Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

8. Quán chúng sinh phẩm - Đệ thất

03 Tháng Ba 201100:00(Xem: 7179)
8. Quán chúng sinh phẩm - Đệ thất

KINH DUY-MA-CẬT (Hán-Việt)
Đoàn Trung Còn - Nguyễn Minh Tiến dịch và chú giải

DUY-MA-CẬT SỞ THUYẾT KINH

QUYỂN TRUNG

Quán chúng sinh phẩm - Đệ thất

觀眾生品
第 七


爾時文殊師利問維摩詰言。菩薩云何觀於衆生。
維摩詰言。譬如幻師見所幻人。菩薩觀衆生為若此。
如智者見水中月。如鏡中見其面像。如熱時燄。如呼聲響。如空中雲。如水聚沫。如水上泡。如芭蕉堅。如電久住。如第五大。如第六陰。如第七情。如十三入。如十九界。菩薩觀衆生為若此。
如無色界色。如焦穀牙。如須陀洹身見。如阿那含入胎。如阿羅漢三毒。如得忍菩薩貪恚毀禁。如佛煩惱習。如盲者見色。如入滅盡定出入息。如空中鳥跡。如石女兒。如化人煩惱。如夢所見已寤。如滅度者受身。如無煙之火。菩薩觀衆生為若此。
文殊師利言。若菩薩作是觀者。云何行慈。
維摩詰言。菩薩作是觀已自念。我當為衆生說如斯法。是即真實慈也。行寂滅慈無所生故。行不熱慈無煩惱故。行等之慈等三世故。行無諍慈無所起故。行不二慈內 外不合故。行不壞慈畢竟盡故。行堅固慈心無毀故。行清淨慈諸法性淨故。行無邊慈如虛空故。行阿羅漢慈破結賊故。行菩薩慈安衆生故。行如來慈得如相故。行佛 之慈覺衆生故。行自然慈無因得故。
行菩提慈等一味故。行無等慈斷諸愛故。行大悲慈導以大乘故。行無厭慈觀空無我故。行法施慈無遺惜故。行持戒慈化毀禁故。行忍辱慈護彼我故。行精進慈荷負衆 生故。行禪定慈不受味故。行智慧慈無不知時故。行方便慈一切示現故。行無隱慈直心清淨故。行深心慈無雜行故。行無誑慈不虛假故。行安樂慈令得佛樂故。菩薩 之慈為若此也。
文殊師利又問。何謂為悲。
答曰。菩薩所作功德皆與一切衆生共之。
何謂為喜。
答曰。有所饒益歡喜無悔。
何謂為捨。
答曰。所作福祐無所希望。
文殊師利又問。生死有畏。菩薩當何所依。
維摩詰言。菩薩於生死畏中。當依如來功德之力。
文殊師利又問。菩薩欲依如來功德之力。當於何住。
答曰。菩薩欲依如來功德力者。當住度脫一切衆生。
又問。欲度衆生。當何所除。
答曰。欲度衆生除其煩惱。
又問。欲除煩惱。當何所行。
答曰。當行正念。
又問。云何行於正念。
答曰。當行不生不滅。
又問。何法不生。何法不滅。
答曰。不善不生。善法不滅。
又問。善不善孰為本。
答曰。身為本。
又問。身孰為本。
答曰。欲貪為本。
又問。欲貪孰為本。
答曰。虛妄分別為本。
又問。虛妄分別孰為本。
答曰。顛倒想為本。
又問。顛倒想孰為本。
答曰。無住為本。
又問。無住孰為本。
答曰。無住則無本。
文殊師利。從無住本立一切法。
時維摩詰室有一天女。見諸天人聞所說法便現其身。即以天華散諸菩薩大弟子上。華至諸菩薩即皆墮落。至大弟子便著不墮。一切弟子神力去華不能令去。
爾時天女問舍利弗。何故去華。
答曰。此華不如法。是以去之。
天曰。勿謂此華為不如法。所以者何。是華無所分別。仁者自生分別想耳。若於佛法出家有所分別為不如法。若無所分別是則如法。觀諸菩薩華不著者已斷一切分別 想故。譬如人畏時非人得其便。如是弟子畏生死故。色聲香味觸得其便也。已離畏者一切五欲無能為也。結習未盡華著身耳。結習盡者華不著也。
舍利弗言。天止此室其已久如。
答曰。我止此室如耆年解脫。
舍利弗言。止此久耶。
天曰。耆年解脫亦何如久。
舍利弗默然不答。
天曰。如何耆舊大智而默。
答曰。解脫者無所言說。故吾於是不知所云。
天曰。言說文字皆解脫相。所以者何。解脫者不內不外不在兩間。文字亦不內不外不在兩間。
是故舍利弗。無離文字說解脫也。所以者何。一切諸法是解脫相。
舍利弗言。不復以離婬怒癡為解脫乎。
天曰。佛為增上慢人說離婬怒癡為解脫耳。若無增上慢者。佛說婬怒癡性即是解脫。
舍利弗言。善哉善哉。天女。汝何所得。以何為證。辯乃如是。
天曰。我無得無證故辯如是。所以者何。若有得有證者即於佛法為增上慢。
舍利弗問天。汝於三乘為何志求。
天曰。以聲聞法化衆生故我為聲聞。以因緣法化衆生故我為辟支佛。以大悲法化衆生故我為大乘。
舍利弗。如人入瞻蔔林唯嗅瞻蔔不嗅餘香。如是若入此室。但聞佛功德之香。不樂聞聲聞辟支佛功德香也。
舍利弗。其有釋梵四天王諸天龍鬼神等入此室者。聞斯上人講說正法。皆樂佛功德之香發心而出。
舍利弗。吾止此室十有二年。初不聞說聲聞辟支佛法。但聞菩薩大慈大悲不可思議諸佛之法。
舍利弗。此室常現八未曾有難得之法。
何等為八。此室常以金色光照晝夜無異。不以日月所照為明。是為一未曾有難得之法。
此室入者不為諸垢之所惱也。是為二未曾有難得之法。
此室常有釋梵四天王他方菩薩來會不絕。是為三未曾有難得之法。
此室常說六波羅密不退轉法。是為四未曾有難得之法。
此室常作天人第一之樂。絃出無量法化之聲。是為五未曾有難得之法。
此室有四大藏衆寶積滿。賙窮濟乏求得無盡。是為六未曾有難得之法。
此室釋迦牟尼佛。阿彌陀佛。阿閦佛。寶德。寶燄。寶月。寶嚴。難勝。師子響。一切利成。如是等十方無量諸佛。是上人念時。即皆為來廣說諸佛秘要法藏。說已還去。是為七未曾有難得之法。
此室一切諸天嚴飾宮殿諸佛淨土皆於中現。是為八未曾有難得之法。
舍利弗。此室常現八未曾有難得之法。誰有見斯不思議事而復樂於聲聞法乎。
舍利弗言。汝何以不轉女身。
天曰。我從十二年來。求女人相了不可得。當何所轉。譬如幻師化作幻女。若有人問。何以不轉女身。是人為正問不。
舍利弗言。不也。幻無定相當何所轉。
天曰。一切諸法亦復如是。無有定相。云何乃問不轉女身。
即時天女以神通力變舍利弗令如天女。天自化身如舍利弗。而問言。何以不轉女身。
舍利弗以天女像而答言。我今不知何轉而變為女身。
天曰。舍利弗。若能轉此女身。則一切女人亦當能轉。如舍利弗非女而現女身。一切女人亦復如是。雖現女身而非女也。是故佛說。一切諸法非男非女。
即時天女還攝神力。舍利弗身還復如故。
天問舍利弗。女身色相今何所在。
舍利弗言。女身色相無在無不在。
天曰。一切諸法亦復如是。無在無不在。夫無在無不在者。佛所說也。
舍利弗問天。汝於此沒當生何所。
天曰。佛化所生吾如彼生。
曰。佛化所生非沒生也。
天曰。衆生猶然無沒生也。
舍利弗問天。汝久如當得阿耨多羅三藐三菩提。
天曰。如舍利弗還為凡夫。我乃當成阿耨多羅三藐三菩提。
舍利弗言。我作凡夫無有是處。
天曰。我得阿耨多羅三藐三菩提亦無是處。所以者何。菩提無住處。是故無有得者。
舍利弗言。今諸佛得阿耨多羅三藐三菩提。已得當得。如恒河沙。皆謂何乎。
天曰。皆以世俗文字數故說有三世。非謂菩提有去來今。
天曰。舍利弗。汝得阿羅漢道耶。
曰。無所得故而得。
天曰。諸佛菩薩亦復如是。無所得故而得。
爾時維摩詰。語舍利弗。是天女已曾供養九十二億諸佛。已能遊戲菩薩神通。所願具足得無生忍住不退轉。以本願故隨意能現教化衆生。


Quán Chúng sinh phẩm
Đệ thất

Nhĩ thời, Văn-thù-sư-lợi vấn Duy-ma-cật ngôn: Bồ Tát vân hà quán ư chúng sinh?
Duy-ma-cật ngôn: Thí như ảo sư kiến sở ảo nhân. Bồ Tát quán chúng sinh vi nhược thử.
Như trí giả kiến thủy trung nguyệt. Như kính trung kiến kỳ diện tượng. Như nhiệt thời diệm. Như hô thinh hưởng. Như không trung vân. Như thủy tu mạt. Như thủy thượng bào. Như ba tiêu kiên. Như điện cửu trụ. Như đệ ngũ đại. Như đệ lục ấm. Như đệ thất tình. Như thập tam nhập. Như thập cửu giới. Bồ Tát quán chúng sinh vi nhược thử.
Như vô sắc giới sắc. Như tiều cốc nha. Như Tu-đà-hoàn thân kiến. Như A-na-hàm nhập thai. Như A-la-hán tam độc. Như đắc nhẫn Bồ Tát tham nhuế hủy cấm. Như Phật phiền não tập. Như manh giả kiến sắc. Như nhập diệt tận định xuất nhập tức. Như không trung điểu tích. Như thạch nữ nhi. Như hóa nhân phiền não. Như mộng sở kiến dĩ ngộ. Như diệt độ giả thọ thân. Như vô yên chi hỏa. Bồ Tát quán chúng sinh vi nhược thử.
Văn-thù-sư-lợi ngôn: Nhược Bồ Tát tác thị quán giả, vân hà hành từ?
Duy-ma-cật ngôn: Bồ Tát tác thị quán dĩ, tự niệm: Ngã đương vị chúng sinh, thuyết như tư pháp, thị tức chân thật từ dã. Hành tịch diệt từ, vô sở sinh cố. Hành bất nhiệt từ, vô phiền não cố. Hành đẳng chi từ, đẳng tam thế cố. Hành vô tranh từ, vô sở khởi cố. Hành bất nhị từ, nội ngoại bất hiệp cố. Hành bất hoại từ, tất cánh tận cố. Hành kiên cố từ, tâm vô hủy cố. Hành thanh tịnh từ, chư pháp tánh tịnh cố. Hành vô biên từ, như hư không cố. Hành A-la-hán từ, phá kết tặc cố. Hành Bồ Tát từ, an chúng sinh cố. Hành Như Lai từ, đắc như tướng cố. Hành Phật chi từ, giác chúng sinh cố. Hành tự nhiên từ, vô nhân đắc cố.
Hành Bồ-đề từ, đẳng nhất vị cố. Hành vô đẳng từ, đoạn chư ái cố. Hành đại bi từ, đạo dĩ Đại thừa cố. Hành vô yếm từ, quán không, vô ngã cố. Hành pháp thí từ, vô di tích cố. Hành trì giới từ, hóa hủy cấm cố. Hành nhẫn nhục từ, hộ bỉ ngã cố. Hành tinh tấn từ, hà phụ chúng sinh cố. Hành thiền định từ, bất thọ vị cố. Hành trí huệ từ, vô bất tri thời cố. Hành phương tiện từ, nhất thiết thị hiện cố. Hành vô ẩn từ, trực tâm thanh tịnh cố. Hành thâm tâm từ, vô tạp hạnh cố. Hành vô cuống từ, bất hư giả cố. Hành an lạc từ, linh đắc Phật lạc cố. Bồ Tát chi từ vi nhược thử dã.
Văn-thù-sư-lợi hựu vấn: Hà vị vi bi?
Đáp viết: Bồ Tát sở tác công đức, giai dữ nhất thiết chúng sinh cộng chi.
Hà vị vi hỷ?
Đáp viết: Hữu sở nhiêu ích, hoan hỷ vô hối.
Hà vị vi xả?
Đáp viết: Sở tác phước hữu, vô sở hy vọng.
Văn-thù-sư-lợi hựu vấn: Sinh tử hữu úy, Bồ Tát đương hà sở y?
Duy-ma-cật ngôn: Bồ Tát ư sinh tử úy trung, đương y Như Lai công đức chi lực.
Văn-thù-sư-lợi hựu vấn: Bồ Tát dục y Như Lai công đức chi lực, đương ư hà trụ?
Đáp viết: Bồ Tát dục y Như Lai công đức lực giả, đương trụ độ thoát nhất thiết chúng sinh.
Hựu vấn: Dục độ chúng sinh, đương hà sở trừ?
Đáp viết: Dục độ chúng sinh, trừ kỳ phiền não.
Hựu vấn: Dục trừ phiền não, đương hà sở hành?
Đáp viết: Đương hành chánh niệm.
Hựu vấn: Vân hà hành ư Chánh niệm?
Đáp viết: Đương hành bất sinh bất diệt.
Hựu vấn: Hà pháp bất sinh? Hà pháp bất diệt?
Đáp viết: Bất thiện bất sinh. Thiện pháp bất diệt.
Hựu vấn: Thiện bất thiện, thục vi bổn?
Đáp viết: Thân vi bổn.
Hựu vấn: Thân, thục vi bổn?
Đáp viết: Dục tham vi bổn.
Hựu vấn: Dục tham, thục vi bổn?
Đáp viết: Hư vọng phân biệt vi bổn.
Hựu vấn: Hư vọng phân biệt, thục vi bổn?
Đáp viết: Điên đảo tưởng vi bổn.
Hựu vấn: Điên đảo tưởng, thục vi bổn?
Đáp viết: Vô trụ vi bổn.
Hựu vấn: Vô trụ, thục vi bổn?
Đáp viết: Vô trụ tắc vô bổn.
Văn-thù-sư-lợi! Tùng vô trụ bổn lập nhất thiết pháp.
Thời, Duy-ma-cật thất, hữu nhất thiên nữ, kiến chư thiên nhân, văn sở thuyết pháp, tiện hiện kỳ thân. Tức dĩ thiên hoa, tán chư Bồ Tát, đại đệ tử thượng. Hoa chí chư Bồ Tát, tức giai đọa lạc, chí đại đệ tử, tiện trước bất đọa. Nhất thiết đệ tử thần lực khử hoa, bất năng linh khử.
Nhĩ thời, thiên nữ vấn Xá-lỵ-phất: Hà cố khử hoa?
Đáp viết: Thử hoa bất như pháp, thị dĩ khử chi.
Thiên viết: Vật vị thử hoa vi bất như pháp. Sở dĩ giả hà? Thị hoa vô sở phân biệt. Nhân giả tự sinh phân biệt tưởng nhĩ. Nhược ư Phật pháp xuất gia sở hữu phân biệt vi bất như pháp. Nhược vô sở phân biệt, thị tắc như pháp. Quán chư Bồ Tát, hoa bất trước giả, dĩ đoạn nhất thiết phân biệt tưởng cố. Thí như nhân úy thời, phi nhân đắc kỳ tiện. Như thị đệ tử úy sinh tử cố, sắc, thanh, hương, vị, xúc đắc kỳ tiện dã. Dĩ ly úy giả, nhất thiết ngũ dục vô năng vi dã. Kết tập vị tận, hoa trước thân nhĩ. Kết tập tận giả, hoa bất trước dã.
Xá-lỵ-phất ngôn: Thiên chỉ thử thất, kỳ dĩ cửu như?
Đáp viết: Ngã chỉ thử thất, như kỳ niên giải thoát.
Xá-lỵ-phất ngôn: Chỉ thử cửu da?
Thiên viết: Kỳ niên giải thoát, diệc hà như cửu?
Xá-lỵ-phất mặc nhiên bất đáp.
Thiên viết: Như hà kỳ cựu đại trí nhi mặc?
Đáp viết: Giải thoát giả, vô sở ngôn thuyết. Cố ngô ư thị bất tri sở vân.
Thiên viết: Ngôn thuyết, văn tự giai giải thoát tướng. Sở dĩ giả hà? Giải thoát giả, bất nội, bất ngoại, bất tại lưỡng gian. Văn tự diệc bất nội, bất ngoại, bất tại lưỡng gian.
Thị cố, Xá-lỵ-phất! Vô ly văn tự thuyết giải thoát dã. Sở dĩ giả hà? Nhất thiết chư pháp thị giải thoát tướng.
Xá-lỵ-phất ngôn: Bất phục dĩ ly dâm, nộ, si vi giải thoát hồ?
Thiên viết: Phật vị tăng thượng mạn nhân, thuyết: ly dâm nộ si vi giải thoát nhĩ. Nhược vô tăng thượng mạn giả, Phật thuyết: dâm nộ si tánh, tức thị giải thoát.
Xá-lỵ-phất ngôn: Thiện tai, thiện tai! Thiên nữ, nhữ hà sở đắc, dĩ hà vi chứng, biện nãi như thị?
Thiên viết: Ngã vô đắc, vô chứng, cố biện như thị. Sở dĩ giả hà? Nhược hữu đắc, hữu chứng giả, tắc ư Phật pháp vi tăng thượng mạn.
Xá-lỵ-phất vấn thiên: Nhữ ư tam thừa, vi hà chí cầu?
Thiên viết: Dĩ Thanh văn pháp hóa chúng sinh cố, ngã vi Thanh văn. Dĩ nhân duyên pháp hóa chúng sinh cố, ngã vi Bích chi Phật. Dĩ đại bi pháp hóa chúng sinh cố, ngã vi Đại thừa.
Xá-lỵ-phất! Như nhân nhập chiêm-bặc lâm, duy khứu chiêm-bặc, bất khứu dư hương. Như thị nhược nhập thử thất, đản văn Phật công đức chi hương, bất nhạo văn Thanh văn, Bích chi Phật công đức hương dã.
Xá-lỵ-phất! Kỳ hữu Thích, Phạm, Tứ thiên vương, chư thiên, long, quỷ thần đẳng, nhập thử thất giả, văn tư thượng nhân giảng thuyết chánh pháp, giai nhạo Phật công đức chi hương, phát tâm nhi xuất.
Xá-lỵ-phất! Ngô chỉ thử thất thập hữu nhị niên, sơ bất văn thuyết Thanh văn, Bích chi Phật pháp. Đản văn Bồ Tát đại từ đại bi, bất khả tư nghị chư Phật chi pháp.
Xá-lỵ-phất! Thứ thất thường hiện bát vị tằng hữu nan đắc chi pháp.
Hà đẳng vi bát? Thử thất thường dĩ kim sắc quang chiếu, trú dạ vô dị. Bất dĩ nhật nguyệt sở chiếu vi minh. Thị vi nhất vị tằng hữu nan đắc chi pháp.
Thử thất nhập giả, bất vi chư cấu chi sở não giã. Thị vi nhị vị tằng hữu nan đắc chi pháp.
Thử thất thường hữu Thích, , Tứ thiên vương, tha phương Bồ Tát lai hội bất tuyệt. Thị vi tam vị tằng hữu nan đắc chi pháp.
Thử thất thường thuyết lục ba-la-mật, bất thối chuyển pháp. Thị vi tứ vị tằng hữu nan đắc chi pháp.
Thử thất thường tác thiên nhân đệ nhất chi nhạc, huyền xuất vô lượng pháp hóa chi thanh. Thị vi ngũ vị tằng hữu nan đắc chi pháp.
Thử thất hữu tứ đại tạng, chúng bảo tích mãn, chu cùng tế phạp, cầu đắc vô tận. Thị vi lục vị tằng hữu nan đắc chi pháp.
Thử thất Thích-ca Mâu-ni Phật, A-di-đà Phật, A-súc Phật, Bảo Đức, Bảo Viêm, Bảo Nguyệt, Bảo Nghiêm, Nan Thắng, Sư Tử Hưởng, Nhất Thiết Lợi Thành, như thị đẳng thập phương vô lượng chư Phật, thị thượng nhân niệm thời, tức giai vị lai, quảng thuyết chư Phật bí yếu pháp tạng. Thuyết dĩ hoàn khứ. Thị vi thất vị tằng hữu nan đắc chi pháp.
Thử thất, nhất thiết chư thiên nghiêm sức cung điện, chư Phật tịnh độ, giai ư trung hiện. Thị vi bát vị tằng hữu nan đắc chi pháp.
Xá-lỵ-phất! Thử thất thường hiện bát vị tằng hữu nan đắc chi pháp. Thùy hữu kiếnbất tư nghị sự, nhi phục nhạo ư Thanh văn pháp hồ?
Xá-lỵ-phất ngôn: Nhữ hà dĩ bất chuyển nữ thân?
Thiên viết: Ngã tùng thập nhị niên lai, cầu nữ nhân tướng, liễu bất khả đắc. Đương hà sở chuyển? Thí như ảohóa tác ảo nữ. Nhược hữu nhân vấn: Hà dĩ bất chuyển nữ thân? Thị nhân vi chánh vấn phủ?
Xá-lỵ-phất ngôn: Phất dã. Ảo vô định tướng, đương hà sở chuyển?
Thiên viết: Nhất thiết chư pháp diệc phục như thị, vô hữu định tướng. Vân hà nãi vấn: bất chuyển nữ thân?
Tức thời, thiên nữthần thông lực, biến Xá-lỵ-phất linh như thiên nữ. Thiên tự hóa thân như Xá-lỵ-phất, nhi vấn ngôn: Hà dĩ bất chuyển nữ thân?
Xá-lỵ-phất dĩ thiên nữ tượng nhi đáp ngôn: Ngã kim bất tri hà chuyển nhi biến vi nữ thân.
Thiên viết: Xá-lỵ-phất! Nhược năng chuyển thử nữ thân, tắc nhất thiết nữ nhân diệc đương năng chuyển. Như Xá-lỵ-phất, phi nữ nhi hiện nữ thân. Nhất thiết nữ nhân diệc phục như thị, tuy hiện nữ thân, nhi phi nữ dã. Thị cố Phật thuyết: Nhất thiết chư pháp phi nam phi nữ.
Tức thời, thiên nữ hoàn nhiếp thần lực. Xá-lỵ-phất thân hoàn phục như cố.
Thiên vấn Xá-lỵ-phất: Nữ thân sắc tướng, kim hà sở tại?
Xá-lỵ-phất ngôn: Nữ thân sắc tướng vô tại, vô bất tại.
Thiên viết: Nhất thiết chư pháp diệc phục như thị, vô tại, vô bất tại. Phù vô tại, vô bất tại giả, Phật sở thuyết dã.
Xá-lỵ-phất vấn Thiên: Nhữ ư thử một, đương sinh hà sở?
Thiên viết: Phật hóa sở sinh, ngô như bỉ sinh.
Viết: Phật hóa sở sinh, phi một sinh dã.
Thiên viết: Chúng sinh do nhiên, vô một sinh dã.
Xá-lỵ-phất vấn thiên: Nhữ cửu như đương đắc A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề?
Thiên viết: Như Xá-lỵ-phất hoàn vi phàm phu, ngã nãi đương thành A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề.
Xá-lỵ-phất ngôn: Ngã tác phàm phu, vô hữu thị xứ.
Thiên viết: Ngã đắc A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề, diệc vô thị xứ. Sở dĩ giả hà? Bồ-đề vô trụ xứ. Thị cố vô hữu đắc giả.
Xá-lỵ-phất ngôn: Kim chư Phật đắc A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề, dĩ đắc, đương đắc như Hằng hà sa. Giai vị hà hồ?
Thiên viết: Giai dĩ thế tục văn tự sổ cố, thuyết hữu tam thế. Phi vị Bồ-đề hữu khứ lai, kim.
Thiên viết: Xá-lỵ-phất! Nhữ đắc A-la-hán đạo da?
Viết: Vô sở đắc cố nhi đắc.
Thiên viết: Chư Phật, Bồ Tát diệc phục như thị: vô sở đắc cố nhi đắc.
Nhĩ thời, Duy-ma-cật ngứ Xá-lỵ-phất: Thị thiên nữ dĩ tằng cúng dường cửu thập nhị ức chư Phật, dĩ năng du hý Bồ Tát thần thông, sở nguyện cụ túc, đắc vô sinh nhẫn, trụ bất thối chuyển. Dĩ bổn nguyện cố, tùy ý năng hiện, giáo hóa chúng sinh.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 33125)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(Xem: 6517)
Phật Đà Thập Đại Đệ Tử Tán - Hòa thượng Tuyên Hóa giảng thuật, Nguyễn Minh Tiến Việt dịch
(Xem: 11238)
Các tác phẩm của Thầy phần lớn được dịch từ Hán tạng, gồm giới kinh và các nguồn văn học Phật giáo Đại thừa với tư tưởng uyên thâm về triết họctâm lý học.
(Xem: 30387)
Đã phát khởi chí nguyện Đại thừa, lại kiên quyết thực hiện chí nguyện ấy, đó thực sự là cung cách hùng dũng của con sư tử đang vươn mình, và do đó phải được nhìn đến bằng cung cách của con voi chúa.
(Xem: 30424)
Vua và phu nhân gởi thơ cho Thắng Man, đại lược ca ngợi công đức vô lượng của Như Lai, rồi sai kẻ nội thị tên Chiên Đề La đem thư đến nước A Du Xà... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 7961)
Tất cả các nhà đạo học và thế học muốn thành tựu kết quả tốt đẹp trong cuộc đời, thì trước hết, họ phải trải qua quá trình kham nhẫn, nỗ lực, tu, học, rèn luyện tự thân, giúp đỡ, và đem lại lợi ích cho tha nhân.
(Xem: 12157)
Bảy Đức Thế Tôn quá khứ từ Thế Tôn Tỳ Bà Thi, Thế Tôn Thích Ca, và chư Thế Tôn vị lai đều chứng ngộ Vô Thượng Bồ Đề từ sự chứng ngộ sự thật Duyên khởi.
(Xem: 12227)
Trong các bản Kinh Pháp Cú, phổ biến nhất hiện nay là Kinh Pháp Cú Nam Truyền, tức là Kinh Pháp Cú dịch theo Tạng Pali.
(Xem: 11577)
Có lần Đức Phật sống tại Rajagaha (Vương Xá) trong Khu Rừng Tre gần Nơi Nuôi Những Con Sóc. Lúc bấy giờ, vị Bà La Môn tên là Akkosa Bharadvaja đã nghe người ta đồn đãi như sau:
(Xem: 12778)
Tôi nghe như vầy. Có lần Đức Phật, trong khi đi hoằng pháp ở nước Kosala nơi có một cộng đồng rất đông Tỳ Kheo, ngài đi vào một tỉnh nhỏ nơi cư trú của người Kalama
(Xem: 34707)
Quy Sơn Cảnh Sách Học Giải - Tác Giả: Thiền Sư Quy Sơn Linh Hựu; Thích Thiện Trí (Thánh Tri) Phỏng Việt Dịch và Viết Bài Học Giải
(Xem: 9824)
Kinh này khởi đầu bằng lời người Bà La Môn hỏi rằng làm thế nào người ta có thể tự thanh tịnh hóa khi nhìn thấy một vị Thượng nhân đã Thanh tịnh,
(Xem: 52233)
Nguyên xưa ngài Quán Nguyệt Pháp sư đem hai thời kinh khóa tụng: Mai đóng chung và chiều nhập chung lại làm một đại thể làm một tập lớn. - Chú giải: Ngài Quán Nguyệt; Dịch giả: HT Thích Khánh Anh
(Xem: 10721)
Tôi nghe như vậy: Một thời, đức Thế Tôn trú tại thành phố Śrāvastī (Xá-vệ), nơi rừng cây Jeta (Kì-đà), vườn của Ông Anāthapiṇḍada (Cấp-cô-độc),
(Xem: 10489)
Bài kinh này trong đoạn cuối (bài kệ 787), câu “không nắm giữ gì, cũng không bác bỏ gì” được Thanissaro Bhikkhu ghi chú rằng ...
(Xem: 10693)
Lúc bấy giờ, Bồ tát Đại sĩ Akṣayamatir[1] từ chỗ ngồ đứng dậy, vắt thượng y[2] qua một bên vai, chắp hai tay[3] hướng về đức Thế Tôn và thưa rằng:
(Xem: 10443)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào?
(Xem: 13050)
Đại ý bài kinh này Đức Phật dạy chúng đệ tử không nên truy tìm quá khứ, không nên ước vọng tương lai vì quá khứ đã đoạn tận.
(Xem: 16225)
Evaṃ me sutaṃ, “như vầy tôi nghe”, là lời Ngài Ananda bắt đầu mỗi bài kinh mà có lẽ không Phật tử nào là không biết.
(Xem: 21804)
Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538), thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm.
(Xem: 9590)
Phật dạy giới này áp dụng chung cho tất cả các Phật tử tại gia, không phân biệt Phật tử này thuộc thành phần hay đẳng cấp xã hội nào.
(Xem: 7099)
Sa-môn Thích Đàm Cảnh dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, vào thời Tiêu-Tề (479-502). Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn, tại Canada, năm 2018.
(Xem: 10369)
Đức Phật A Di Đà tự thân có ánh sáng vô lượng, chiếu khắp cả mười phương mà không có vật gì có thể ngăn che. Vì vậy nên Phật A Di Đà có nghĩa là Vô Lượng Quang Phật.
(Xem: 12710)
Nguyên tác Hán văn: Tì-kheo Linh Diệu, tông Thiên Thai soạn - Dịch sang tiếng Việt: Thích Thọ Phước
(Xem: 12759)
Ngài Buddhaghosa sanh ra và lớn lên nước Magadha, thuộc Trung Ấn Độ, vào thế kỷ thứ V trong ngôi làng Ghosa, gần địa danh nơi đức Phật thành đạo Bodhigaya
(Xem: 16204)
Nghiên Cứu Về Kinh A Hàm (Ãgama, Sanscrist)
(Xem: 16505)
Ai nói như sau, này các Tỷ-kheo: "Người này làm nghiệp như thế nào, như thế nào, người ấy cảm thọ như vậy, như vậy".
(Xem: 13834)
Đây là những điều tôi nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Cấp Cô Độc trong vườn cây Kỳ Đà ở thành Vương Xá.
(Xem: 16557)
Vào thời Đức Thích-ca-mâu-ni, không có hệ thống chữ viết được phổ biếnẤn Độ. Do đó, những thuyết giảng của Ngài được ghi nhớ và ...
(Xem: 12094)
"Lại nữa, lúc bấy giờ Mahāmati thưa rằng: “Bạch Thế Tôn, ngài đã từng dạy rằng: từ lúc Như Lai chứng nghiệm giác ngộ cho đến...
(Xem: 13784)
Kinh Địa Tạng là một trong các kinh Đại thừa được phổ biến rộng rãi trong quần chúng Việt Nam từ hơn nửa thế kỷ nay song song với các kinh Kim Cương, Di Đà, Phổ Môn...
(Xem: 14300)
Nguyên tác: Tôn giả Thế Thân (Acarya Vasubandhu) - Hán dịch: Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng; Việt dịch: Tỳ khưu Tâm Hạnh
(Xem: 9177)
No. 1613 - Nguyên tác: Tôn giả An Huệ; Dịch Hán: Tam Tạng Pháp sư Địa-bà-ha-la; Dịch Việt: Tâm Hạnh
(Xem: 11727)
Duy thức nhị thập luận, do bồ tát Thế Thân soạn, ngài Huyền trang dịch vào đời Đường... được thu vào Đại chính tạng, tập 31, No.1590.
(Xem: 11248)
Bồ-tát Trần Na tạo luận. Tam tạng Pháp sư Huyền Trang phụng chiếu dịch. Việt dịch: Quảng Minh
(Xem: 16276)
Nghe như vầy, một thời Đức Phật ở nước Xá Vệ ở vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc cùng chúng đại Tỳ Kheo năm trăm vị. Bấy giờ các thầy Tỳ Kheo...
(Xem: 14325)
No. 699; Hán dịch: Đời Đại Đường, Trung Thiên Trúc, Tam tạng Pháp sư Địa bà ha la, Đường dịch là Nhật Chiếu
(Xem: 16183)
Đức Phật Thích-Ca Mưu-Ni, bắt đầu chuyển pháp-luân, độ cho năm vị Tỳ-Khưu là Tôn-giả Kiều-Trần-Như v.v... Sau cùng, Ngài thuyết pháp độ cho ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 12680)
Kinh Phạm Võng nằm trong Đại Chánh Tạng, tập 24, ký hiệu 1484, gọi đủ là Phạm võng kinh Lô xá na Phật thuyết bồ tát tâm địa giới phẩm đệ thập
(Xem: 12059)
Phật thuyết-giảng Kinh Phạm-Võng để dạy về giới-luật, và các pháp cao-siêu vượt thoát được sáu mươi hai kiến-chấp vốn là các tà-kiến đã...
(Xem: 11778)
Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi, tại Jetavana, vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Độc). Ở đây,,,
(Xem: 15639)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434; Dịch Phạn - Hán: Tam Tạng Cát-ca-dạ, Dịch Hán - Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ; Hiệu đính: HT Thích Như Điển
(Xem: 11494)
Đời Đường, Thận Thủy Sa Môn Huyền Giác Soạn; Thánh Tri dịch nghĩa Việt và viết bài học giải...
(Xem: 14010)
Phật giáo được khai sáng ở Ấn-độ vào năm 589 trước kỉ nguyên tây lịch (năm đức Thích Ca Mâu Ni thành đạo), và đã tồn tại liên tục, phát triển không ngừng trên ...
(Xem: 11994)
Trong truyền thống Phật giáo Bắc truyền, Dược Sư là một bản kinh thường được trì tụng nhằm mục đích giải trừ tật bệnh, cầu nguyện bình an...
(Xem: 12605)
Thích-ca là phiên âm của tiếng Phạn. Phiên âm Hán Việt là Năng Nhân. Tức là họ của đấng hóa Phật ở cõi Ta-bà...
(Xem: 14972)
Kinh chuyển Pháp luân là bài thuyết Pháp đầu tiên của Đức Phật Thích-ca sau khi Ngài đã đắc đạo.
(Xem: 11942)
Ba Ngàn Oai Nghi Của Vị Đại Tỳ Kheo - Được xếp vào tập T24 - Kinh số 1470 - Tổng cộng kinh này có 2 quyển
(Xem: 13104)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 14507)
Satipatthana Sutta là một bản kinh quan trọng làm nền tảng cho một phép thiền định chủ yếu trong Phật giáo là Vipassana...
(Xem: 20653)
Kinh Tứ Thập Nhị Chương là một bài Kinh được truyền bá khá rộng rải ở các Tồng Lâm Tự Viện của Trung QuốcViệt Nam từ xưa đến nay.
(Xem: 13186)
Bản dịch này được trích ra từ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh Vol. 48, No. 2010. Bởi vì lời dạy của Tổ Tăng Xán quá sâu sắc, súc tích, và bao hàm trong 584 chữ Hán,
(Xem: 10923)
Dịch từ Phạn sang Tạng: Kluḥi dbaṅ-po, Lhaḥi zla-ba; Dịch Tạng sang Việt: Phước Nguyên
(Xem: 20667)
Trí Phật là trí Kim – cang, Thân Phật là thân Kim – Sắc, cõi Phật là cõi Hoàng – kim, lời Phật tất nhiên là lời vàng.
(Xem: 14329)
Bấy giờ Hòa Thượng Vakkali nhìn thấy Đức Phật đang đi đến từ xa, và ông đã cố gắng ngồi dậy.
(Xem: 20336)
Xin dâng hết lên Tam Bảo chứng minh và xin Quý Ngài cũng như Quý Vị tùy nghi xử dụng in ấn tiếp tục hay trì tụng cũng như cho dịch ra những ngôn ngữ khác...
(Xem: 17617)
Niệm Phật Tâm Muội do HT Hư Vân soạn, Sa môn Hiển Chơn dịch; Tọa Thiền Dụng Tâm Ký do Viên Minh Quốc Sư soạn, HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 13997)
Khi Bồ-tát Quán Tự Tại hành sâu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, ngài soi thấy năm uẩn đều KHÔNG, liền qua hết thảy khổ ách.
(Xem: 31840)
Viết ra các bài Phật học thường thức này, chúng tôi không có tham vọng giới thiệu toàn bộ Phật pháp và chỉ cốt giúp cho các bạn sơ cơ hiểu được một cách đúng đắn, đạo lý năm thừa trong Phật giáo mà thôi.
(Xem: 11998)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, Kinh văn số 1675. Tác giả: Long Thọ Bồ Tát; Sa Môn Sắc Tử dịch Phạn sang Hán; HT Thích Như Điển dịch Việt
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant