Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Tác Giả Authors
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

05. Cư sĩ và việc hoằng pháp

Saturday, February 25, 201200:00(View: 5182)
05. Cư sĩ và việc hoằng pháp

ĐÓNG GÓP CỦA CƯ SĨ 

TRONG VIỆC HOẰNG PHÁP TẠI HẢI NGOẠI
(Kỷ Yếu Hội Luận 2011, Hội Phật Học Đuốc Tuệ)

CƯ SĨ VÀ VIỆC HOẰNG PHÁP
Tâm Quang Vĩnh Hảo

Sau khi đạt được toàn giác, nếu Đức Phật không vận chuyển bánh xe Chánh Pháp lần đầu tiên tại vườn Nai, nếu bốn chúng đệ tử của ngài suốt 2500 năm qua không tiếp nhận, thực hànhtruyền bá giáo lý, sẽ không có Phật giáo hiện hữu trên đời, và không có Phật Pháp để chúng ta học tập, hành trì ngày nay.

Không lâu khi Tăng đoàn mới thành lập với 60 thánh giả chứng đắc A-la-hán, Đức Phật đã có lần kêu gọi các vị này lên đường truyền bá chánh pháp với lời lẽ thật cảm động như sau:

"Này các Tỳ kheo!... hãy lên đường vì lợi lạc của nhiều người, vì hạnh phúc của số đông, vì lòng lân mẫn đối với thế gian, vì lợi lạc, vì hạnh phúc của trời và người. Các ông hãy đi, nhưng đừng đi hai người cùng một hướng, hãy đi mỗi người một ngả, hãy truyền bá chánh pháp... Hãy phất lên ngọn cờ của bậc thiện trí, hãy truyền dạy giáo pháp cao siêu, hãy mang lại sự tốt đẹp cho người khác; được vậy, là các ông đã hoàn tất nhiệm vụ". (1)

Lời dạy tha thiết này trở thành tuyên ngôn, là cương lĩnh, nêu rõ động cơ và mục đích của việc hoằng pháp.

 

MỤC ĐÍCH HOẰNG PHÁP

Không giống bất kỳ tôn giáo nào khác, người theo Phật truyền bá giáo lý không phải để được ban thưởng đời này hay đời sau, không phải để vinh danh Đức Phật hay thần linh nào, cũng không phải để mở rộng tổ chức Phật giáo với cơ sở và quần chúng đông đảo, hoặc mong mỏi Phật giáo trở thành độc tôn trong một quốc gia, hay trên toàn thế giới.

Động cơ hoằng pháp của Phật giáolòng lân mẫn đối với thế gian.

Mục đích hoằng pháp của Phật giáo rất đơn giản, nhưng tối quan trọng, và cảm động, đó là: lợi lạc, vì hạnh phúc của số đông, vì sự tốt đẹp cho người khác.

Hoằng pháp không phải là để đền ơn Tam Bảo (Phật, Pháp, Tăng). Hoằng pháp không phải vì đức tối thắng của Phật, không phải vì lẽ cao siêu của Pháp, cũng không phải vì tính thanh tịnh trang nghiêm của Tăng đoàn. Hoằng phápvì lợi ích, an lạc của chúng sanh. Chỉ có như thế; và đây là ý nghĩa cao đẹp nhất trong việc truyền bá của Phật giáo; mà cũng chính qua ý nghĩa này, Phật giáo mới đến với nhân loại bằng con đường hòa bình, khoan dung.

 

SỨ MỆNH HOẰNG PHÁP

Sứ mệnh hoằng pháp thật quan trọng, và không phải là việc riêng của người xuất gia. Chính người tại gia, ngay từ thời Phật cho đến nay, dù ở bất cứ quốc gia nào, thời đại nào, sinh hoạt trong giáo hội hay hệ phái nào, đã đóng một vai trò vô cùng trọng yếu trong tất cả các sinh hoạt của Phật giáo, trong đó tất nhiên phải kể đến hoằng pháp.

Theo cơ cấu hình thành bốn chúng đệ tử Phật, xuất gia có hai chúng (tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni) thì tại gia cũng có hai chúng (ưu-bà-tắc, ưu-bà-di), ngang bằng như nhau. Từ điểm này, không thể nói việc hoằng pháp là việc của Tăng Ni, còn cư sĩ tại gia chỉ là những kẻ hộ trì, hỗ trợ.

Đức Phật là kẻ đã hoàn toàn giải thoát, giác ngộ. Thực hành lời Phật dạy là nhắm vào mục tiêu giải thoát, giác ngộ như Phật. Trong thời kỳ không có Phật thì duyên may hãy còn Pháp, là kinh điển, giáo lý do Phật dạy được ghi chép, truyền lại. Pháp ấy, nếu không có hàng Tăng Ni xuất gia giốc trọn cuộc đời để hành trìtruyền đạt thì chỉ là học thuyết trên sách vở, không thể tồn tại như một nền giáo lý thực tiễn sống động, mang lại lợi ích an lạc cho nhân loại suốt hơn 25 thế kỷ qua. Đây là nền tảng để từ đó Tam Bảo được hình thành như là biểu tượng nương tựa tâm linh và cũng là mục tiêu hướng đến của người theo Phật.

Nhưng ai là đối tượng để Tăng Ni truyền đạt Phật Pháp? – Chính là những người cư sĩ, những người tại gia theo Phật.

Những người cư sĩ đón nhận Phật Pháp ở đâu, khi nào? – Từ nơi tu viện, chùa chiền, tịnh xá, các đạo tràng và những trụ xứ mà Tăng Ni có mặt; và vào những thời điểm ở các trụ xứ ấy có Tăng Ni thuyết pháp, giảng dạy giáo lý.

Nói như thế, có nghĩa rằng những ai có đến chùa gặp Tăng Ni hoặc nhằm vào thời thuyết giảng của Tăng Ni thì kẻ đó được truyền dạy Phật Pháp (bằng thân giáo hay khẩu giáo); còn ngoài ra, đều không có cơ hội đón nhận giáo lý Phật, và không thể nào là đối tượng cho việc hoằng pháp của Tăng Ni. Phật Pháp nếu chỉ được truyền bá theo cách ấy thì đã hoại diệt từ lâu rồi, không làm sao tồn tại đến ngày hôm nay.

Vì vậy, nên hiểu rằng hoằng pháptrách nhiệm của bốn chúng, trong đó những vị xuất gia là những bậc liễu trichứng nghiệm Phật Pháp, truyền dạy Phật Pháp cho hàng cư sĩ tại gia, trong khi chính mỗi cư sĩ là người trực tiếp đem đạo vào đời, cải hóa gia đìnhxã hội.

 

CƯ SĨ LÀ AI?

Theo định nghĩa phổ quát của các hệ phái Phật giáo, cư sĩ là người tại gia theo đạo Phật, đã quy y Tam Bảo, giữ năm giớihộ trì Tam Bảo. Chữ cư sĩ được dịch nghĩa từ chữ gahapati trong tiếng Pali (phiên âm là già-la-việt, hay ca-la-việt); đồng nghĩa với từ upāsaka (ưu-bà-tắc), upāsikā (ưu-bà-di), dịch nghĩa phổ thông là cận-sự nam và cận-sự nữ (những người thân cận hộ trì Tam Bảo). Các từ thông dụng khác trong tiếng Việt là phật-tử (con Phật), thiện nam, thiện nữ, thí chủ, đàn-việt (danapati), tín chủ, v.v… Chữ cư sĩ trải qua thời gian, mặc nhiên được xem là từ ngữ phổ thông nhất có thể nói lên tính chất cốt lõi của người tại gia theo Phật.

Tính chất ấy được tìm thấy trong kinh Tăng Chi Bộ, phần “Thích tử Mahànàma”. Ở đây Đức Phật trả lời Mahànàma câu hỏi thế nào là người (nam) cư sĩ, thế nào là cư sĩ giữ giới, và thế nào là cư sĩ thực hành tự lợi, lợi tha.

“Này Mahànàma, khi nào quy y Phật, quy y Pháp, quy y chúng Tăng, cho đến như vậy là người nam cư sĩ.”

“Này, Mahànàma, khi nào người nam cư sĩ từ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của không cho, từ bỏ tà hạnh trong các dục, từ bỏ nói láo, từ bỏ đắm say rượu men, rượu nấu, cho đến như vậy, là người nam cư sĩ giữ giới.”

“Này Mahànàma, khi nào nam cư sĩ tự mình thành tựu lòng tin và khích lệ người khác thành tựu lòng tin; khi nào tự mình giữ giới và khích lệ người khác giữ giới; khi nào tự mình bố thí và khích lệ người khác bố thí; khi nào tự mình muốn đi đến yết kiến các Tỷ-kheo và khích lệ người khác đi đến yết kiến các Tỷ-kheo; khi nào tự mình muốn nghe diệu pháp và khích lệ người khác nghe diệu pháp; khi nào tự mình thọ trì những pháp đã được nghe và khích lệ người khác thọ trì những pháp đã được nghe; khi nào tự mình suy nghĩ đến ý nghĩa các pháp đã thọ trì và khích lệ người khác suy nghĩ đến ý nghĩa các pháp đã thọ trì; sau khi tự mình biết nghĩa, biết pháp, thực hiện pháp đúng Chánh pháp, khích lệ người khác sau khi biết nghĩa biết pháp, thực hiện pháp đúng Chánh pháp. Cho đến như vậy, này Mahànàma, là nam cư sĩ thực hànhtự lợilợi tha.” (2) Theo đoạn kinh trên, một cư sĩ lý tưởng là người phật-tử tại gia có đầy đủ tín, giới thí.

Tínlòng tin nơi Phật, Pháp và Tăng. Từ sự hiểu biết, quí kính và tín phụng Phật, Pháp, Tăng, người cư sĩ phát nguyện quy y Tam Bảo, chọn Đức Phật làm bậc thầy tối thượng biểu trưng cho giải thoát giác ngộ; chọn sự học hỏi, thực hànhtruyền bá Chánh Pháp làm lý tưởng sống; và chọn Tăng đoàn làm những bậc thầy cao cả, thay mặt Đức Phật hướng dẫn con đường tiến đến giải thoát giác ngộ.

Giới của người cư sĩ tại gianăm giới, tức năm điều bảo vệ con người tránh xa các việc làm tổn hại đến mình và chúng sanh khác: từ bỏ sát sanh, từ bỏ trộm cắp, từ bỏ tà hạnh, từ bỏ nói dốitừ bỏ say sưa, nghiện ngập. Giới (sìla) là học xứ (điều cần học và thực hành), là những điều có khả năng bảo vệ mình tránh những nghiệp xấu-ác. Giới không phải là điều răn cấm cứng nhắc như thói quen suy nghĩ của nhiều người. Cư sĩ tự nguyện quy y Tam Bảo thì cũng tự nguyện giữ giới khi hiểu rõ rằng việc giữ giới sẽ bảo vệ đức hạnh của mình và tạo đời sống an vui, hòa hợp với những người chung quanh. Cư sĩ có thể tùy theo căn cơhoàn cảnh của mình mà phát nguyện giữ thêm các giới khác như thập thiện, bồ-tát (tại gia); nhưng năm giớicăn bản cần giữ gìn để bắt đầu một đời sống lý tưởng của người theo Phật.

Thí là việc bố thí, cúng dường. Thí ở đây không giới hạn trong việc hộ trì Tam Bảo, góp phần in kinh, tô tượng, đúc chuông, xây chùa, mà còn là thiện ý chia sớt, san sẻ với người khác từ tài vật (tài thí), kiến thức về đời sốngPhật Pháp (pháp thí), cho đến sự bình an, không sợ hãi (vô úy thí). Trên căn bản của nhân-quả, bố thí mang lại phước báo cho người thực hành, do đó, cư sĩ nên thực hiện để tạo thuận duyên cho việc tu tập của mình và tha nhân. Ngoài phước báo tất phải gặt hái ở đời này hay đời sau, bố thí còn là phương thức nhằm xả bỏ tâm tham, buông dần những chấp thủ của mình đối với các ràng buộc của đời sống, trước mắt là qua những gì mình sở hữu (ngã sở).

 

VAI TRÒ CỦA CƯ SĨ TRONG VIỆC HOẰNG PHÁP

Định danh chi tiết và có tính cách điển chương như trên là để nhận dạng nhân cách đặc biệt của cư sĩ. Nói chung, cư sĩ là người tại gia phát nguyện quy y Tam Bảo, giữ giới, thực hành bố thí, học và thực hành Phật Pháp trong đời sống hàng ngày để lợi mình, lợi người.

Theo ý nghĩa của hoằng phápduy trìtruyền bá giáo lý vi diệu của Phật, các yếu tố nêu trên của người cư sĩ, nếu thực hiện đúng mức thì đều là việc hoằng pháp.

Quy y Tam Bảo chính là hoằng pháp: Trở về nương tựa Phật, tin nơi Phật tánh sẵn có của mình và lấy việc thành Phật làm cứu cánh tu học; trở về nương tựa Pháp, tin tưởng giáo lý của Phật có khả năng giải thoát khổ đau, đem lại an vui hạnh phúc cho mình và cho người; trở về nương tựa Tăng, tin tưởng Tăng là đoàn thể xuất gia đạo hạnh, dấn mình trên con đường của Phật và có kinh nghiệm dẫn dắt mình đi theo con đường đó một cách vững chắc. Nương tựa và tin tưởng sâu sắc như vậy, tự thân người cư sĩ kiên trì giữ đạo, học đạo, khích lệ người thân làm theo. Pháp Phật nhờ vậy mà được tồn tại và truyền rộng.

Giữ giới chính là hoằng pháp: Việc giữ giới của cư sĩ, tức tự nguyện từ bỏ những điều tiêu cực có thể gây nên rối loạn, phiền não trong đời sống gia đìnhxã hội, tạo nên phẩm cách trong sáng của người đức hạnh, khiến cho kẻ khác tin tưởng, quí trọng và noi gương. Giữ năm giới không những là tự rèn luyện, trau dồi phẩm hạnh của mình mà còn là bài học thân giáo, khẩu giáo đối với tha nhân. Ảnh hưởng của Pháp Phật có thể được nhận xét và đón nhận trực tiếp qua nhân cách của người cư sĩ giữ gìn năm giới.

Thực hành bố thí chính là hoằng pháp: Trong khi giữ giới là tránh xa những điều tổn hại kẻ khác (không làm các việc ác) thì bố thí là hành động cụ thể nhất để mang lại lợi ích cho tha nhân (nên làm các việc lành) (3). Bố thí đứng hàng đầu trong tứ nhiếp pháp (4) mà Phật dạy cho hàng cư sĩ dấn thân vào đời, cải hóa xã hội; và cũng đứng hàng đầu trong lục độ (5). Điều này cho thấy, bố thí không phải là việc hành thiện bình thường mà chính là pháp môn tu, là phương tiện thiện xảo của hàng bồ-tát nhằm cứu độcảm hóa chúng sanh. Về mặt tự lợi, bố thí để diệt trừ tâm tham đắm chấp thủ, cởi bỏ dần sự chấp ngã (như đã nói ở trước); về mặt lợi tha, bố thí để cứu nạn đói khổ, thiếu thốn của tha nhân về phương diện tinh thần cũng như vật chất.

Vậy, qua tín, giới thí nói trên, cư sĩ đã mặc nhiên thực hiện việc hoằng pháp trong đời sống hàng ngày. Nói theo ngôn ngữ thông tục, vai trò của cư sĩvai trò của người trực tiếp giữ đạo và truyền đạo.

Đạo, nếu không giữ, sẽ mất; đã mất, lấy đâu mà truyền. Cho nên, cá nhân mỗi cư sĩ có thể quyết định sự hưng-suy, còn-mất của Phật Pháp ngay trong gia đình của mình. Tăng Ni truyền dạy Phật Pháp cho cư sĩ nơi giảng tòa với thời gian giới hạn, nhất định; và để giữ cho Phật Pháp được lưu chuyển trong nhân gian, chính cư sĩ là những kẻ phải thường trực đối diện và phấn đấu để vượt qua những lôi kéo, quyến dụ của tài lợi, sắc đẹp, danh vọng, hoặc ngay cả sự áp bức, đe dọa của cuộc đời, của ngoại đạo, tà giáoác đảng.

Cho nên, có thể nói rằng trong việc đem đạo vào đời, truyền bá chánh pháp, Tăng Ni gián tiếp, cư sĩ trực tiếp. Trực tiếp ở đây là trong 24 giờ, ngày và đêm, người cư sĩ sống và tiếp cận với con người trong gia đìnhxã hội, trải nghiệm những khổ đau, hạnh phúc, phiền não, an lạc, những được-mất, hơn-thua, vinh-nhục… bằng cả thân và tâm của mình. Đời người cư sĩ, do vậy, là một cuộc dấn thân, trắc nghiệm sở tri và nội lực tu học của mình ngay trong kiếp nhân sinh vô thường, thống khổ. Chính cuộc dấn thân ấy là giữ đạo, truyền đạo; là vai trò hoằng pháp cao đẹp của cư sĩ.

 

CƯ SĨ MỌI THỜI

Theo tài liệu lịch sử cũng như trong thực tế, hàng cư sĩ đã có những đóng góp lớn lao và tích cực hơn trong việc hoằng pháp chứ không phải chỉ qua những gì trình bày ở trước. Một số cư sĩ có thể thuyết giảng hoặc viết sách biên khảo về giáo lý Phật, hoặc góp phần hoằng pháp qua văn học nghệ thuật. Trong một số trường hợp, cư sĩ là thầy dạy của các trường Phật học chuyên khoa dành cho Tăng Ni. Ngoài ra, hình thức cư sĩ của hầu hết các vị bồ-tát trong kinh điển Đại thừa (Quán Thế Âm, Đại Thế Chí, Văn Thù, Phổ Hiền, Duy Ma Cật, Thắng Man, Thiện Tài…) cũng cho thấy vai trò cư sĩ không phải là nhỏ trong công cuộc hoằng pháp, cứu độ chúng sanh.

Trong quá khứ, không thiếu các cư sĩ nổi danh thời Phật như vua Ba-tư-nặc (Pasenadi), trưởng giả Cấp-cô-độc (Anāthapiṇḍika), tín nữ Tỳ-xá-khư (Visākhā); sau thời Phật, có cư sĩ vĩ đại A Dục vương (Ashoka); ở Trung Hoa có cư sĩ quyền uy như Lương Vũ Đế, có cư sĩhọc giả uyên thâm như Lương Khải Siêu; ở Việt Nam thời Lý-Trần có các cư sĩ “triều đình” như Lý Công Uẩn, Lý Thường Kiệt, Trần Nhân Tông, Tuệ Trung Thượng Sỹ, thời hậu-Lê có cư sĩ Nguyễn Trãi, thời Trịnh-Nguyễn có cư sĩ Ngô Thời Nhậm, Nguyễn Du, thời cận đạihiện đại có các cư sĩ danh tiếng là giáo sư, học giả, nhà văn như Lê Đình Thám, Mai Thọ Truyền, Thiều Chửu, Đoàn Trung Còn, Trúc Thiên, Nhất Linh, Nghiêm Xuân Hồng, Bùi Giáng, Phạm Công Thiện, Trịnh Công Sơn…; cũng không thể không nhắc đến các cư sĩ tây phương cận đại như Edwin Arnold, Christmas Humphreys, E. Conze, … và các cư sĩ tiếng tăm lẫy lừng trên màn bạc sân khấu hiện nay tại Hoa Kỳ như Richard Gere, Steven Segal, Tina Turner, Oliver Stone, Orlando Bloom…

Mỗi người cư sĩ, từ xưa đến nay, khắp các quốc gia trên thế giới, đã tùy theo hoàn cảnh và căn trí của mình mà đến với Phật giáo, thực hành giáo lý, góp phần hoằng pháp trong khả năng riêng, bằng những phương thức khác nhau, qua các ngôn ngữvăn hóa khác nhau. Nhưng đâu là điểm đồng nhất của hàng cư sĩ mọi thời đại, mọi quốc độ?

Có hai điểm tương đồng đáng lưu ý ở đây: một là, cư sĩ theo nhân duyên mà đến với Phật, trong một tâm thức tự do, tự nguyện, không hề có sự bó buộc, cưỡng ép; hai là, cũng với tâm thức tự do, cư sĩ phát nguyện quy y Tam Bảo (với lễ nghi hoặc chỉ bằng tâm niệm).

Do tự nguyện mà nghi thức quy y Tam Bảo cũng là một chọn lựa, không phải là điều kiện hay qui định.

Kinh điển ghi chép nhiều cư sĩ đã chứng được thánh quả khi chỉ một lần nghe Phật thuyết pháp, và hầu hết những vị này phát nguyện quy y Tam Bảo sau khi giác ngộ. Trưởng giả Úc-già (Ugga) trong Trung A Hàm là một điển hình (6). Điểm này cho thấy vấn đề chứng thánh, giác ngộ, không tùy thuộc vào việc quy y Tam Bảohệ trọng nơi căn cơtrí tuệ của mỗi người khi tiếp nhậnthực hành giáo pháp. Nhưng cũng chính điểm này xác minh tầm quan trọng của việc quy y Tam Bảo: giác ngộ, chứng quả rồi, các vị thánh cư sĩ ngày xưa vẫn phải phát nguyện quy y Tam Bảo.

Hãy tạm gác qua hình thức của những buổi lễ trao truyền Tam QuyNgũ Giới dưới sự chứng minh của đại diện Tăng bảo. Hãy tạm gác qua những phái điệp Quy Y ghi tên và pháp danh của những người hiểu hoặc không hiểu Phật Pháp, hành hoặc không hành Phật Pháp. Các lễ nghihình thức này, có người được truyền thọ, có người không; có khi được truyền thọ mà lại không hề quy kính Tam Bảo; có khi chưa hề tiếp thọ mà lại một lòng qui hướng Phật, Pháp, Tăng.

Ý nghĩa chân thực của việc quy y Tam Bảo là, với lòng hoan hỷ, kính mộ, với sự thông tuệ, tự do, với tâm thuần nhất, dũng mãnh hướng về mục tiêu tối hậugiải thoát giác ngộ (Phật), người cư sĩ khẳng định chính mình như một con người mới, được sinh ra từ giáo lý thâm diệu (Pháp), quyết định đặt đời sống của mình trên đạo lộ Trí Tuệ, Từ Bi, dưới sự dìu dắt của những bậc thầy xuất gia cao quý (Tăng).

 Trong tinh thần tự nguyện và ý nghĩa quy y Tam Bảo như thế, cư sĩ mọi thời đại, mọi nơi chốn, có chung một tiếng nói, một niềm tin, một con đường cao đẹp; và chỉ những người cư sĩ như thế mới xứng đáng là kẻ “thừa tự Chánh Pháp” (7) của Thế Tôn.

 

Tâm Quang Vĩnh Hảo

 

CƯỚC CHÚ

(1) Mahàvagga - Đại Phẩm, Luật tạng, chương Trọng yếu, tụng phẩm thứ 2, đoạn 32. Xem bản dịch của Indacanda Nguyệt Thiên, http://www.budsas.org/uni/u-luat-daipham/dp-00.htm

(2) Tăng Chi Bộ tập 2, chương Tám Pháp, phẩm Gia Chủ, phần Mahànàma, HT. Thích Minh Châu dịch (phiên bản điện tử, trang 524).

(3) “Không làm các điều ác, nên làm các điều lành”, Kinh Pháp Cú, câu 183.

(4) Bốn phương thức cảm hóa chúng sanh, gồm có: bố thí, ái ngữ, lợi hành và đồng sự.

(5) Sáu pháp ba-la-mật: bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền địnhtrí tuệ.

(6) Trung A Hàm, phẩm Vị Tằng Hữu Pháp, kinh Úc-già Trưởng giả (I), Tuệ Sỹ dịch, phiên bản điện tử: 

http://www.quangduc.com/kinhdien/Trungaham/trungah04-38.html

(7) Trung Bộ Kinh, Kinh Bất Đoạn - Anupada Sutta, HT. Thích Minh Châu dịch.

Send comment
Off
Telex
VNI
Your Name
Your email address
(View: 760)
Pháp thoại: Hòa thượng Thích Thái Hòa giảng nhân lễ Phật đản PL.2567 tại chùa Phước Duyên – Huế
(View: 1018)
Tôi từng nghe trong Kinh Du Hành của Trường A-hàm Đức Thế Tôn dạy chư Tỳ-kheo rằng, “Hãy tự nương tựa mình, nương tựa nơi Pháp, chớ nương tựa nơi khác.”
(View: 1324)
Kính bạch chư tôn trưởng lão Hoà Thượng Chư Thượng Tọa Đại Đức Tăng Ni Kính thưa quý cư sĩ Thức giả, quý cơ quan truyền thông, truyền hình, báo chí, quý đồng hương Phật tử cùng toàn thể quý vị nhân viên nhà hàng Brodard.
(View: 1195)
Sinh hoạt trong lãnh vực truyền thông tại Quận Cam bao lâu nay, tôi chưa bao giờ tham dự một buổi ra mắt kinh sách Phật Giáo mang ý nghĩa trọng đại đối với cộng đồng Phật Giáo Việt Nam như buổi ra mắt bộ Thanh Văn Tạng của Đại Tạng Kinh Việt Nam tại Nhà Hàng Brodard Chateau, Thành phố Garden Grove, Quận Cam, California, Hoa Kỳ, vào chiều Chủ Nhật, ngày 19 tháng 3 năm 2023.
(View: 1572)
Trong pháp hội này, đầu tiên, hãy cho phép tôi được nói đôi lời về giáo chỉ tu Phật (được cho là) làm động cơ phát triển tâm thức; trước khi ta bàn luận đến bản chất tâm hay tôn giáo:
(View: 1622)
Đề tài thảo luận của chúng ta hôm nay là “Đạo Phật với Thanh niên”. Tiêu đề như thế thường gây ấn tượng rằng có nhiều hình thái đạo Phật khác nhau; và mỗi hình thái cho từng lứa tuổi, hay tùy theo thành phần xã hội khác nhau.
(View: 1684)
Kinh Pháp Hoa xuất hiện trong Tam tạng giáo điển Phật giáo ngoài những điểm chung, kinh còn có những điểm độc đáo và đặc biệt riêng, nên khiến kinh không phải chỉ là Pháp mà còn là Diệu pháp.
(View: 4751)
Thừa tiếp sứ mệnh phiên dịch Đại Tạng Kinh Việt Nam còn dang dở của Hội Đồng Phiên Dịch Tam Tạng được Hội Đồng Giáo Phẩm Trung Ương của Viện Tăng Thống GHPGVNTN thành lập vào tháng 10 năm 1973
(View: 11902)
Thông Báo và Ghi danh Khoá Tu Học Phật Pháp Bắc Mỹ Lần Thứ 10 Tại Philadelphia từ ngày 23 đến 26 tháng 7 năm 2020
(View: 15722)
Được tổ chức tại Khách sạn DOUBLE TREE BY HILTON NEWARK 39900 BALENTINE DRIVE, NEWARK, CA 94560 Từ Thứ Năm đến Thứ Hai, ngày 25 - 29 tháng 7 năm 2019
(View: 8445)
Khóa Tu Học Phật Pháp Âu Châu kỳ thứ 31 - 2019 được tổ chức tại thành phố Dinant tại Bỉ Quốc
(View: 5301)
Trường Hạ An Cư Năm 2019 tại Chùa Phật ĐàNhư Lai Thiền Tự, San Diego, California, Hoa Kỳ
(View: 8890)
Chương Trình Hoằng Pháp Của Phái Đoàn Hoằng Pháp Âu Mỹ 2019 do HT Thích Như Điển hướng dẫn từ ngày 01 đến 31/06/2019
(View: 3344)
Thư Cung Thỉnh Đại Lễ Hiệp Kỵ Tổ Sư Về Nguồn kỳ 12, Mừng Chu Niên 30 Năm (1990-2020) Tu Viện Quảng Đức từ ngày 15 đến 18/10/2020
(View: 3407)
Lịch Hoằng Pháp Của Thầy Thích Hạnh Tuệ Năm 2019 (Updated ngày 6/3/2019) Kính mời Đại chúng tại các địa phương đến tham dự.
(View: 20693)
ĐĐ Thích Hạnh Tuệ tổ chức Hành Hương Chiêm Bái Phật Tích Ấn Độ và Nepal từ ngày 02 đến 17 tháng 11 năm 2019
(View: 7699)
Khóa Tu Học Phật Pháp Úc Châu Kỳ 18 của Giáo Hội PGVNTNHN tại Úc Đại Lợi - Tân Tây Lan từ ngày 27 đến ngày 31 tháng 12 năm 2018
(View: 21595)
ĐĐ Thích Hạnh Tuệ tổ chức Hành Hương Chiêm Bái Phật Tích Ấn Độ và Nepal từ ngày 04 đến 18 tháng 11 năm 2018
(View: 7215)
Đại Lễ Về Nguồn Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư lần thứ 11 được khai diễn tại chùa Khánh Anh thuộc thành phố Evry, thủ đô Paris. Thời gian từ thứ sáu, ngày 28/09/2018 đến thứ hai, ngày 01/10/2018.
(View: 2931)
Khóa Tu Học Phật Pháp Bắc Mỹ Lần Thứ 8 năm 2018 tại Khách sạn Ala Moana Holtel, Honolulu, Hawaii
(View: 16410)
Từ Thứ Năm đến Thứ Tư, ngày 11-17 tháng 9 năm 2018, tại: ALA MOANA HOTEL - 410 Atkinson Drive, Honolulu, Hawaii 96814
(View: 13145)
Từ ngày 29/3/2018 đến ngày 22/5/2018 do HT Phương Trượng Chùa Viên Giác Đức Quốc hướng dẫn
(View: 2857)
Khóa Tu Học Phật Pháp Âu Châu kỳ thứ 30 năm 2018 sẽ được khai diễn tại địa điểm: Gesamtschule an der Erft - Aurinstrasse 59 - 41466 Neuss - Đức quốc
(View: 4399)
Kính mời Quý đại chúng tại các địa phương đến tham dự các chương trình tu học... (updated ngày 16/03/2018)
(View: 5675)
Khóa Tu Học Phật Pháp Âu Châu kỳ 30 - 2018 được tổ chức thời gian từ 23/07/2018 đến ngày 01/08/2018
(View: 10360)
Khóa tu học Phật Pháp Âu châu Kỳ thứ 29 tại Pháp - Thời gian từ ngày 20. 07. 2017 đến 29.07.2017.
(View: 12870)
Niềm tin của mỗi người con Phật là ai cũng muốn học hỏi Phật pháp để thiết lập cho mình một niềm tin kiên định...
(View: 17861)
Được tổ chức tại Holiday Inn Chicago North Shore, Thời gian: Từ Thứ Năm đến Chủ Nhật, 20-23 tháng 7 năm 2017
(View: 9095)
Chùa Thiên Trúc tổ chức Khoá Tu Học Phật Pháp vào ngày 14, 15, 16/7/2017 tại Trường Trung Học Yerba Buena, San Jose
(View: 5092)
Kính mời Quý đại chúng tại các địa phương đến tham dự các chương trình tu học... (updated ngày 08/07/2017)
(View: 4379)
Khóa tu được tổ chức từ ngày 20 đến 30/7/2017 tại Tu Viện Kim Sơn, Tp. Morgan Hill, California
(View: 11176)
Pháp Hội được tổ chức từ ngày 19 đến 21/5/2017 tại San Jose, miền Bắc California
(View: 3572)
Của Phái Đoàn Hoằng Pháp Âu Mỹ từ ngày 16.3.2017 đến ngày 30.4.2017 (Ấn Độ, Népal, Thái Lan, Lào, Đại HànNhật Bản)
(View: 20998)
Chương Trình Tu HọcHành HươngẤn Độ, Thái Lan, Lào, Đại Hàn, Nhật Bản trong thời gian 46 ngày từ ngày 16.3.2017 đến ngày 30.4.2017
(View: 3577)
Kính mời Quý đại chúng tại các địa phương đến tham dự các chương trình tu học... (updated ngày 17/03/2017)
(View: 4532)
Khóa Tu Học Phật Pháp Úc Châu Kỳ 17, từ ngày 24 đến ngày 28 tháng 12 năm 2017
(View: 6441)
Khóa Tu Học Mùa Thu Lần Thứ IV từ Thứ Sáu 14 Đến Chủ Nhật 16 tháng 10, 2016 tại Chùa Phật Ân Minnesota
(View: 6702)
Kính mời Quý đại chúng tại các địa phương đến tham dự các chương trình tu học... (updated ngày 6/9/2016)
(View: 10353)
Do HT Thích Tánh Thiệt làm trưởng Ban Tổ Chức từ ngày 25/07 - 03/08/2016
(View: 6589)
Khóa Tu Học Phật Pháp vào dịp Lễ Hội Quán Thế Âm từ ngày 20 đến 23 tháng 10/2016
(View: 30652)
Từ ngày 21 đến 24/7/2016 Tại Hilton Orange County, Costa Mesa - 3050 Bristol St. Costa Mesa, CA 92626
(View: 12816)
Khóa Tu Học Phật Pháp Mùa Hè Lần II-2016 Tại San Jose, California do Chùa Thiên Trúc tổ chức
(View: 10178)
Được tổ chức tại: Tu Viện Phổ Đà Sơn, Canada - Từ ngày 7 đến ngày 9 tháng 10 năm 2016
(View: 15073)
Được tổ chức tại: Niệm Phật Đường Fremont, California, Hoa Kỳ - từ ngày 10 đến 12/6/2016
(View: 5308)
Khóa Tu Học Phật Pháp Bắc Mỹ lần thứ 6 sẽ được tổ chức ngay tại Little Saigon, từ ngày 21/7 đến 24/7/2016.
(View: 17997)
Phái Đoàn Hoằng Pháp Âu Mỹ tại Hoa Kỳ Từ ngày 22.3.2016 đến ngày 16.5.2016
(View: 19848)
Kính cung thỉnh Quý Ngài thân lâm đến chùa Khánh Anh để cùng kiết giới cũng như an cư kiết đông từ ngày 04 đến 10/01/2016.
(View: 12308)
Thời gian: Từ thứ Ba ngày 29 tháng 12 năm 2015, đến thứ Bảy ngày 02/01/2016
(View: 11538)
Trưởng đoàn: HT Thích Như Điển - Phương Trượng Chùa Viên Giác Đức quốc, cùng Chư Tôn Đức ở Hoa Kỳ và các nước Âu Châu
(View: 14502)
Hàng người dài bất tận, im lặng, chăm chú nhìn vào ngọn nến cầm trên tay và theo dõi từng bước chân, đi tới, đi tới mãi…, dưới bầu trời đêm vắng lặng...
(View: 13562)
Từ ngày 29/5 đến 02/6/2014 được tổ chức tại Town and Country Resort Hotel; Do HT Thích Nguyên Siêu làm trưởng Ban Tổ Chức.
(View: 29258)
Khóa Tu Học Bắc Mỹ Lần V sẽ được tổ chức tại Town and Country Resort Hotel San Diego, CA 92108 từ Thứ Năm ngày 06/08 đến Thứ Hai ngày 10/08/2015.
(View: 12013)
Thiền học bằng Anh ngữ miễn phí mỗi Chủ Nhật, bắt đầu từ ngày Chủ Nhật 26/7/2015 lúc 9:30AM đến 12:00PM
(View: 22410)
Giáo Hội chúng ta mượn trường học để tổ chức khóa tu kỳ nầy trong thời gian từ ngày 20 tháng 7 đến ngày 30 tháng 7 năm 2015 tại địa phương Neuss.
(View: 8615)
Do Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Úc Đại Lợi - Tân Tây Lan tổ chức PL.2559 - DL. 2015
(View: 21149)
Khóa tu học được tổ chức Từ 9:00 AM, Thứ Sáu, ngày 17 đến 6:00 PM, Chủ Nhật, ngày 19 tháng 07/2015
(View: 16860)
Được tổ chức tại San Diego, CA, ngày 6 đến ngày 10 tháng 8 năm 2015
(View: 9478)
Khóa Tu Học Phật Pháp Âu Châu Kỳ thứ 27 tại Neuss (Đức quốc) từ ngày 20 - 30.07.2015
(View: 18951)
Đại Lễ Phật Đản năm nay vào hai ngày thứ bảy 16.5 và chủ nhật 17.5.2015
(View: 15268)
Từ ngày 10/04/2015 đến ngày 03/05/2015 tại các tiểu bang Oklahoma, Philadelphia, Florida và Toronto Canada
Quảng Cáo Bảo Trợ
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM