phương tiện vô ngại chúng sinh lai sinh kỳ quốc. Tam thập thất đạo phẩm thị Bồ Tát tịnh độ, Bồ Tát thành Phật thời, niệm xứ, chánh cần, thần túc, căn, lực, giác, đạo chúng sinh lai sinh kỳ quốc. Hồi hướng tâm thị Bồ Tát tịnh độ, Bồ Tát thành Phật thời, đắc nhất thiết cụ túc công đức quốc độ. Thuyết trừ bát nạn thị Bồ Tát tịnh độ, Bồ Tát thành Phật thời, quốc độ vô hữu tam ác, bát nạn. Tự thủ giới hạnh, bất cơ bỉ khuyết, thị Bồ Tát tịnh độ, Bồ Tát thành Phật thời, quốc độ vô hữu phạm cấm chi danh. Thập thiện thị Bồ Tát tịnh độ, Bồ Tát thành Phật thời, mạng bất trúng yểu, đại phú, phạm hạnh, sở ngôn thành đế, thường dĩ nhuyễn ngữ, quyến thuộc bất ly, thiện hòa tranh tụng, ngôn tất nhiêu ích, bất tật, bất khuể chánh kiến chúng sinh lai sinh kỳ quốc.
Như thị, Bảo Tích! Bồ Tát tùy kỳ trực tâm, tắc năng phát hành. Tùy kỳ phát hành, tắc đắc thâm tâm. Tùy kỳ thâm tâm, tắc ý điều phục. Tùy kỳ điều phục, tắc như thuyết hành. Tùy như thuyết hành, tắc năng hồi hướng. Tùy kỳ hồi hướng, tắc hữu phương tiện. Tùy kỳ phương tiện, tắc thành tựu chúng sinh. Tùy thành tựu chúng sinh, tắc Phật độ tịnh. Tùy Phật độ tịnh, tắc thuyết pháp tịnh. Tùy thuyết pháp tịnh, tắc trí huệ tịnh. Tùy trí huệ tịnh, tắc kỳ tâm tịnh. Tùy kỳ tâm tịnh, tắc nhất thiết công đức tịnh.
Thị cố Bảo Tích, nhược Bồ Tát dục đắc tịnh độ, đương tịnh kỳ tâm. Tùy kỳ tâm tịnh, tắc Phật độ tịnh.
Nhĩ thời, Xá-lỵ-phất, thừa Phật oai thần, tác thị niệm: Nhược Bồ Tát tâm tịnh, tắc Phật độ tịnh giả. Ngã Thế Tôn, bổn vi Bồ Tát thời, ý khởi bất tịnh, nhi thị Phật độ bất tịnh nhược thử?
Phật tri kỳ niệm, tức cáo chi ngôn: Ư ý vân hà? Nhật nguyệt khởi bất tịnh da, nhi manh giả bất kiến?
Đối viết: Phất dã, Thế Tôn! Thị manh giả quá, phi nhật nguyệt cữu.
Xá-lỵ-phất! Chúng sinh tội cố, bất kiến Như Lai quốc độ nghiêm tịnh, phi Như Lai cữu.
Xá-lỵ-phất! Ngã thử độ tịnh, nhi nhữ bất kiến.
Nhĩ thời, Loa Kế Phạm vương ngứ Xá-lỵ-phất: Vật tác thị niệm, vị thử Phật độ dĩ vi bất tịnh. Sở dĩ giả hà? Ngã kiến Thích-ca Mâu-ni Phật độ thanh tịnh, thí như Tự tại thiên cung.
Xá-lỵ-phất ngôn: Ngã kiến thử độ, khưu lăng khanh khảm, kinh cức sa lịch, thổ thạch chư sơn, uế ác sung mãn.
Loa Kế Phạm vương ngôn: Nhân giả tâm hữu cao hạ, bất y Phật huệ. Cố kiến thử độ vi bất tịnh nhĩ.
Xá-lỵ-phất! Bồ Tát ư nhất thiết chúng sinh, tất giai bình đẳng, thâm tâm thanh tịnh, y Phật trí huệ, tắc năng kiến thử Phật độ thanh tịnh.
Ư thị, Phật dĩ túc chỉ án địa. Tức thời, tam thiên đại thiên thế giới, nhược can bá thiên trân bảo nghiêm sức, thí như Bảo Trang Nghiêm Phật vô lượng công đức bảo trang nghiêm độ. Nhất thiết đại chúng thán: Vị tằng hữu! Nhi giai tự kiến tọa bảo liên hoa.
Phật cáo Xá-lỵ-phất: Nhữ khả quan thị Phật độ nghiêm tịnh?
Xá-lỵ-phất ngôn: Duy nhiên, Thế Tôn! Bổn sở bất kiến, bổn sở bất văn. Kim Phật quốc độ nghiêm tịnh tất hiện.
Phật cáo Xá-lỵ-phất: Ngã Phật quốc độ thường tịnh nhược thử. Vị dục độ tư hạ liệt nhân cố, thị thị chúng ác bất tịnh độ nhĩ. Thí như chư thiên, cộng bảo khí thực. Tùy kỳ phước đức, phạn sắc hữu dị.
Như thị, Xá-lỵ-phất! Nhược nhân tâm tịnh, tiện kiến thử độ công đức trang nghiêm.
Đương Phật hiện thử quốc độ nghiêm tịnh chi thời, Bảo Tích sở tương ngũ bá trưởng giả tử, giai đắc vô sinh pháp nhẫn. Bát vạn tứ thiên nhân, giai phát A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề tâm.
Phật nhiếp thần túc. Ư thị, thế giới hoàn phục như cố. Cầu Thanh văn thừa giả, tam vạn nhị thiên chư thiên cập nhân, tri hữu vi pháp giai tất vô thường, viễn trần ly cấu, đắc pháp nhãn tịnh. Bát thiên tỳ-kheo bất thọ chư pháp, lậu tận, ý giải.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 33057)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(Xem: 6485)
Phật Đà Thập Đại Đệ Tử Tán - Hòa thượng Tuyên Hóa giảng thuật, Nguyễn Minh Tiến Việt dịch
(Xem: 11192)
Các tác phẩm của Thầy phần lớn được dịch từ Hán tạng, gồm giới kinh và các nguồn văn học Phật giáo Đại thừa với tư tưởng uyên thâm về triết họctâm lý học.
(Xem: 30335)
Đã phát khởi chí nguyện Đại thừa, lại kiên quyết thực hiện chí nguyện ấy, đó thực sự là cung cách hùng dũng của con sư tử đang vươn mình, và do đó phải được nhìn đến bằng cung cách của con voi chúa.
(Xem: 30396)
Vua và phu nhân gởi thơ cho Thắng Man, đại lược ca ngợi công đức vô lượng của Như Lai, rồi sai kẻ nội thị tên Chiên Đề La đem thư đến nước A Du Xà... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 7936)
Tất cả các nhà đạo học và thế học muốn thành tựu kết quả tốt đẹp trong cuộc đời, thì trước hết, họ phải trải qua quá trình kham nhẫn, nỗ lực, tu, học, rèn luyện tự thân, giúp đỡ, và đem lại lợi ích cho tha nhân.
(Xem: 12132)
Bảy Đức Thế Tôn quá khứ từ Thế Tôn Tỳ Bà Thi, Thế Tôn Thích Ca, và chư Thế Tôn vị lai đều chứng ngộ Vô Thượng Bồ Đề từ sự chứng ngộ sự thật Duyên khởi.
(Xem: 12205)
Trong các bản Kinh Pháp Cú, phổ biến nhất hiện nay là Kinh Pháp Cú Nam Truyền, tức là Kinh Pháp Cú dịch theo Tạng Pali.
(Xem: 11551)
Có lần Đức Phật sống tại Rajagaha (Vương Xá) trong Khu Rừng Tre gần Nơi Nuôi Những Con Sóc. Lúc bấy giờ, vị Bà La Môn tên là Akkosa Bharadvaja đã nghe người ta đồn đãi như sau:
(Xem: 12735)
Tôi nghe như vầy. Có lần Đức Phật, trong khi đi hoằng pháp ở nước Kosala nơi có một cộng đồng rất đông Tỳ Kheo, ngài đi vào một tỉnh nhỏ nơi cư trú của người Kalama
(Xem: 34667)
Quy Sơn Cảnh Sách Học Giải - Tác Giả: Thiền Sư Quy Sơn Linh Hựu; Thích Thiện Trí (Thánh Tri) Phỏng Việt Dịch và Viết Bài Học Giải
(Xem: 9807)
Kinh này khởi đầu bằng lời người Bà La Môn hỏi rằng làm thế nào người ta có thể tự thanh tịnh hóa khi nhìn thấy một vị Thượng nhân đã Thanh tịnh,
(Xem: 52214)
Nguyên xưa ngài Quán Nguyệt Pháp sư đem hai thời kinh khóa tụng: Mai đóng chung và chiều nhập chung lại làm một đại thể làm một tập lớn. - Chú giải: Ngài Quán Nguyệt; Dịch giả: HT Thích Khánh Anh
(Xem: 10707)
Tôi nghe như vậy: Một thời, đức Thế Tôn trú tại thành phố Śrāvastī (Xá-vệ), nơi rừng cây Jeta (Kì-đà), vườn của Ông Anāthapiṇḍada (Cấp-cô-độc),
(Xem: 10474)
Bài kinh này trong đoạn cuối (bài kệ 787), câu “không nắm giữ gì, cũng không bác bỏ gì” được Thanissaro Bhikkhu ghi chú rằng ...
(Xem: 10671)
Lúc bấy giờ, Bồ tát Đại sĩ Akṣayamatir[1] từ chỗ ngồ đứng dậy, vắt thượng y[2] qua một bên vai, chắp hai tay[3] hướng về đức Thế Tôn và thưa rằng:
(Xem: 10411)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào?
(Xem: 13027)
Đại ý bài kinh này Đức Phật dạy chúng đệ tử không nên truy tìm quá khứ, không nên ước vọng tương lai vì quá khứ đã đoạn tận.
(Xem: 16191)
Evaṃ me sutaṃ, “như vầy tôi nghe”, là lời Ngài Ananda bắt đầu mỗi bài kinh mà có lẽ không Phật tử nào là không biết.
(Xem: 21762)
Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538), thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm.
(Xem: 9571)
Phật dạy giới này áp dụng chung cho tất cả các Phật tử tại gia, không phân biệt Phật tử này thuộc thành phần hay đẳng cấp xã hội nào.
(Xem: 7070)
Sa-môn Thích Đàm Cảnh dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, vào thời Tiêu-Tề (479-502). Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn, tại Canada, năm 2018.
(Xem: 10345)
Đức Phật A Di Đà tự thân có ánh sáng vô lượng, chiếu khắp cả mười phương mà không có vật gì có thể ngăn che. Vì vậy nên Phật A Di Đà có nghĩa là Vô Lượng Quang Phật.
(Xem: 12678)
Nguyên tác Hán văn: Tì-kheo Linh Diệu, tông Thiên Thai soạn - Dịch sang tiếng Việt: Thích Thọ Phước
(Xem: 12740)
Ngài Buddhaghosa sanh ra và lớn lên nước Magadha, thuộc Trung Ấn Độ, vào thế kỷ thứ V trong ngôi làng Ghosa, gần địa danh nơi đức Phật thành đạo Bodhigaya
(Xem: 16184)
Nghiên Cứu Về Kinh A Hàm (Ãgama, Sanscrist)
(Xem: 16476)
Ai nói như sau, này các Tỷ-kheo: "Người này làm nghiệp như thế nào, như thế nào, người ấy cảm thọ như vậy, như vậy".
(Xem: 13805)
Đây là những điều tôi nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Cấp Cô Độc trong vườn cây Kỳ Đà ở thành Vương Xá.
(Xem: 16514)
Vào thời Đức Thích-ca-mâu-ni, không có hệ thống chữ viết được phổ biếnẤn Độ. Do đó, những thuyết giảng của Ngài được ghi nhớ và ...
(Xem: 12058)
"Lại nữa, lúc bấy giờ Mahāmati thưa rằng: “Bạch Thế Tôn, ngài đã từng dạy rằng: từ lúc Như Lai chứng nghiệm giác ngộ cho đến...
(Xem: 13751)
Kinh Địa Tạng là một trong các kinh Đại thừa được phổ biến rộng rãi trong quần chúng Việt Nam từ hơn nửa thế kỷ nay song song với các kinh Kim Cương, Di Đà, Phổ Môn...
(Xem: 14273)
Nguyên tác: Tôn giả Thế Thân (Acarya Vasubandhu) - Hán dịch: Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng; Việt dịch: Tỳ khưu Tâm Hạnh
(Xem: 9161)
No. 1613 - Nguyên tác: Tôn giả An Huệ; Dịch Hán: Tam Tạng Pháp sư Địa-bà-ha-la; Dịch Việt: Tâm Hạnh
(Xem: 11714)
Duy thức nhị thập luận, do bồ tát Thế Thân soạn, ngài Huyền trang dịch vào đời Đường... được thu vào Đại chính tạng, tập 31, No.1590.
(Xem: 11227)
Bồ-tát Trần Na tạo luận. Tam tạng Pháp sư Huyền Trang phụng chiếu dịch. Việt dịch: Quảng Minh
(Xem: 16258)
Nghe như vầy, một thời Đức Phật ở nước Xá Vệ ở vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc cùng chúng đại Tỳ Kheo năm trăm vị. Bấy giờ các thầy Tỳ Kheo...
(Xem: 14308)
No. 699; Hán dịch: Đời Đại Đường, Trung Thiên Trúc, Tam tạng Pháp sư Địa bà ha la, Đường dịch là Nhật Chiếu
(Xem: 16165)
Đức Phật Thích-Ca Mưu-Ni, bắt đầu chuyển pháp-luân, độ cho năm vị Tỳ-Khưu là Tôn-giả Kiều-Trần-Như v.v... Sau cùng, Ngài thuyết pháp độ cho ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 12668)
Kinh Phạm Võng nằm trong Đại Chánh Tạng, tập 24, ký hiệu 1484, gọi đủ là Phạm võng kinh Lô xá na Phật thuyết bồ tát tâm địa giới phẩm đệ thập
(Xem: 12034)
Phật thuyết-giảng Kinh Phạm-Võng để dạy về giới-luật, và các pháp cao-siêu vượt thoát được sáu mươi hai kiến-chấp vốn là các tà-kiến đã...
(Xem: 11753)
Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi, tại Jetavana, vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Độc). Ở đây,,,
(Xem: 15626)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434; Dịch Phạn - Hán: Tam Tạng Cát-ca-dạ, Dịch Hán - Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ; Hiệu đính: HT Thích Như Điển
(Xem: 11466)
Đời Đường, Thận Thủy Sa Môn Huyền Giác Soạn; Thánh Tri dịch nghĩa Việt và viết bài học giải...
(Xem: 13991)
Phật giáo được khai sáng ở Ấn-độ vào năm 589 trước kỉ nguyên tây lịch (năm đức Thích Ca Mâu Ni thành đạo), và đã tồn tại liên tục, phát triển không ngừng trên ...
(Xem: 11981)
Trong truyền thống Phật giáo Bắc truyền, Dược Sư là một bản kinh thường được trì tụng nhằm mục đích giải trừ tật bệnh, cầu nguyện bình an...
(Xem: 12592)
Thích-ca là phiên âm của tiếng Phạn. Phiên âm Hán Việt là Năng Nhân. Tức là họ của đấng hóa Phật ở cõi Ta-bà...
(Xem: 14942)
Kinh chuyển Pháp luân là bài thuyết Pháp đầu tiên của Đức Phật Thích-ca sau khi Ngài đã đắc đạo.
(Xem: 11934)
Ba Ngàn Oai Nghi Của Vị Đại Tỳ Kheo - Được xếp vào tập T24 - Kinh số 1470 - Tổng cộng kinh này có 2 quyển
(Xem: 13099)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 14482)
Satipatthana Sutta là một bản kinh quan trọng làm nền tảng cho một phép thiền định chủ yếu trong Phật giáo là Vipassana...
(Xem: 20639)
Kinh Tứ Thập Nhị Chương là một bài Kinh được truyền bá khá rộng rải ở các Tồng Lâm Tự Viện của Trung QuốcViệt Nam từ xưa đến nay.
(Xem: 13173)
Bản dịch này được trích ra từ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh Vol. 48, No. 2010. Bởi vì lời dạy của Tổ Tăng Xán quá sâu sắc, súc tích, và bao hàm trong 584 chữ Hán,
(Xem: 10901)
Dịch từ Phạn sang Tạng: Kluḥi dbaṅ-po, Lhaḥi zla-ba; Dịch Tạng sang Việt: Phước Nguyên
(Xem: 20642)
Trí Phật là trí Kim – cang, Thân Phật là thân Kim – Sắc, cõi Phật là cõi Hoàng – kim, lời Phật tất nhiên là lời vàng.
(Xem: 14290)
Bấy giờ Hòa Thượng Vakkali nhìn thấy Đức Phật đang đi đến từ xa, và ông đã cố gắng ngồi dậy.
(Xem: 20273)
Xin dâng hết lên Tam Bảo chứng minh và xin Quý Ngài cũng như Quý Vị tùy nghi xử dụng in ấn tiếp tục hay trì tụng cũng như cho dịch ra những ngôn ngữ khác...
(Xem: 17575)
Niệm Phật Tâm Muội do HT Hư Vân soạn, Sa môn Hiển Chơn dịch; Tọa Thiền Dụng Tâm Ký do Viên Minh Quốc Sư soạn, HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 13955)
Khi Bồ-tát Quán Tự Tại hành sâu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, ngài soi thấy năm uẩn đều KHÔNG, liền qua hết thảy khổ ách.
(Xem: 31815)
Viết ra các bài Phật học thường thức này, chúng tôi không có tham vọng giới thiệu toàn bộ Phật pháp và chỉ cốt giúp cho các bạn sơ cơ hiểu được một cách đúng đắn, đạo lý năm thừa trong Phật giáo mà thôi.
(Xem: 11956)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, Kinh văn số 1675. Tác giả: Long Thọ Bồ Tát; Sa Môn Sắc Tử dịch Phạn sang Hán; HT Thích Như Điển dịch Việt
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant