Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Trang 1

11 Tháng Ba 201100:00(Xem: 21158)
Trang 1

KINH HOA NGHIÊM 
Hán Dịch: Ðại-Sư Thật-Xoa-Nan-Ðà - Việt Dịch: HT Thích Trí Tịnh
Phật Học Viện quốc Tế Xuất Bản PL 2527 - 1983

PHẨM THẾ CHỦ DIỆU NGHIÊM 
THỨ NHẤT

I. Ðại Hội Vân Tập

(1) Như vậy tôi nghe, một lúc Phật ở nước Ma-Kiệt-Ðề, trong đạo-tràng bồ-đề, ban đầu thành Vô-thượng Chánh-giác. Nơi đó đất cứng chắc, bằng Kim-Cang. Có các luân-báu, hoa báu, châu ma-ni thanh-tịnh, dùng trang nghiêm. Các c hâu ma-ni sắc-tướng hải làm tràng, thường phóng quang minh, luôn vang ra tiếng vi diệu. Các mành lưới-báu, chuỗi-hoa hương thơm, bủa giăng rủ bốn phía. Châu ma-ni bảo-vương biến-hiện tự-tại, mưa vô-tận châu-bảo và những hoa đẹp rải khắp mặt đất. Cây báu giăng hàng, nhánh lá sum-sê sáng-rỡ.

Do thần lực của Phật làm cho đạo-tràng này ảnh-hiện tất cả sự trang-nghiêm.

Cây bồ-đề cao lớn lạ thường : thân bằng Kim-Cang và Lưu-Ly, cành cây bằng nhiều chất bảo tốt đẹp, lá báu giăng che như mây, hoa báu nhiều màu đơm sáng các nhánh, trái bồ-đề bằng châu ma-ni chiếu sáng, như lửa ngọn xen lẫn trong hoa.

Quanh cây bồ-đề đều phóng quang-minh, trong quang-minh rưới ma-ni-bảo, trong ma-ni-bảo có các Bồ-Tát xuất hiện, đông nhiều như mây.

Lại do thần lực của Như-Lai, cây bồ-đề này thường vang ra tiếng vi-diệu, nói các thứ pháp-môn vô-cùng vô-tận.

Cung-điện lâu-đài của Ðức Như-Lai ở, rộng-rãi trang-nghiêm, tốt đẹp khắp đến mười Phương. Lâu-đài này do châu ma-ni nhiều màu hiệp thành, các thứ hoa báu đơm-đẹp, những đồ trang-nghiêm trong lâu đài tuôn ánh-sáng như mây.

Từ trong lâu-đài chói sáng kết thành bảo-tràng, vô-biên Bồ-Tát và đạo-tràng chúng-hội đều hợp nơi đó, vì có thể xuất hiện quang-minh của chư Phật. Ma-ni bửu-vương bất-tư-nghì-âm kết lại thành lưới. Thần-thông tự-tại của Như-Lai làm cho tất cả cảnh-giới đều hiện trong lưới báu. Tất cả chúng-sanh, cùng nơi chỗ nhà cửa của họ, đều hiện bóng trong đó. Lại do thần-lực của chư Phật, trong khoảng một niệm, cả pháp-giới đều bao gồm trong lưới.

Toà sư-tử cao rộng tốt đẹp : đài bằng châu ma-ni, lưới bằng hoa sen, vòng quanh bằng bảo-châu vi-diệu thanh-tịnh, hoa đẹp nhiều mầu kết thành chuỗi.

Cung điện, lâu đài, cửa nẻo, thềm bực, tất cả đều hoàn toàn trang nghiêm. Cây báu, nhánh lá, bông trái xen nhau rực rỡ. Châu ma-ni chiếu sáng như mây. Chư Phật mười phương hoá hiện nơi châu-vương. Bảo-châu vi-diệu trong búi tóc của tất cả Bồ-Tát đều phóng quang minh chói sáng lâu đài.

Lại do oai thần của chư Phật, chư Bồ-Tát diễn nói cảnh giới rộng lớn của Như-Lai, tiếng đó vi-diệu, vang xa khắp đến tất cả chỗ.

Lúc đó Ðức Thế-Tôn ngự trên tòa sư-tử này thành vô thượng chánh giác : trí Phật chứng nhập thời gian ba đời đều bình đẳng, thân Phật khắp đầy tất cả thế gian, tiếng Phật thuận khắp cõi nước mười phương. Ví như hư không bao gồm các sắc tướng, đối với các cảnh giới không chỗ phân biệt. Lại như hư không khắp cùng tất cả, bình đẳng vào trong tất cả quốc độ. Thân Phật thường khắp ngồi trong tất cả đạo tràng của chúng Bồ-Tát, oai quang của Phật chói rỡ như mặt trời mọc lên soi sáng thế giới. Phước đức của Phật rộng lớn như biển cả, đều đã thanh-tịnh, mà luôn thị hiện sanh vào quốc độ chư Phật. Vô biên sắc tướng, đầy đủ ánh sáng, cùng khắp pháp-giới, bình đẳng không sai khác. Diễn thuyết tất cả pháp như giăng bủa mây lớn. Mỗi đầu sợi lông đều có thể dung thọ tất cả thế giới mà vẫn không chướng ngại. Ðều hiện vô lượng thần thông giáo hóa điều phục tất cả chúng sanh. Thân Phật khắp mười phương mà không có tướng qua lại. Trí Phật vào tất cả tướng mà rõ thấu các pháp đều không tịch. Tất cả thần-biến của chư Phật ba đời đều thấy cả trong quang-minh. Tất cả sự trang nghiêm của tất cả Phật-độ trong kiếp số bất-tư-nghì đều làm cho hiển-hiện.

Có mười thế-giới vi-trần số đại Bồ-Tát theo hầu quanh Phật. Danh hiệu của các ngài là : Phổ-Hiền Bồ-Tát, Phổ-Ðức-Tói-Thắng-Ðăng-Quang-Chiếu Bồ-Tát, Phổ-Quang-Sư-Tử-Tràng Bồ-Tát, Phổ-Bảo-Diệm-Diệu-Quang Bồ-Tát, Phổ-Âm-Công-Ðức-Hải-Tràng Bồ-Tát, Phổ-Trí-Quang-Chiếu-Như-Lai-Cảnh Bồ-Tát, Phổ-Bảo-Kế-Hoa-Tràng Bồ-Tát, Phổ-Thanh-Tịnh-Vô-Tận-Phước-Quang Bồ-Tát, Phổ-Quang-Minh-Tướng Bồ-Tát, Hải-Nguyệt-Quang-Ðại-Minh Bồ-Tát, Vân-Âm-Hải-Quang-Vô-Cấu-Tạng Bồ-Tát, Công-Ðức-Bảo-Kế-Trí-Sanh Bồ-Tát, Công-Ðức-Tự-Tại-Vương-Ðại-Quang Bồ-Tát, Thiện-Dũng-Mãnh-Liên-Hoa-Kế Bồ-Tát, Phổ-Trí-Vân-Nhựt-Tràng Bồ-Tát, Ðại-Tinh-Tấn-Kim-Cang-Tê Bồ-Tát, Hương-Diệm-Quang-Tràng Bồ-Tát, Ðại-Minh-Ðức-Thâm-Mỹ-Âm Bồ-Tát, Ðại-Phước-Quang-Trí-Sanh Bồ-Tát, có mười thế giới vi-trần-số đại Bồ-Tát như vậy làm bực thượng thủ.

Từ xưa chư Bồ-Tát này cùng với Tỳ-Lô-Giá-Na Như-Lai đồng tu tập thiện căn, thật hành Bồ-Tát hạnh, từ biển căn lành của Như-Lai sanh ra, đã đầy đủ các môn ba-la-mật, huệ-nhãn sáng suốt thấy ba đời, nơi các môn tam-muội đều đầy đủ thanh-tịnh, biện tài rộng lớn vô tận như biển, đủ công-đức Phật tôn nghiêm đáng kính, biết căn tánh của chúng-sanh thuận theo giáo-hóa điều phục, vào tạng pháp-giới, trí vô-phân-biệt, chứng giải-thoát của Phật rất sâu rộng lớn, có thể tùy phương tiện, vào nơi một bực mà dùng tất cả hạnh nguyện, thường đi chung với trí-tuệ, cùng tận thuở vị-lai rõ thấu cảnh-giới bí-mật rộng lớn của chư Phật, khéo biết tất cả pháp bình đẳng của Phật, đã đi trên bực Phổ-Quang-Minh của Như-Lai, nhập nơi vô-lượng môn tam-muội, đều tùy loại hiện thân khắp tất cả chỗ, đồng sự với thế-gian mà thật hành thế-pháp, tổng-trì rộng lớn chứa nhóm tất cả pháp, biện tài thiện xảo chuyển pháp-luân bất-thối, biển cả công-đức của tất cả Như-Lai đều vào nơi thân của các ngài, tất cả quốc-độ của chư Phật các ngài đều phát nguyện đi đến, đã từng cúng-dường tất cả chư Phật trải qua vô-biên số kiếp luôn hoan-hỷ không nhàm, chỗ tất cả chư Phật chứng đạo bồ-đề các ngài thường ở trong đó gần gũi không rời, thường đem nguyện-thệ Phổ-Hiền đã được, làm cho trí-thân của tất cả chúng-sanh đều đầy đủ. Chư Bồ-Tát trên đây trọn nên vô-lượng công-đức như vậy.

Lại có thế-giới vi-trần số Chấp-Kim-Cang Thần : Diệu-Sắc Na-La-Diên Thần, Nhựt-Luân Tốc-Tật-Tràng Thần, Tu-Di-Hoa-Quang Thần, Thanh-Tịnh-Vân-Âm Thần, Chư-Căn-Mỹ-Diệu Thần, Khả-Ái-Lạc-Quang-Minh Thần, Ðại-Thọ-Lôi-Âm Thần, Sư-Tử-Vương-Quang-Minh Thần, Mật-Diệm-Thắng-Mục Thần, Liên-Hoa-Quang-Ma-Ni-Kế Thần, Thế-giới vi-trần số Kim-Cang thần như vậy làm bực tối thượng-thủ. Chư thần này thường phát nguyện lớn trong vô-lượng kiếp quá-khứ : nguyện thường gần-gũi cúng dường chư Phật, nguyện hạnh đã được viên-mãn, đã đến bỉ-ngạn, chứa nhóm vô-biên phước-nghiệp thanh-tịnh, đã thông đạt cảnh-giới của các môn tam-muội, đã được thần-thông theo ở bên Như-Lai, nhập cảnh-giới bất-khả tư-nghì giải-thoát, oai-quang các ngài rất hùng mãnh nơi chúng hội, tùy theo chúng-sanh mà hiện thân để điều phục, tất cả chư Phật hóa thân ở chỗ nào thời các cũng hóa thân theo qua, chỗ cũa tất cả Như-Lai ở các ngài thường siêng năng hộ vệ.

Lại có thế-giới vi-trần số Thân-Chúng Thần : Hoa-Kế Trang-Nghiêm Thần, Quang-Chiếu Thập-Phương Thần, Hải-Âm Ðiều-Phục Thần, Tịnh-Hoa-Nghiêm-Kế Thần, Vô-Lượng-Oai-Nghi Thần, Tói-Thượng-Quang-Nghiêm Thần, Tịnh-Quang-Hương-Vân Thần, Thủ-Hộ-Nhiếp-Trì Thần, Phổ-Hiện-Nhiếp-Thủ Thần, Bất-Ðộng-Quang-Minh Thần, có thế-giới vi-trần số Thân-Chúng-Thần như vậy làm bực thượng thủ. Từ xưa chư thần này đã thành-tựu đại-nguyện cúng-dường phục-sự tất cả chư Phật.

Lại có thế-giới vi-trần số Túc-Hành-Thần : Bửu-Ấn-Thủ Thần, Liên-Hoa-Quang Thần, Thanh-Tịnh-Hoa-Kế Thần, Nhiếp-Chư-Thiện-Kiến Thần, Diệu-Bảo-Tinh-Tràng Thần, Lạc-Thổ-Diệu-Âm Thần, Chiên-Ðàn-Thọ-Quang Thần, Liên-Hoa-Quang-Minh Thần, Vi-Diệu-Quang-Minh Thần, Tích-Tập-Diệu-Hoa Thần, có thế-giới vi-trần số Túc-hành Thần như vậy làm bực thượng thủ. Chư Thần này trong vô-lượng kiếp quá-khứ thường gần gũi Như-Lai.

Lại có thế-giới vi-trần số Ðạo-Tràng Thần : Tịnh Trang-Nghiêm-Tràng Thần, Tu-Di Bảo-Quang Thần, Lôi-Âm-Tràng-Tướng Thần, Vũ-Hoa-Diệu-Nhãn Thần, Hoa-Anh-Quang-Kế Thần, Vũ-Bửu-Trang-Nghiêm Thần, Kim-Cang-Thể-Vân Thần, Liên-Hoa-Quang-Minh Thần, Diệu-Quang-Chiếu-Diệu Thần, có thế-giới vi-trần số Ðạo-Tràng-Thần như vậy làm bực thượng-thủ. Thuở quá-khứ, chư thần này đã gặp vô-lượng Phật thành tựu nguyện-lực thường cúng dường Phật.

Lại có thế-giới vi-trần số Chủ-Thành Thần : Bửu-Phong-Quang-Diệu Thần, Diệu-Nghiêm-Cung-Ðiện Thần, Thanh-Tịnh-Hỷ-Bảo Thần, Ly-Ưu-Thanh-Tịnh Thần, Hoa-Ðăng-Diệm-Nhãn Thần, Diệm-Tràng-Minh-Hiện Thần, Thạnh-Phước-Quang-Minh Thần, Thanh-Tịnh-Quang-Minh Thần, Hương-Kế-Trang-Nghiêm Thần, Diệu-Bửu-Quang-Minh Thần, có thế-giới vi-trần số Chủ-Thành Thần như vậy làm bực Thượng-thủ. Trong vô-lượng bất-tư-nghì kiếp, chư thần này đều trang nghiêm Thanh-Tịnh cung-điện của Như-Lai.

Lại có thế-giới vi-trần số Chủ-Ðịa Thần : Phổ-Ðức-Tịnh-Hoa Thần, Kiên-Phước-Trang-Nghiêm Thần, Diệu-Hoa-Nghiêm-Thọ Thần, Phổ-Tán-Chúng-Bửu Thần, Tịnh-Mục-Quán-Thời Thần, Diệu-Sắc-Thắng-Nhãn Thần, Hương-Mao-Phát-Quang Thần, Duyệt-Ý-Âm-Thinh Thần, Diệu-Hoa-Triền-Kế Thần, Kim-Cang-Nghiêm-Thể Thần, có thế-giới vi-trần số Chủ-Ðịa Thần như vậy làm bực thượng-thủ. Chư thần này thuở xưa phát-nguyện rộng lớn thường gần gũi chư Phật đồng tu phước-nghiệp.

Lại có vô-lượng chủ Sơn-thần : Bửu-Phong-Khai-Hoa Thần, Hoa-Lâm-Diệu-Kế Thần, Cao-Tràng-Phổ-Chiếu Thần, Ly-Trần Tịnh-Kế Thần, Quang-Chiếu Thập-Phương Thần, Ðại-Lực Quang-Minh Thần, Oai-Quang-Phổ-Thắng Thần, Vi-Mật-Quang-Luân Thần, Phổ-Nhãn-Hiện-Kiến Thần, Kim-Cang-Mật-Nhãn Thần, có vô-lượng Chủ-Sơn-Thần như vậy làm bực thượng-thủ. Chư thần này đã được pháp-nhãn thanh-tịnh đối với các pháp.

Lại có bất-tư-nghì số Chủ-Lâm Thần : Bố-Hoa-Như-Vân Thần, Trạc-Cán-Thơ-Quang Thần, Sanh-Nha-Phát-Diệu Thần, Cát-Tường-Tịnh-Diệp Thần, Thùy-Bố-Diệm-Tàng Thần, Thanh-Tịnh-Quang-Minh Thần, Khả-Ý-Lôi-Âm Thần, Quang-Hương Phổ-Biến Thần, Diệu-Quang Hoánh-Diệu Thần, Hoa-Quả-Quang-Vị Thần. Bất-tư-nghì số Chủ-Lâm Thần như vậy làm bực thượng thủ. Chư thần này đều có vô-lượng quang-minh khả-ái.

Lại có vô-lượng Chủ-Dược Thần : Cát-Tường Thần, Chiên-Ðàn-Lâm Thần, Thanh-Tịnh-Quang-Minh Thần, Danh-Xưng-Phổ-Văn Thần, Mao-Khổng-Quang-Minh Thần, Phổ-Trị Thanh-Tịnh Thần, Tế-Nhựt-Quang-Tràng Thần, Minh-Kiến Thập-Phương Thần, vô-lượng Chủ-Dược Thần như vậy làm bực thượng-thủ. Chư thần này đều lìa cấu nhiễm, lòng nhơn từ cứu-giúp muôn vật.

Lại có vô-lượng Chủ-Giá Thần : Nhu-Nhuyến-Thắng-Vị Thần, Thời-Hoa-Tịnh-Quang Thần, Sắc-Lực-Dũng-Kiện Thần, Tăng-Trưởng Tinh-Khí Thần, Phổ-Sanh-Căn-Quả Thần, Diệu-Nghiêm Hoàn-Kế Thần, Nhuận-Trạch-Tịnh-Hoa Thần, Thành-Tựu-Diệu-Hương Thần, Kiến-Giả Ái-Nhạo Thần, Ly-Cấu-Tịnh-Quang Thần, có vô-lượng Chủ-Giá thần như vậy là bực thượng-thủ. Chư thần này đều được thành tựu đại hỷ.

Lại có vô-lượng Chủ-Hà Thần : Phổ-Phát-Tánh-Lưu Thần, Phổ-Khiết-Tuyền-Giản Thần, Ly-Trần Tịnh-Nhãn Thần, Thập-Phương Biến-Hống Thần, Cứu-Hộ Chúng-Sanh Thần, Vô-Nhiệt Tịnh-Quang Thần, Phổ-Sanh Hoan-Hỷ Thần, Quảng-Ðức-Thắng-Tràng Thần, Quang-Chiếu-Phổ-Thế-Thần, Hải-Ðức-Quang-Minh Thần, có vô-lượng Chủ-Hà thần như vậy làm bực thượng-thử. Chư thần này đều ân cần để ý lợi ích chúng-sanh.

Lại có vô-lượng Chủ-Hải Thần : Xuất-Hiện Bửu-Quang Thần, Thành-Kim-Cang-Tràng Thần, Viễn-Ly-Trần-Cấu Thần, Phổ-Thủy-Cung-Ðiện Thần, Cát-Tường-Bửu-Nguyệt Thần, Diệu-Hoa-Long-Kế Thần, Phổ-Trì-Quang-Vị Thần, Bửu-Diệm-Hoa-Quang Thần, Kim-Cang-Diệu-Kế Thần, Hải-Triều-Lôi-Âm Thần, có vô-lượng Chủ-Hải thần như vậy làm bực thượng-thủ. Chư thần này đều dùng biển cả công-đức của Như-Lai để đầy đủ thân mình.

Lại có vô-lượng Chủ-Thủy Thần : Phổ-Hưng-Vân-Tràng Thần, Hải-Triều-Vân-Âm Thần, Diệu-Sắc Luân-Kế Thần, Thiện-Xảo-Triền-Phục Thần, Ly-Cấu-Hương-Tích Thần, Phước-Kiều-Quán-Âm Thần, Tri-Túc-Tự-Tại Thần, Tịnh-Hỷ-Thiện-Âm Thần, Phổ-Hiện-Oai-Quang Thần, Hống-Âm-Biến-Hải Thần, có vô lượng Chủ-Thủy thần như vậy làm bực thượng thủ. Chư thần này thường siêng năng cứu hộ và làm lợi ích tất cả chúng-sanh.

Lại có vô số Chủ-Hỏa Thần : Phổ-Quang Diệm-Tàng Thần, Phổ-Tập Quang-Tàng Thần, Ðại-Quang-Phổ-Chiếu Thần, Chúng-Diệu-Cung-Ðiện Thần, Vô-Tận Quang-Kế Thần, Chủng-Chủng-Diệm-Nhãn Thần, Thập-Phương-Cung-Ðiện như Tu-Di-Sơn Thần, Oai-Quang-Tự-Tại Thần, Quang-Minh-Phá-Ám Thần, Lôi-Âm-Ðiển-Quang Thần, có vô-số Chủ-Hoả thần như vậy làm bực thượng-thủ. Chư thần này đều có thể thị-hiện các thứ quang-minh làm cho chúng-sanh dứt trừ những nhiệt-não.

Lại có vô-lượng Chủ-Phong Thần : Vô-Ngại-Quang-Minh Thần, Phổ-Hiện-Dũng-Nghiệp Thần, Phiêu-Kích-Vân-Tràng Thần, Tịnh-Quang-Trang-Nghiêm Thần, Lực-Năng-Kiệt-Thủy Thần, Ðại-Thinh-Biến-Hống Thần, Thọ-Sóc-Thùy-Kế Thần, Sở-Hành-Vô-Ngại Thần, Chủng-Chủng-Cung-Ðiện Thần, Ðại Quang-Phổ-Chiếu Thần, có vô-lượng Chủ-Phong thần như vậy làm bực thượng thủ. Chư thần này đều siêng năng làm tan dứt tâm ngã mạn.

Lại có vô-lượng Chủ-Không Thần : Tịnh-Quang-Phổ Chiếu Thần, Phổ-Du-Thâm-Quảng Thần, Sanh-Cát-Tường-Phong Thần, Ly-Chướng An-Trụ Thần, Quảng-Bộ-Diệu-Kế Thần, Vô-Ngại-Quang-Diệm Thần, Vô-Ngại-Thắng-Lực Thần, Ly-Cấu-Quang-Minh Thần, Thâm-Viễn-Diệu-Âm Thần, Quang-Biến-Thập-Phương Thần, có vô-lượng Chủ-Không thần như vậy làm bực thượng-thủ.

Lại có vô-lượng Chủ-Phương Thần : Biến-Trụ-Nhứt-Thiết Thần, Phổ-Hiện-Quang-Minh Thần, Quang-Hạnh-Trang-Nghiêm Thần, Châu-Hành-Bất-Ngại Thần, Vĩnh-Ðoạn-Mê-Hoặc Thần, Phổ-Du-Tịnh-Không Thần, Ðại-Vân-Tràng-Âm Thần, Kế-Mục-Vô-Loạn Thần, Phổ-Quán-Thế-Nghiệp Thần, Châu-Biến-Du-Lãm Thần, có vô-lượng Chủ-Phương thần như vậy làm bực thượng-thủ. Chư thần này có thể dùng phương tiện phóng-quang-minh thường chiếu khắp mười phương chẳng dứt.

Lại có vô-lượng Chủ-Dạ Thần : Phổ-Ðức-Tịnh-Quang Thần, Hỷ-Nhãn-Quán-Thế Thần, Hộ-Thế-Tinh-Khí Thần, Tịch-Tịnh-Hải-Âm Thần, Phổ-Hiện-Cát-Tường Thần, Phổ-Phát-Thọ-Hoa Thần, Bình-Ðẳng-Hộ-Dục Thần, Du-Hí-Khoái-Lạc Thần, Chư-Căn-Thường-Hỷ Thần, Xuất-Sanh-Tịnh-Phước Thần, có vô-lượng Chủ-Dạ thần như vậy làm bực thượng thủ. Chư thần này thường siêng năng tu-tập, vui với chánh-pháp.

Lại có vô-lượng Chủ-Trú Thần : Thị-Hiện-Cung-Ðiện Thần, Phát-Khởi-Huệ-Hương Thần, Lạc-Thắng-Trang-Nghiêm Thần, Hương-Hoa-Diệu-Quang Thần, Phổ-Tập-Diệu-Dược Thần, Nhạo-Tác-Hỷ-Mục Thần, Phổ-Hiện-Chư-Phương Thần, Ðại-Bi-Quang-Minh Thần, Thiện-Căn-Quang-Chiếu Thần, Diệu-Hoa-Anh-Lạc Thần, có vô-lượng Chủ-Trú thần như vậy làm bực thượng-thủ. Chư thần này có thể sanh lòng tin hiểu nơi diệu-pháp, thường cùng nhau siêng năng nghiêm-sức cung-điện.

Lại có vô-lượng A-Tu-La-Vương : La-Hầu-Vương, Tỳ Ma-Chất-Ða-La Vương, Xảo-Huyễn-Thuật Vương, Ðại-Quyến-Thuộc Vương, Ðại-Lực Vương, Biến-Chiếu Vương, Kiên-Cố-Hành-Diệu-Trang-Nghiêm Vương, Quảng-Ðại-Nhơn-Huệ Vương, Xuất-Hiện-Thắng-Ðức Vương, Diệu-Hảo-Âm-Thinh Vương, có vô-lượng A-Tu-La Vương như vậy làm bực thượng-thủ. Các A-Tu-La-Vương này đều đã siêng-năng xô dẹp ngã-mạn và những phiền não.

Lại có bất-tư-nghì số Ca-Lâu-La Vương : Ðại-Tốc-Tật-Lực Vương, Vô-Năng-Hoại-Bảo-Cái Vương, Thanh-Tịnh-Tốc-Tật Vương, Tâm-Bất-Thối-Chuyển Vương, Ðại-Hải-Xứ-Nhiếp-Trì-Lực Vương, Kiên-Cố-Tịnh-Quang-Vương, Xảo-Nghiêm-Quang-Kế Vương, Phổ-Thiệp-Thị-Hiện Vương, Phổ-Quán-Hải Vương, Phổ-Âm-Quãng-Mục Vương, có bất-tư-nghì số Ca-Lâu-La Vương như vậy làm thượng-thủ. Các Ca-Lâu-La Vương này đều đã thành tựu sức phương tiện lớn, có thể cứu-hộ tất cả chúng-sanh.

Lại có vô-lượng Khẩn-Na-La Vương : Thiện-Huệ-Quang-Minh-Thiên Vương, Diệu-Hoa-Tràng Vương, Chủng-Chủng Trang-Nghiêm Vương, Duyệt-Ý-Hống-Thinh Vương, Bửu-Thọ-Quang-Minh Vương, Kiến-Giả-Hân-Lạc Vương, Ðộng-Ðịa-Lực Vương, Nhiếp-Phục-Ác-Chúng Vương, có vô-lượng Khẩn-Na-La Vương như vậy làm bực thượng-thủ. Các Khẩn-Na-La Vương này đều siêng-năng tinh-tấn quán tất cả pháp, lòng thường khoái-lạc du-hí tự-tại.

Lại có vô-lượng Ma-Hầu-La-Già Vương : Thiện-Huệ Vương, Thanh-Tịnh-Oai-Âm Vương, Thắng-Huệ-Trang-Nghiêm-Kế Vương, Diệu-Mục-Chủ Vương, Như-Ðăng-Tràng-Vi-Chúng-Sở-Quy Vương, Tói-Thắng-Quang-Minh-Tràng Vương, Sư-Tử-Ức Vương, Chúng-Diệu-Trang-Nghiêm-Âm Vương, Tu-Di-Kiên-Cố Vương, Khả-Ái-Nhạo-Quang-Minh Vương, có vô-lượng Ma-Hầu-La-Già Vương như vậy làm bực thượng-thủ. Các Ma-Hầu-La-Già Vương này đều siêng tu-tập phương-tiện rộng lớn làm cho chúng-sanh dứt hẳn ngu-si.

Lại có vô-lượng Dạ-Xoa Vương : Tỳ-Sa-Môn Vương, Tự-Tại-Âm Vương, Nghiêm-Trì-Khí-Trượng Vương, Ðại-Trí-Huệ Vương, Diệm-Nhãn-Chủ Vương, Kim-Cang-Nhãn Vương, Dũng-Kiện-Tý Vương, Dũng-Ðịch-Quân Vương, Phú-Tư-Tài Vương, Lực-Hoại-Cao-Sơn Vương, có vô-lượng Dạ-Xoa Vương như vậy làm bực thượng-thủ. Các Dạ-Xoa Vương này đều siêng thủ-hộ tất cả chúng-sanh.

Lại có vô-lượng Ðại-Long Vương : Tỳ-Lâu-Bát-Xoa Vương, Ta-Kiệt-La Vương, Vân-Âm-Diệu-Tràng Vương, Diệm-Khẩu-Hải-Quang Vương, Phổ-Cao-Vân-Tràng Vương, Ðức-Xoa-Ca-Vân-Tràng Vương, Phổ-Vận-Ðại-Thinh Vương, Vô-Nhiệt-Não Vương, có vô-lượng Ðại-Long Vương như vậy làm bực thượng-thủ. Các Long-Vương này đều siêng-năng kéo mây rưới mưa làm tiêu trừ sự phiền-não cho chúng-sanh.

Lại có vô-lượng Cưu-Bàn-Trà Vương : Tăng-Trưởng Vương, Long-Chúa-Vương, Thiện-Trang-Nghiêm-Tràng Vương, Phổ-Nhiêu-Ích-Hành-Vương, Thậm-Khả-Bố-Úy Vương, Mỹ-Mục-Trang-Nghiêm Vương, Cao-Phong-Huệ Vương, Dũng-Kiện-Tý Vương, Vô-Biên-Tịnh-Hoa-Nhãn Vương, Quảng-Ðại-Thiên-Diệu-A-Tu-La-Nhãn Vương, có vô-lượng Cưu-Bàn-Trà Vương như vậy làm bực thượng-thủ. Các Cưu-Bàn-Trà Vương này đều siêng tu-học pháp môn vô-ngại phóng quang-minh lớn.

Lại có vô-lượng Càn-Thác-Bà Vương : Trì-Quốc-Càn-Thác-Bà Vương, Thọ-Quang Vương, Tịnh-Mục Vương, Hoa-Quang Vương, Phổ-Âm Vương, Nhạo-Diệu-Ðộng-Diêu-Mục Vương, Diệu-Âm-Sư-Tử-Tràng Vương, Phổ-Phóng-Bửu-Quang-Minh Vương, Kim-Cang-Thọ-Hoa-Tràng Vương, Nhạo-Phổ-HIện-Quang-Nghiêm Vương, có vô-lượng Càn-Thác-Bà Vương như vậy làm thượng-thủ. Các Càn-Thác-Bà Vương này đều tin hiểu sâu xa đối với đại-pháp, hoan-hỷ kính mến, siêng-năng tu-tập chẳng mỏi nhàm.

Lại có vô-lượng Nguyệt-Thiên-Tử : Nguyệt-Thiên-Tử, Hoa-Vương-Kế-Quang-Minh Thiên-Tử, Chúng-Diệu-Tịnh-Quang-Minh Thiên-Tử, An-Lạc-Thế-Gian-Tâm Thiên-Tử, Thọ-Vương-Nhãn-Quang-Minh Thiên-Tử, Thị-Hiện-Thanh-Tịnh-Quang Thiên-Tử, Phổ-Du-Bất-Ðộng-Quang Thiên-Tử, Tinh-Tú-Vương Tự-Tại Thiên-Tử, Tịnh-Giác-Nguyệt Thiên-Tử, Ðại-Oai-Ðức-Quang-Minh Thiên-Tử, có vô-lượng Nguyệt-Thiên-Tử như vậy làm bực thượng-thủ. Chư Thiên-Tử này đều siêng năng mở bày tâm-bửu của chúng-sanh.

Lại có vô-lượng Nhựt-Thiên-Tử : Nhựt-Thiên-Tử, Quang-Diệu-Nhãn Thiên-Tử, Tu-Di-Quang-Khả-Úy-Kính-Tràng Thiên-Tử, Ly-Cấu-Bửu-Trang-Nghiêm Thiên-Tử, Dũng-Mãnh-Bất-Thối-Chuyển Thiên-Tử, Diệu-Hoa-Anh-Quang-Minh Thiên-Tử, Tói-Thắng-Tràng-Quang-Minh Thiên-Tử, Bửu-Kế-Phổ-Quang-Minh Thiên-Tử, Quang-Minh Nhãn Thiên-Tử, Trì-Thắng-Ðức Thiên-Tử, Phổ-Quang-Minh Thiên-Tử, có vô-lượng Nhựt-Thiên-Tử như vậy làm bực thượng-thủ. Chư Thiên-Tử này đều siêng tu-tập lợi ích chúng-sanh thêm lớn căn lành cho họ.

Lại có vô-lượng Ðao-Lợi Thiên-Vương : Thích-Ca-Nhơn-Ðà-La Thiên-Vương, Phổ-Xưng-Mãn-Âm Thiên-Vương, Từ-Mục-Bửu-Kế Thiên-Vương, Bửu-Quang-Tràng-Danh-Xưng Thiên-Vương, Phát-Sanh-Hỷ-Lạc-Kế Thiên-Vương, Khả-Ái-Nhạo-Chánh-Niệm Thiên-Vương, Tu-Di-Thắng-Âm Thiên-Vương, Thành-Tựu-Niệm Thiên-Vương, Khả-Ái-Nhạo-Tịnh-Hoa-Quang Thiên-Vương, Tự-Tại-Quang-Minh-Năng-Giác-Ngộ Thiên-Vương, có vô-lượng Ðao-Lợi Thiên-Vương như vậy làm bực thượng-thủ. Chư Thiên-Vương này đều siêng phát khởi phước-nghiệp rộng lớn của tất cả thế-gian.

Lại có vô-lượng Dạ-Ma Thiên-Vương : Thiện-Thời-Phần Thiên-Vương, Khả-Ái-Nhạo-Quang-Minh Thiên-Vương, Vô-Tận-Huệ-Công-Ðức-Tràng Thiên-Vương, Thiện-Biến-Hóa-Ðoan-Nghiêm Thiên-Vương, Tổng-Trì-Ðại-Quang-Minh Thiên-Vương, Bất-Tư-Nghì-Trí-Huệ Thiên-Vương, Luân-Tê Thiên-Vương, Quang-Diệm Thiên-Vương, Quang-Chiếu Thiên-Vương, Phổ-Quan-Sát-Ðại-Danh-Xưng Thiên-Vương, có vô-lượng Dạ-Ma Thiên-Vương như vậy làm bực thượng-thủ. Chư Thiên-Vương này đều siêng năng tu tập căn lành rộng lớn, thường có lòng hỷ-túc.

Lại có bất-tư-nghì số Ðâu-Suất Thiên-Vương : Tri-Túc Thiên-Vương, Hỷ-Lạc-Hải-Kế Thiên-Vương, Tối-Thắng-Công-Ðức-Tràng Thiên-Vương, Tịch-Tịnh-Quang Thiên-Vương, Khả-Ái-Nhạo Diệu-Mục Thiên-Vương, Bửu-Phong-Tịnh-Nguyệt Thiên-Vương, Tói-Thắng-Dũng-Kiện-Lực Thiên-Vương, Kim-Cang-Diệu-Quang-Minh Thiên-Vương, Tinh-Tú-Trang-Nghiêm-Tràng Thiên-Vương, Khả-Ái-Nhạo-Trang-Nghiêm Thiên-Vương, có bất-tư-nghì Ðâu-Suất Thiên-Vương như vậy làm bực thượng-thủ. Chư Thiên-Vương này đều siêng trì-niệm danh-hiệu của tất cả chư Phật.

Lại có vô-lượng Hóa-Lạc Thiên-Vương : Thiện-Biến-Hóa Thiên-Vương, Tịch-Tịnh-Âm-Quang-Minh Thiên-Vương, Biến-Hóa-Lực-Quang-Minh Thiên-Vương, Trang-Nghiêm-Chủ Thiên-Vương, Niệm-Quang Thiên-Vương, Tói-Thượng-Vân-Âm Thiên-Vương, Chúng-Diệu-Tối-Thắng-Quang Thiên-Vương, Diệu-Kế-Quang-Minh Thiên-Vương, Thành-Tựu-Hỷ-Huệ Thiên-Vương, Hoa-Quang-Kế Thiên-Vương, Phổ-Kiến-Thập-Phương Thiên-Vương, có vô-lượng Hóa-Lạc Thiên-Vương như vậy làm bực thượng-thủ. Chư Thiên-Vương này đều siêng điều phục tất cả chúng-sanh cho họ được giải-thoát.

Lại có vô-số Tha-Hóa-Tự-Tại Thiên-Vương : Ðắc-Tự-Tại Thiên-Vương, Diệu-Mục chủ Thiên-Vương, Diệu-Quang-Tràng Thiên-Vương, Dõng-Mãnh-Huệ Thiên-Vương, Diệu-Âm-Cú Thiên-Vương, Diệu-Quang-Tràng Thiên-Vương, Tịch-Tịnh-Cảnh-Giới-Môn Thiên-Vương, Diệu-Luân-Trang-Nghiêm-Tràng Thiên-Vương, Hoa-Nhị-Huệ-Tự-Tại Thiên-Vương, Nhơn-Ðà-La-Lực-Diệu-Trang-Nghiêm-Quang-Minh Thiên-Vương, có vô-số tự-tại Thiên-Vương như vậy làm bực thượng-thủ. Chư Thiên-Vương này đều siêng tu-tập pháp-môn rộng lớn phương-tiện tự-tại.

Lại có vô-số Ðại-Phạm Thiên-Vương : Thi-Khí Thiên-Vương, Huệ-Quang Thiên-Vương, Thiện-Huệ-Quang-Minh Thiên-Vương, Phổ-Vân-Âm Thiên-Vương, Quán-Thế-Ngôn-Âm-Tự-Tại Thiên-Vương, Tịch-Tịnh-Quang-Minh-Nhãn Thiên-Vương, Quang-Biến-Thập-Phương Thiên-Vương, Biến-Hóa-Âm Thiên-Vương, Quang-Minh-Chiếu-Diệu-Nhãn Thiên-Vương, Duyệt-Ý-Hải-Âm Thiên-Vương, có vô-số Phạm-Thiên-Vương như vậy làm bực thượng-thủ. Chư Thiên-Vương này đều đủ đại-từ thương xót chúng-sanh, phóng quang chiếu khắp làm cho chúng-sanh đều vui đẹp.

Lại có vô-lượng Quang-Âm Thiên-Vương : Khả-Ái-Nhạo-Quang-Minh Thiên-Vương, Thanh-Tịnh-Diệu-Quang Thiên-Vương, Năng-Tự-Tại-Âm Thiên-Vương, Tối-Thắng-Niệm-Trí Thiên-Vương, Khả-Ái-Nhạo-Thanh-Tịnh-Diệu-Âm Thiên-Vương, Thiện-Tư-Duy-Âm Thiên-Vương, Phổ-Âm-Biến-Chiếu Thiên-Vương, Thậm-Thâm-Quang-Âm Thiên-Vương, Vô-Cấu-Xưng-Quang-Minh Thiên-Vương, Tối-Thắng-Tịnh-Huệ-Quang Thiên-Vương, có vô-lượng Quang-Âm Thiên-Vương như vậy làm bực thượng-thủ. Chư Thiên-Vương này đều an trụ nơi pháp-môn hỉ-lạc tịch-tịnh rộng-lớn vô-ngại.

Lại có vô-lượng Biến-Tịnh Thiên-Vương : Thanh-Tịnh-Danh-Xưng Thiên-Vương, Tối-Thắng-Kiến Thiên-Vương, Tịch-Tịnh-Ðức Thiên-Vương, Tu-Di-Âm Thiên-Vương, Tịnh-Niệm-Nhãn Thiên-Vương, Khả-Ái-Nhạo-Tối-Thắng-Quang-Chiếu Thiên-Vương, Thế-Gian Tự-Tại Chúa Thiên-Vương, Quang-Diệm Tự-Tại Thiên-Vương, Nhạo-Tư-Duy-Pháp-Biến-Hóa Thiên-Vương, Biến-Hóa-Tràng Thiên-Vương, Tinh-Tú-Âm-Diệu-Trang-Nghiêm Thiên-Vương, có vô-lượng Biến-Tịnh Thiên-Vương như vậy làm bực thượng-thủ. Chư Thiên-Vương này đều đã an-trụ pháp-môn rộng-lớn, siêng làm lợi ích cho thế-gian.

Lại có vô-lượng Quảng-Quả Thiên-Vương : Ái-Nhạo-Pháp-Quang-Minh-Tràng Thiên-Vương, Thanh-Tịnh-Trang-Nghiêm Hải Thiên-Vương, Tối-Thắng-Huệ-Quang-Minh Thiên-Vương, Tự-Tại-Trí-Huệ-Tràng Thiên-Vương, Nhạo-Tịch-Tịnh Thiên-Vương, Phổ-Trí-Nhãn Thiên-Vương, Nhạo-Triền-Huệ Thiên-Vương, Thiện-Chủng-Huệ-Quang-Minh Thiên-Vương, Vô-Cấu-Tịch-Tịnh-Quang Thiên-Vương, Quảng-Ðại-Thanh-Tịnh-Quang Thiên-Vương, có vô-số lượng Quảng-Quả Thiên-Vương như vậy làm bực thượng-thủ. Chư Thiên-Vương này đều dùng pháp tịch-tịnh mà làm cung-điện và an-trụ trong đó.

Lại có vô-số Ðại-Tự-Tại Thiên-Vương : Diệu-Diệm-Hải Thiên-Vương, Tự-Tại-Danh-Xưng-Quang Thiên-Vương, Thanh-Tịnh-Công-Ðức-Nhãn Thiên-Vương, Khả-Ái-Nhạo-Ðại-Huệ Thiên-Vương, Bất-Ðộng-Quang-Tự-Tại Thiên-Vương, Diệu-Trang-Nghiêm-Nhãn Thiên-Vương, Thiện-Tư-Duy-Quang-Minh Thiên-Vương, Khả-Ái-Nhạo-Ðại-Trí Thiên-Vương, Phổ-Âm-Trang-Nghiêm-Tràng Thiên-Vương, Cực-Tinh-Tấn-Danh-Xưng-Quang Thiên-Vương, có vô-số Ðại-Tự-Tại Thiên-Vương như vậy làm bực thượng-thủ. Chư Thiên-Vương này đều siêng quán sát pháp vô tướng, chỗ thật hành bình đẳng.

(1) Lúc bấy giờ, hải-chúng đều đã vân tập nơi đạo-tràng của Như-Lai. Tất cả đều nhất tâm chiêm-ngưỡng Ðức Thế-Tôn.

(1) : Hán bộ quyển 2.

Cả chúng hội này đều đã rời tất cả tâm cấu-nhiễm phiền-não và những tập-khí thừa, xô ngã tòa núi trọng-chướng, được thấy Phật không bị trệ-ngại. Ðại-chúng này, từ vô-lượng kiếp xa xưa, đã được sự nhiếp-thọ của Ðức Tỳ-Lô-Giá-Na Phật, trong thời ký tu bồ-tát-hạnh. Họ đã được giáo-hóa thành-thục và đều được an-trụ nơi đạo nhứt-thiết-chủng-trí, đã vun trồng vô-lượng đức lành và đều được đại-phước, đã vào nơi nguyện hải phương-tiện, chỗ thật hành đều hoàn-toàn thanh-tịnh, đã khéo xuất-ly, thường thấy Phật được rõ ràng, dùng sức thắng-giải vào trong biển lớn công-đức của Như-Lai, đã được du-hí thần-thông nơi môn giải-thoát của chư Phật.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11631)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11945)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11101)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11340)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 12061)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12551)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10762)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 17973)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11723)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9942)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10167)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12348)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15336)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11238)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14325)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12094)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15357)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 11997)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12400)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11171)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12084)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10602)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12553)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13158)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14835)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12675)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16567)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19659)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13105)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12662)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12251)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11843)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10897)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13518)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11944)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11839)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11629)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12762)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14513)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12612)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15663)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13620)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12892)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9859)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 18014)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11161)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 9076)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12171)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 13042)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10297)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12184)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15303)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16606)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12212)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11464)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14265)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19697)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14146)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24604)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10679)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant