Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Tác Giả Authors
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Hồi thứ hai: Vấn đề của cái đầu

07 Tháng Mười Một 201200:00(Xem: 3945)
Hồi thứ hai: Vấn đề của cái đầu

Mổ xẻ cái gọi là Thiền Minh Triết của “đạo sư” Duy Tuệ

Minh Đức Triều Tâm Ảnh


Hồi thứ hai: Vấn đề của cái đầu

duytue-03Ông ta thuyết giảng (tôi giữ nguyên văn):

1-“ Hằng ngày, chúng ta phải giải quyết bao nhiêu công việc đang bày ra, phải giải quyết bao nhiêu tình huống bất bình, phải đối đầu với bao nhiêu tình huống chưa tìm ra lối thoát.

Ví dụ như chồng hay vợ làm những việc, nói những lời lẽ mình không sao dằn được cơn tức giận. Con cái không nghe lời, cha mẹ chồng hay cha mẹ vợ làm quý vị bực mình khó xử, hoặc chàng rể hay nàng dâu nói năng, cư xử làm cho quý vị đau lòng. Hoặc trong anh chị em ruột, anh chị em vợ hay chồng làm mình khó chịu. Hoặc người yêu hay bạn bè phản bội.

Đặc biệt về tình trạng kinh tế, tài chính khó khăn làm đảo lộn cuộc sống hay công cuộc làm ăn của mình, thấy mình sa sút so với bạn bè, làm cho mình lo âu, sợ hãi, mất ngủ, quên ăn, mất hết hy vọng, thân hình tiều tuỵ, gây ra bao nhiêu bệnh hoạn như nám mặt, lao phổi, nóng gan, suy thận, cao huyết áp, nhồi máu cơ tim, tai biến mạch máu não...

Nói tóm lại là các hoàn cảnh bên ngoài làm cho đầu óc của mình bất an, khó chịu và thường xuyên có nhiều cảm xúc tiêu cực, lúng túng trong cách giải quyết, bực tức, giận hờn, đau khổ chẳng hạn.

Ngoài những cảnh bên ngoài như vậy, còn bên trong đầu óc quý vị, các suy nghĩ cứ tự động xảy ra gây nhiều cảm xúc khó chịu, làm việc mất tập trung nên hiệu quả công việc không cao và thường gây ra sai lầm.

Hoặc vì nhiều lí do khác đã làm cho gương mặt của quý vị không được tươi vui, hồn nhiên, phải dùng đến các phương pháp của thẩm mỹ viện hay các mỹ phẩm. Nhưng rốt cuộc cũng không gây được cảm tình, trìu mến, yêu thương của người khác.

Các vấn nạn này đang đưa quý vị vào một đời sống thật sự chật chội và vô nghĩa, bất hạnh. Cuộc sống đặt ra cho quý vị nhiều vấn đề phải giải quyết không dễ chút nào, giống như học sinh đứng trước những bài toán khó, không sao giải được, bởi đầu óc con người rất hữu hạn mà những công thức thì biến hoá khôn lường, có khi vừa tìm được cách giải thì nó lại chuyển sang loại hình khác”.

Xem những cụm từ gạch đáy, quý vị thấy có cái gì mới lạ không? Cái nhận thức thực trạng mọi đau khổ như kể trên, một trí thức tầm tầm cũng thấy được, cũng biết được. Và có lẽ một nhà xã hội học, một nhà tâm lý học còn giỏi hơn, con chuyên sâu hơn, còn giải mã, nói năng thuyết phục hơn cả ông ta nữa đó!

Như vậy cái bài văn “mào đầu” của ông ta chỉ là trình độ phổ thông của Phật học, ông đã “trích” một giọt nước từ trong lòng đại dương sự-thật-về-khổ (dukkha-sacca) của đạo Phật đó thôi. Đã học được chút ít từ kho tàng vô giá của đạo Phật như thế mà ông ta còn cả gan chỉ trích đức Phật, đức Pháp và đức Tăng. Hãy theo đường dẫn của Google để xem mọi người phản bác và “buồn lòng” về ông như thế nào! (1).

Ông ta nói tiếp:

2- “Vấn đề chính là ở cái đầu. Để giải quyết tất cả các bài toán biến hóa của cuộc đời, chúng ta phải tập trung giải quyết chuyện của cái đầu, rồi thì cũng sẽ chẳng cần giải quyết bài toán nào nữa cả!

Để giải quyết rắc rối của cái đầu, trong hơn mười năm qua, tôi đã chia sẻ cho rất nhiều vị nhiều phương pháp khác nhau và hầu hết đều đem lại kết quả tốt đẹp cho đời sống tinh thầnvật chất của họ. Tinh thần ổn định hơn, đời sống vật chất phát triển êm dịu hơn và ứng xử thành công hơn trước khi thực tập.

Tôi tạm dùng ba chữ Thiền Minh Triết để chỉ cho các phương pháp ổn định cái đầu”. 

Sau khi tìm ra thủ phạm là cái đầu, vị “đạo sư” này chưa chỉ cho mọi người phương pháp ổn định cái đầu của mình - mà ông ấy cho mọi người biết rõ là mình đã kinh nghiệm điều ấy, đã “giác ngộ” điều ấy ra sao:

“Trước khi quý vị đi vào nghiên cứuthực tập một số bài Thiền Minh Triết, tôi muốn chia sẻ cùng quý vị nguyên nhân có những bài Thiền này.

Tôi tự cho rằng mình cũng không nằm ngoài những hiện tượng của các bậc tiền bối xưa nay từng trải qua, đó là hiện tượng tình cờ được vào trạng thái bừng sáng bên trong để hiểu rõ chính cái đầu của mình.

Từ sự kiện trọng đại này, tôi đã thay đổi hoàn toàn, giống như một con người vừa sinh ra và cũng lại chính con người thay đổi đó đã thoát ra khỏi lịch sử đương đại.

Từ sự thay đổi hoàn toàn này, tôi sống trong hạnh phúc ngập tràn do cái nhìn từ cái đầu không có nguyên liệu cho bộ máy suy nghĩ hoành hành. 

Cũng từ đây, tôi nhìn thấy được sự thất vọng, tuyệt vọng, bế tắc, đối đầu, hoang mang… và sự hoảng loạn không lối thoát của con người.

Dẫu bất cứ ai đang đóng bất cứ vai tuồng nào trên đời, và dù loài người đã cố tìm ra nhiều con đường giải tỏa những bế tắc ấy nhưng đến nay vẫn chưa có con đường nào làm yên lòng nhân loại

Đồng thời, tôi cũng nhận ra con đường sống thật phúc lạc không điều kiện cho những ai lắng nghe không thành kiến những điều tôi chia sẻ!”

Quái lạ! Thật là quái lạ ở trong câu này: “Trong giây phút tình cờ, bên trong ông bừng sáng, không cung cấp nguyên liệu cho cái đầu nữa!” Vậy là sao ha? Không cung cấp nguyên liệu cho cái đầu nữa, nên chắc chắn trong lúc ấy, là từ trong “vô thức, vô tri”... ông ta thấy những thực trạng đau khổ chung chung kia là do tức giận, bất bình, sợ hãi, lo âu... kéo theo tâm bệnh, thân bệnh.

Ông ta nói cũng như các bậc tiền bối xưa? Vậy vị tiền bối xưa ấy là ai mà lại “tình cờ” đi vào “trạng thái bừng sáng bên trong”, mới hiểu rõ chính cái đầu của mình - như của ông vậy?

Viện dẫn tiền bối nào đó là hoàn toàn dối láo, do ông tự “phịa” ra, vì lịch sử cổ kim Đông Tây, các vị giáo chủ, các vị chân sư, đạo sư, Thiền sư, hiền triết, triết gia... không có ai lập thuyết, lập ngôn, đưa ra một hệ tư tưởng mà do “tình cờ” cả. Ai cũng tu tập, hoặc suy tưởng, trầm tư đến “sói trán, lỏng óc” mới có kết quả được!

Hãy chỉ cho tôi nghe một cái tên thử xem nào! Một cái tên thôi? Là tôi lạy ông làm sư phụ và tôi sẽ đốt hết thư viện kinh sách không thèm đọc nữa!

Hãy nghe cho kỹ đây: Chỉ có các nhà khoa học, đôi khi phát kiến một định luật, định lý nào đó thì có một số trường hợp do tình cờ. Ví dụ như quả táo của Newton - nhờ quả táo rụng trúng đầu mà ông tìm ra sức hút của quả đất, sau đó mới có định luật “vạn vật hấp dẫn” ra đời! Ví dụ như nhà khoa học Archimède khi đang tắm trong bồn, cảm thấy cơ thể mình bị nước nâng lên; vui sướng quá, ông để trần truồng như vậy, chạy la hét giữa đường “Ơ-rê-ka!... Ơ rê-ka!” (Ta tìm thấy rồi!... Ta tìm thấy rồi!), sau đó cho ra đời định luật sức đẩy của nước, được gọi là “lực đẩy Archimède”. Cả hai đều là do ngẫu nhiên, tình cờ mà phát kiến hai định luật ấy!

Ông Duy Tuệ nói là do “tình cờ”, ông được đi vào “trạng thái bừng sáng bên trong”, khi ấy mới “hiểu rõ chính cái đầu” của mình! Như vậy, gốc nguồn sự “giác ngộ” của ông ta là do “tình cờ”, tình cờ nó rơi vào trạng thái “bừng sáng bên trong”!

Đây là một trong những tà kiến sai lầm có từ thời cổ Ấn Độ - khi chúng rơi vào những chủ thuyết bất khả tri, do không thấy, không biết gì cả, nên đổ vấy cho tình cờ, cho ngẫu nhiên, cho tất định, cho phiếm định hay cho Thượng Đế...

Vậy, ông ta không phải từ tu tập Định, Tuệ mà có, chỉ do tình cờ, ngẫu nhiên thôi! Ôi! Bậc trí trên đời này, có ai tin điều ông ta nói không?

Tiếp nữa, ông cảm giác hạnh phúc ngập tràn do “cái nhìn từ cái đầu không có nguyên liệu cho bộ máy suy nghĩ hoành hành”. Đây là cái gì vậy? Là làm rỗng cái đầu, đừng cho nó một nguyên liệu nào thì cái đầu sẽ không có nguyên liệu cho cái bộ máy ấy suy nghĩ nữa!

Ôi! Chỗ này thì ông ta sai lầm trầm trọng rồi. Sai lầm cái chỗ căn để nhất, chứng tỏ ông ta mù tịt về cái tâm, cái trí và cả cái suy nghĩ ! Ông ta chưa hề minh sát để thấy rõ cái tâm, cái trí, cái suy nghĩ của chình mình vận hành ra sao, duyên khởi ra sao! Người học Vi diệu pháp (Abhidhamma), Duy Thức hay ai có tu nội quán, minh sát, hay Thiền định đều biết rõ, thấy rõ - vì họ theo dõi chúng mỗi ngày, mỗi giờ, mỗi hơi thở.

Tâm (citta), có ngữ căn “cit”suy nghĩ nên đồng nghĩa với thức (viññāṇa), nhận biết. Suy nghĩsuy nghĩ về cái gì, nhận biếtnhận biết viết về cái gì - bao giờ nó cũng có đối tượng. Không có đối tượng, tâm hay thức không biết được cái gì cả. Bản chất của thức hay tâm là tìm kiếm, nó luôn luôn tìm kiếm không bao giờ ở yên - như tâm viên, ý mã là vậy. Từ thức, từ tâm nhận thức ban đầu ấy mà phân biệt phải trái, đúng sai, tốt xấu, biện biệt, so sánh, tỷ giảo điều này việc kia mới gọi là trí (ñāṇa).

Không cung cấp nguyên liệu cho bộ máy suy nghĩ, có nghĩa là không cho nó một đối tượng nào, một thức ăn, một nguyên liệu nào thì khi ấy được bừng sáng ư?

Xin thưa, chỉ có Thiền định đi qua 5 Thiền chi để loại trừ 5 triền cái (2) để đi vào sơ Thiền thì bộ máy suy nghĩ ấy mới không còn nguyên liệu. Và nếu ở trong định sơ Thiền thì hành giả không biết gì cả (3), tuệ không bừng sáng gì cả mà chỉ an trú, thọ hưởng hỷ và lạc của định này mà thôi.

Muốn suy nghĩ trở lại, thì hành giả phải từ bỏ định an chỉ, rời xuống cận hành định mới có “tầm (tìm kiếm) và tứ (suy nghĩ)” khi ấy mới khởi ý niệm, tư duy được.

Như vậy, ông Duy Tuệ “làm rỗng đầu óc bằng cách nào” hay lại đổ dối “cho tự nhiên, cho tình cờ”? Phát ngôn không trách nhiệm, phát ngôn khi mình chưa hề tu, hề chứng, chưa hề biết cái tâm, cái trí, cái suy nghĩ của mình - cái gốc của các pháp là cái chi chi - mà dám mạo lạm đạo sư giảng nói cho thiên hạ nghe! Thật không biết trời cao đất dày ra sao, dám múa gậy vườn hoang, tưởng thế gian này ai cũng mù mắt, mù tai như đám đệ tử gà mờ của ông rồi phán thế nào cũng được hay sao?

Ta hãy theo dõi tiếp, xem ông ta còn nói những gì trong cơn mê sảng của mình: “Dẫu bất cứ ai đang đóng bất cứ vai tuồng nào trên đời, và dù loài người đã cố tìm ra nhiều con đường giải toả những bế tắc ấy nhưng đến nay vẫn chưa có con đường nào làm yên lòng nhân loại”. 

Loạn rồi! Tăng thượng mạn rồi! Điên thật rồi! Từ xưa đến nay chỉ có y, Thiền Minh Triết của y mới cứu được nhân loại thôi! Chính ông ta, ông ta cũng không biết mình đang đóng vai tuồng gì, khoác cái vỏ bản ngã hư dối nào mà xem nhân loại cổ kim như cỏ rác vậy!

Rồi ông còn khuyên: “Đồng thời, tôi cũng nhận ra con đường sống thật phúc lạc không điều kiện cho những ai lắng nghe không thành kiến những điều tôi chia sẻ!”

Cái “phúc lạc không điều kiện”, gốc nguồn ở đâu vậy? Xin thưa, cũng là của Phật đó - tức là muốn nói đến hạnh phúc Niết-bàn vô vi, vô lậu, vô hành, vô tạo tác ở ngoài mọi điều kiện, mọi sự kết hợp hữu vi. Ông ta “đang ở trong vô thức, vô tri tình cờ bừng sáng bên trong”, không biết Định là gì, Tuệ là gì lại rao giảng Niết-bàn. Lại còn ai “lắng nghe không thành kiến” những điều ông chia sẻ cũng nếm thưởng hương vị Niết-bàn như ông ta!

“Lắng nghe không thành kiến!” Hay đó! “Lắng nghe với đầu óc rỗng, lắng nghe với tâm trí không chứa chấp cái biết chủ quan” nào cả! Lắng nghe trước khi làm rỗng cái biết của mình đi, có phải tương tợ như chung trà của vị Thiền sư với ông giáo sư đại học. Câu chuyện như sau:

“Một vị giáo sư đại học đến bái yết một Thiền sư xin học Thiền. Lúc mời trà, làm như vô tình, bình trà trên tay vị Thiền sư cứ rót mãi vào cái chung của khách, nước tràn ra ngoài. Vị giáo sư nói: “Nước đầy tràn kìa, thưa thầy”. Lúc ấy, vị Thiền sư mới ngưng tay, mỉm cười nói: “Ừ, ta biết! Cái đầu của ngài trí thức đây cũng vậy. Nó đầy (kiến thức) quá, rót vào đấy bao nhiêu là nó tràn ra ngoài bấy nhiêu! Một giọt Thiền nó cũng chối từ, không thể! Ngài trí thức phải làm rỗng cái đầu mới rót Thiền vào đấy được!”

Đấy chính là làm rỗng cái đầu! Cao nhất là lắng nghe với tâm không, tuệ không. Thấp nhất là lắng nghe với đầu óc không “nêm chật” sẵn đầy cái biết, không thành kiến. Điều này tôi làm được thưa ông Duy Tuệ. Do tu vipassanā và dạy Thiền vipassanā nhiều năm, nên “tai nghe chỉ là tai nghe, âm thanh chỉ là âm thanh” thôi - nên tôi rõ thông cái rỗng kia lắm lắm! Tôi thường an bình, vô vi, vô sự nhờ hồng ân pháp tu Tứ niệm xứ của đức Phật.

Ban đầu, tôi cố thử lắng nghe nhiều điều trái tai, trái đạo, trái pháp, trái Thiền, nghịch nhĩ, nghịch tông, nghịch môn, nghịch trí... của ông, tôi cũng muốn “giác sở giác không”! Nhưng vì pháp, vì chánh pháp, tôi phải khởi trí hữu vi để nói với ông rằng: Ông hãy tịch cốc hoặc lên núi 10 năm, vừa nghiên cứu giáo pháp cả hai nguồn Nam Bắc tạng; suy ngẫm, chiêm nghiệm so sánh, đối chiếu rồi sau đó quay lại tâm mình mà nội quán, “kịch liệt” hạ thủ công phu may ra ông mới lãnh hội được tinh yếu về Phật, về Pháp, về Thiền! Nó như rừng thẳm. Nó như biển sâu. Nó như trời cao. Nhưng cái hiểu biết, kiến thức của ông là vỏ sò, vỏ hến, đựng được bao nhiêu? Đấy là chưa kể chứng nghiệm tâm linh!

Và ông có biết rằng, ngay cả cái lắng nghe “không thành kiến” mà ông rao giảng cũng chỉ là một chút xíu, chút xỉu xìu xiu, một “phân tử li ti nước” mà ông đã “hứng” từ suối nguồn vô tận của Phật không?

Bây giờ tôi dẫn chứng thêm Bắc tạng, kinh Thủ Lăng Nghiêm, để ông biết là có một cách lắng nghe khác, chắc chắn là nghe đến tận “thâm lâm vượn hú” kia lận!

Cũng là vipassanā cả, nhưng được giảng nói bằng ngôn ngữ bác học, đặc như keo, liên kết chặt chẽ, logic không có chỗ nào cho luận sư, ngụy biệnma giáo thiên hạ thò bút vào đó được! Ông có biết người tu ấy là ai không? Ai đã học cái nghe này cho tới chỗ tối thượng thừa chưa? Đến cái chỗ mà “sinh diệt diệt rồi, tịch diệt hiện tiền” luôn! Giác ngộ, giải thoát luôn! Đức Quán Thế Âm đó (4)! Hãy nghe đây:

“Sơ y văn trung. Nhập lưu vong sở. Sở nhập ký tịch. Động tịnh nhị tướng. Liễu nhiên bất sanh. Như thị tiệm tăng. Văn sở văn tận. Tận văn bất trụ. Giác sở giác không. Không giác tịch viên. Không sở không diệt. Sinh diệt ký diệt. Tịch diệt hiền tiền!”

Tôi dịch thoát cho dễ hiểu mà không rời ý kinh - vì vipassanā cũng nghe như vậy, tôi cũng đã từng nghe như vậy nhiều năm:

“- Bước đầu, y cứ nơi tánh nghe. Cứ nghe một cách miên tục, cố đi vào dòng nghe là chính, đừng để ý đến cái đối tượng nghe. Khi đối tượng nghe đã lặng rồi thì hai tướng động và tịnh tự nhiên nó không còn sinh khởi nữa. Hãy cứ như vậy mà tiến dần lên. Đến khi cái nghe và đối tượng nghe đều đã dứt, đã yên lặng rồi - thì đừng dừng lại, đừng níu giữ, đừng trụ nơi cái chỗ đã dứt và yên lặng ấy. Và ngay nơi cái năng giác (cái biết) ấy và cái sở giác (đối tượng biết) cũng phải không - thì cái ‘giác không’ ấy mới tịch tịnh viên mãn. Rồi cái ‘năng không’ và ‘sở không’ ấy cũng diệt luôn. Khi sinh diệt đã diệt rồi (không bị sinh diệt chi phối nữa - cách nói khác của vô sinh bất diệt) thì ngay lúc ấy là tịch tiệt hiện tiền (Niết-bàn)!”

Vậy là cái “lắng nghe không thành kiến” của Duy Tuệ đã là cái “đinh” gì mà ông ta dám bảo hướng dẫn mọi người nếm thưởng được phúc lạc không điều kiện - tức là Niết-bàn?! 

Thật là hết thuốc chữa! Bệnh “không” thì cho uống thuốc “hữu”, bệnh “hữu” thì cho uống thuốc “không”. Còn kẻ si mê, vô minh cùng với cái kiến thức học “mót” nhưng đại ngã mạn thế kia, có lẽ một đức Chánh Đẳng Giác cũng phải thở dài!

Xin chư vị thức giả cho tôi khởi tâm hữu vi múa chữ hạ bút một câu sáu tám nữa:

“Đầu óc ‘vô tri’ lắng nghe,

Đá, đất, rác, cỏ... bồ-đề nở hoa!”



(1) a, “Đạo sư” Duy Tuệ xuyên tạc gì về đạo Phật. b, Ông Duy Tuệ phỉ báng Tam Bảo Phật, Pháp, Tăng như thế nào? c, “Đạo sư” Duy Tuệ - kẻ truyền tà đạo mượn lốt Phật giáo. d,Đạo sư” Duy Tuệ - xin hãy dừng lại. e, Về “Đạo sư” tự phong Duy Tuệ: “Cái kim bọc trong giẻ lâu này cũng lòi ra!”...

(2) Năm triền cái (nīvaraṇa): Hôn trầm, thụy miên (thīna-middha), nghi (vicikicchā), sân hận (byāpāda), trạo cứ, hối quá (uddhacca -kukkucca), tham dục (kāmacchanda). Năm thiền chi (jhānaṅga): Tầm (vitakka), tứ (vicāra), phỉ (pīti), lạc (sukha), nhất tâm (ekaggatā).

(3) Nếu là “nhất tâm định an” thì chỉ còn dòng tâm (dòng bhavaṅga) trôi chảy - không hay biết gì cả, như một giấc ngủ ngon không mộng mị; nếu xuống cận hành định, khởi tầm tứ thì dòng chảy này đứt dòng, dừng nghỉ để quan sát đối tượng - chính lúc này đối tượng (pháp) mới xuất hiện!

(4) Ngữ nghĩa “ẩn” của Quán Thế Âm hay Quán Tự Tại - đều chỉ pháp tu nội quán, minh sát vipassanā cả. Quán là lắng nghe, quán sát, minh sát. “Thế”thế gian, là “loka”,thế gian ngoại giới, thế gian nội giới, duyên khởi căn trần thức. “Âm”âm thanh. Khi dùng từ lắng nghe thì lắng nghe này theo nghĩa nội quán, nghĩa là lắng nghe toàn bộ sự duyên khỏi của 6 căn, 6 trần và 6 thức. Quán Tự Tại cũng vậy, là lắng nghe toàn bộ thân tâm đang là này, hiện tiền này, đương xứ tức chân này! Hình tượng bồ-tát Quán Thế Âm được dựng tượng đài thờ tự nơi này nơi kia - chỉ là mặt “hiển” cho quần chúng tín ngưỡng nương tựa mà thôi!

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 6660)
Tập thể Cư sĩ là một tập thể rất đạo nhưng cũng rất đời, tương đối hoàn chỉnh trên cả hai mặt đạo lẫn đời.
(Xem: 5542)
Nhận thức rõ tướng trạng của động cơ cải đạo thì ta mới hy vọng sẽ tìm ra giải pháp ‘cứu chữa’ hay ít nhất là ngăn chặn không cho chúng lan tràn thêm nữa.
(Xem: 5279)
Số lượng tín đồ Phật giáo tại Việt Nam, kèm theo đó là tỉ lệ được ghi nhận ở đây có lẽ là con số thấp nhất từ trước đến nay mà tôi được biết.
(Xem: 5400)
Trong khúc quanh thịnh suy này của Phật giáo, trách nhiệm của Tăng Ni, Phật tử, những người còn chính thức kê khai mình theo đạo Phật, là hết sức nặng nề.
(Xem: 6100)
Khóa Thiền Vipassana Song Ngữ Anh-Việt 10 Ngày (Từ 06-17/03/2013) tại Trung Tâm Thiền Dhamma Vaddhana (SCVC) TP. Twentynine Palms, California
(Xem: 6609)
Khóa Thiền Vipassana Song Ngữ Anh-Việt 10 Ngày (Từ 17-28/04/2013) tại Trung Tâm Thiền Dhamma Siri Southwest Vipassana Center (SVC), TP. Kaufman, TEXAS
(Xem: 6039)
Về đối tượng mà người truyền đạo trước hết cần nhắm đến là các vị trưởng bản, và những người trẻ có thể đọc được chữ quốc ngữ...
(Xem: 6014)
Tham quan Trung tâm Thiền Dhamma Siri (SVC) thứ Bảy, ngày 13/10/2012 từ 1:00g chiều – 5:00g chiều
(Xem: 6740)
Người Phật tử nên có chánh kiến, chánh tư duy (có nhận thức, hiểu biết đúng đắn, tích cực; có suy nghĩ, sự quán xét trên cơ sở chánh kiến, phù hợp với chân lý...
(Xem: 25378)
Con đường hướng về sự nhẹ nhàng, chẳng lẽ không là hướng mở đúng đắn giữa một nhịp sống chẳng “nhẹ” chút nào, giữa bao nhiêu lực tấn công từ mọi phía...
(Xem: 6072)
Xin mời quý vị đến tham dự ngày Open Day của Trung Tâm Thiền Vipassana vào Chủ Nhật, ngày 7 tháng 10 năm 2012, từ 10h sáng đến 2h trưa...
(Xem: 7820)
Một người thầy nói đạo nào cũng tốt là bậc thầy đó đang ngụy biện cho trách nhiệm của mình, một người là thầy hướng dẫn tâm linh cho Phật tử mà để Phật tử của mình cải đạo.
(Xem: 7780)
Phương pháp thiền Vipassana là một phương pháp đơn giảnthực tiễn để đạt được an lạc thực sự cho tâm hồn và đưa đến một cuộc sống hạnh phúc và có ích.
(Xem: 8978)
Khóa Tu Học Phật Pháp Âu Châu Kỳ 24 được tổ chức vào ngày 26.07 đến ngày 05.08.2012... HT Thích Minh Tâm
(Xem: 10774)
Khóa An Cư Kiết Hạ Tại Chùa Bát Nhã Do GHPGVNTNHK Tổ Chức Từ 19-30/6/2012
(Xem: 9670)
Khóa Tu học Phật Pháp lần I, tại Chùa Thanh Tịnh, Rochester, NY ngày 19-21/10/2012
(Xem: 7606)
Vai trò của Phật giáo rất quan trọng trong giáo dục, vì Phật giáo chủ trương hoàn thiện tâm thức, và xã hội. Con người có khả năng nhận thứclý luận.
(Xem: 10986)
Đại Hội được tổ chức tại Chùa Cổ Lâm - Seattle, ngày 10-12/8/2012 do HT Thích Nguyên An làm trưởng ban tổ chức.
(Xem: 10016)
Trên thực tế thì đã từ vài năm nay Phật Giáo cũng đã du nhập vào phần lục địa này, và nhiều dấu hiệu cho thấy là sự hiện diện đó mang tính cách lâu dài!
(Xem: 10788)
Lịch Trình Hướng Dẫn Tu Học của Phái Đoàn từ Âu Châu tại Hoa Kỳ 2012
(Xem: 12602)
Văn phòng của Đức Đạt Lai Lạt Ma đã nói rằng “hành vi trái với truyền thống Phật giáo của Michael Roach không phù hợp với những lời giảng dạy và thực hành của đức Đạt Lai Lạt Ma”.
(Xem: 13474)
Đại Lễ Phật Đản Quốc Tế 2012 của GHPGVNTN Hoa Kỳ tổ chức tại Westminster Mall, Nam California ngày 20, 21, 22/4/2012
(Xem: 16120)
Khóa Tu Học Phật Pháp Bắc Mỹ lần thứ 2 sẽ được tổ chức tại thành phố Santa Clara, miền Bắc California, Hoa Kỳ từ ngày 02/8/ đến ngày 06/8/2012.
(Xem: 21510)
Đối với đạo Phật, học thuyết âm dương chỉ là tưởng tri của các học giả, không thể là chân lý. Vậy chân lý của đạo Phật là gì? Có thể gói gọn trong một chữ “Khổ”.
(Xem: 9438)
Nói chung, cư sĩ là người tại gia phát nguyện quy y Tam Bảo, giữ giới, thực hành bố thí, học và thực hành Phật Pháp trong đời sống hàng ngày để lợi mình, lợi người.
(Xem: 7173)
Mỗi người Phật tử là một hạt chuỗi vàng trong xâu chuỗi từ bitrí tuệ của Đức Phật, bất kỳ ai cũng có cơ hội để mang lại ánh sáng của Đức Phật đi vào thế giới mới.
(Xem: 8393)
Giáo pháp của Đức Phật là phương thuốc xoa dịu khổ đau, mang lại nguồn vui sống cho nhân loại.
(Xem: 7443)
Phật tử phải có trách nhiệm bảo tồnduy trì di sản Phật đã để lại. Phật tử phải sống với triết lý của vô thườngtìm ra những phương thức mới để khuyến khích đa số quần chúng.
(Xem: 7435)
Nếu chỉ căn cứ vào hiện thực của truyền thông “phì đại”, chắc chắc không phải là điều tốt. Trong đạo Phật có khái niệm “thân giáo”. Thân giáo là tu học bằng tiếp xúc trực tiếp...
(Xem: 6760)
Khả năng lớn lao của truyền thông hiện đại trong việc quảng bá tư tưởng vừa đóng góp, đồng thời, cũng vừa tạo ra những vấn đề lớn đối với sự phát triển của tư tưởng Phật giáo.
(Xem: 9071)
Sự chuyển mình từ sức mạnh thần quyền sang sức mạnh nhân quyền trong nhiều khía cạnh vi tếphức tạp của đời sống đã làm cho đạo Phật mỗi ngày một hiển lộ trước cái nhìn tỉnh thức của nhân loại.
(Xem: 8429)
Đức Đạt Lai Lạt Ma sẽ có buổi thuyết giảng chủ đề “Tâm An Trong Nghịch Cảnh” vào Thứ Bảy 21-4-2012 từ 1:30pm tại hội trường Long Beach Arena, thành phố Long Beach, Calif.
(Xem: 7748)
Sự lạm dụng hình thức cũng như các hoạt động của thầy cúng đã đi đến sự xáo trộn trật tự trong Phật giáo. Việc đi cúng được họ gọi là làm Phật sự hay Pháp sự...
(Xem: 9256)
Khóa Thiền Vipassana Song Ngữ Anh-Việt 10 Ngày (từ ngày 04 - 15/04/2012) tại Trung Tâm Thiền Dhamma Patāpa, Southeast Vipassana Center tại Thành Phố JESUP, TEXAS
(Xem: 8108)
Khóa Thiền Vipassana Song Ngữ Anh-Việt 10 Ngày (từ ngày 23/05 - 03/06/2012) tại Trung Tâm Thiền Dhamma Surabhi Vipassana Meditation Centre of B.C. tại Thành Phố Merritt, British Columbia, CANADA
(Xem: 10007)
Từ Ân Thiền Đường là một ngôi chùa nhỏ ở Santa Ana, có những độc đáo riêng, khó tìm được ở nhiều nơi khác.
(Xem: 9284)
Chúng tôi luyện Thiền rất nghiêm túc vì nó có thể giúp tăng trưởng định lực nhanh chóng và giúp giảm bớt vọng tưởng, ít tán tâm khi niệm Phật.
(Xem: 8652)
Khóa Thiền Vipassana Song Ngữ Anh-Việt 10 Ngày (từ ngày 09 - 20/05/2012) tại Trung Tâm Thiền Dhamma Torana, Ontario Vipassana Center (OVC) tại Thành Phố Egbert, Ontario, CANADA
(Xem: 7513)
Khóa Thiền Vipassana Song Ngữ Anh-Việt 10 Ngày - Từ ngày 04 đến ngày 15 tháng 01 năm 2012 tại Trung Tâm Thiền Dhamma Vaddhana (SCVC), Thành Phố Twentynine Palms, California
(Xem: 13780)
Khóa Tu Học Phật Pháp Bắc Mỹ lần 1 do Giáo hội PGVNTN Hoa Kỳ và Canada tổ chức
(Xem: 7005)
Đại Lễ Hiệp Kỵ Chư Lịch Đại Tổ Sư (Về Nguồn 5) tổ chức tại Chùa Thiện Minh, Lyon, Pháp Quốc từ ngày 8 đến ngày 11-09-2011
(Xem: 8311)
Chương Trình Khóa Tu Học Mùa Xuân Tại Chùa Phật Ân - 2011
(Xem: 8824)
Chương Trình Tu Học Tại Chùa Hải Đức - Jacksonville 2011
(Xem: 7867)
Chương Trình Tổng Quát Chiêm Bái Phật Ngọc Và Khóa Tu Học Tại Chùa Trúc Lâm - Chicago 2011
(Xem: 9965)
Chương trình khóa tu 14/04 đến 17/04/2011 tại Thiền Viện Chánh Pháp
(Xem: 7493)
Do HT Thích Như Điển – Phương Trượng Chùa Viên Giác, Đức Quốc hướng dẫn - Từ ngày 6/4/2011 đến 11/4/2011
(Xem: 6876)
Chương Trình Hướng Dẫn Tu Học Của Phái Đoàn Hoằng Pháp Âu Châu Tại Miền Nam California – Từ ngày 31/3 đến ngày 3/4/2011
(Xem: 8777)
Lịch Trình Hướng Dẫn Tu Học của Phái Đoàn từ Âu Châu tại Hoa Kỳ từ ngày 29-03-2011 đến 09-05-2011
(Xem: 5656)
The Jade Buddha For Universal Peace Visits San Diego County - By Alison St John
(Xem: 20429)
Chùa Phật Đà tổ chức Cung Nghinh Chiêm Bái Phật Ngọc và Xá Lợi Phật tại CALIFORNIA CENTER FOR THE ARTS, Escondido - 340 N. Escondido Blvd., Escondido, CA 92025 từ ngày 29/1 đến 6/2/1011
(Xem: 5614)
Bài giảng của HT Nguyên Siêu tại Lễ Đài Phật Ngọc Chùa Bát Nhã 2010
(Xem: 12976)
“Các vị là Phật sẽ thành, tôi không ngần ngại đảnh lễ quý vị, giống như Phật đang ngồi trên cao. Các vị và Phật không khác nhau.”
(Xem: 14132)
Năm giờ sáng, mây xám tuy mỏng, nhưng che phủ bầu trời, che cả những vì sao muộn khiến không gian ẩm tối, lạnh lẽo và rưng rức quạnh hiu! Vậy mà có vị Phật lặng thinh ngồi đó...
(Xem: 13179)
Đạo Phậttôn giáo đầu tiên vượt thoát ra khỏi giới hạn tự chiêm nghiệm và đặt định của con người để vươn tới cõi bao la vô cùng, vô tận của thế giới tâm linh... Trần Kiêm Đoàn
(Xem: 15338)
Vào lúc 10 giờ sáng ngày 19 tháng 10, 2010, Đại Lễ Thỉnh “Phật Ngọc Cho Hòa Bình Thế Giới” đã được cử hành long trọng bằng xe hoa rước Phật và đoàn xe cung nghinh từ Tổ Đình Minh Đăng Quang...
(Xem: 13616)
Đại Lễ Khai Mạc Cung Nghinh Phật Ngọc Tại San Jose
(Xem: 14467)
Chùa Bát Nhã long trọng tổ chức lễ khai mạc chiêm bái Phật Ngọc từ 9 giờ 30 sáng Thứ Bảy ngày 23 tháng 10 năm 2010 tại khuôn viên chùa.
(Xem: 12536)
CHƯƠNG TRÌNH ĐẠI LỄ CUNG NGHINH VÀ CHIÊM BÁI PHẬT NGỌC CHO HOÀ BÌNH THẾ GIỚI TỪ THỨ BẢY, NGÀY 6 ĐẾN THỨ HAI NGÀY 15 THÁNG 11 NĂM 2010
(Xem: 18464)
Thành kính đảnh lễ Đức Thế Tôn gia hộ cho Đạo pháp được trường tồn. Thế giới được hòa bình. Chúng sanh được an lạc.
(Xem: 17316)
Lịch Trình Phật Ngọc 2010 - 2011
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant