Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Trang 1

11 Tháng Ba 201100:00(Xem: 21236)
Trang 1

KINH HOA NGHIÊM 
Hán Dịch: Ðại-Sư Thật-Xoa-Nan-Ðà - Việt Dịch: HT Thích Trí Tịnh
Phật Học Viện quốc Tế Xuất Bản PL 2527 - 1983

PHẨM HOA TẠNG THẾ GIỚI 
THỨ NĂM

Lúc đó Phổ-Hiền Bồ-Tát lại bảo đại-chúng rằng : 'Chư Phật-tử ! Hoa-tạng thế-giới-hải này, được trang-nghiêm tịnh là do đức Tỳ-Lô-Giá-Na Như-Lai, thuở xưa lúc tu hạnh Bồ-Tát trải qua thế-giới-hải vi-trần số kiếp, trong mỗi kiếp gần gũi vi-trần số Phật, nơi mỗi Phật tu-tập vi-trần số đại nguyện thanh-tịnh.

Chư Phật-tử ! Hoa-tạng thế-giới trang-nghiêm này, có tu-di-sơn vi-trần số phong-luân nhiếp-trì. Phong-luân dưới chót tên bình-đẳng-trụ có thể nhiếp-trì phong-luân trên, trang-nghiêm với vô-số ngọn lửa báu sáng rực rỡ. Phong-luân kế trên tên Xuất-sanh-chủng-chủng bửu-trang-nghiêm có thể nhiếp-trì từng trên tràng ma-ni-vương sáng rỡ.

Phong-luân kế trên, tên bửu-oai-đức có thể nhiếp-trì từng trên vô-số bửu-linh. Phong-luân kế trên tên Bình-đẳng-diêm có thể nhiếp-trì từng trên ma-ni-vương sáng như mặt trời. Phong-luân kế trên tên Chủng-chủng Phổ-trang-nghiêm có thể nhiếp-trì từng vòng hoa sáng chói. Phong-luân kế trên tên Phổ-thanh-tịnh có thể nhiếp-trì từng trên tòa sư-tử hoa báu chiếu sáng. Phong-luân kế trên tên Thinh-biến-thập phương có thể nhiếp-trì từng trên tràng vô-số châu-vương. Phong-luân kế trên tên Nhứt-thiết-bửu-quang-minh có thể nhiếp-trì từng trên cây báu vô-số ma-ni-vương. Phong-luân kế trên tên Tốc-tật-phổ-trì có thể nhiếp-trì từng trên mây tu-di tất cả hương ma-ni. Phong-luân kế trên tên Chủng-chủng-cung-điện-du-hành có thể nhiếp-trì từng trên mây hương-đài tất cả bửu-sắc. Chư Phật-tử ! Lần lượt đến tu-di-sơn vi-trần số phong-luân, trên hết tên Thù-thắng-oai-quang-tạng có thể nhiếp-trì biển hương-thủy phổ-quang ma-ni trang-nghiêm. Biển hương-thủy này có liên-hoa lớn tên Chủng-chủng-quang-minh-nhụy-hương-tràng. Hoa-tạng thế-giới-hải trụ trong tràng đó, bốn phương bằng thẳng thanh-tịnh kiên cố, kim-cang-luân-sơn bao giáp vòng, những cây nơi đất biển đều có khu vực sai khác.

Lúc đó Phổ-Hiền Bồ-Tát muốn tuyên lại nghĩa này thừa oai-thần của Phật quan-sát mười-phương rồi nói kệ rằng :

Thế-Tôn thuở xưa nơi các cõi

Chỗ chư Phật ngự tu tịnh nghiệp

Nên được các thứ bửu quang-minh

Hoa-tạng trang-nghiêm thế-giới-hải.

Từ-bi rộng lớn khắp tất cả

Xả thân vô-lượng số vi-trần

Do xưa nhiều kiếp sức tu hành

Nay thế-giới này không cấu nhiễm.

Phóng đại quang-minh trụ không-gian

Phong-luân nhiếp-trì không dao động

Phật-tạng ma-ni khắp nghiêm sức

Nguyện lực Như-Lai khiến thanh-tịnh.

Khắp rải hoa ma-ni diệu tạng

Do đại nguyện-lực trụ không gian

Các thứ biển kiên cố trang-nghiêm

Mây sáng bủa giăng khắp mười phương.

Trong xuân ma-ni chúng Bồ-Tát

Khắp đến mười phương sáng rực rỡ

Lửa sáng thành vòng hoa đẹp tốt

Pháp-giới châu-lưu khắp tất cả.

Trong tất cả báu phóng quang-minh

Quang-minh đó chiếu khắp chúng-sanh

Cõi nước mười phương đều chiếu đến

Khiến chúng khỏi khổ đến bồ-đề.

Trong báu, Phật số đồng chúng-sanh

Từ chân lông Phật hiện hóa-thân

Phạm-Vương Ðế-Thích chuyển-luân-vương

Tất cả chúng-sanh và chư Phật.

Hóa hiện quang-minh khắp pháp-giới

Quang-minh diễn nói tên chư Phật

Các thứ phương-tiện hiện điều-phục

Ứng khắp lòng chúng không bỏ sót.

Những vi-trần trong hoa-tạng-giới

Trong mỗi mỗi trần thấy pháp-giới

Bửu-quang hiện Phật như mây nhóm

Chư Phật như vậy ngự tự-tại.

Nguyện-lực quảng-đại khắp pháp-giới

Trong tất cả kiếp-độ chúng-sanh

Hạnh-nguyện Phổ-Hiền trí đều thành

Tất cả trang-nghiêm do đây có.

Lúc đó Phổ-Hiền Bồ-Tát lại bảo đại-chúng rằng : ''Chư Phật-tử ! Hoa-Tạng trang-nghiêm thế-giới-hải này, đại luân-vi-sơn ở trên liên-hoa-nhựt-châu-vương, chiên-đàn ma-ni làm thân, oai-đức bửu-vương làm chót, diệu hương ma-ni làm luân, diệm tạng kim cang hiệp thành, tất cả hương thủy chảy trong đó, rừng bằng châu báu, hoa tốt đua nở, cỏ thơm trải đất, minh-châu xen trang-nghiêm, khắp nơi đầy những hoa thơm, châu ma-ni làm lưới giăng trùm, có thế-giới-hải vi-trần số sự trang-nghiêm tốt-đẹp như vậy.

Lúc đó Phổ-Hiền Bồ-Tát muốn tuyên lại nghĩa này, thừa oai-lực của Phật, quan-sát mười-phương rồi nói kệ rằng :

Thế-giới đại-hải vô-lượng biên

Bửu-luân thanh-tịnh nhiều màu sắc

Những sự trang-nghiêm đều đẹp lạ

Ðây do thần-lực của Như-Lai.

Ma-ni bửu-luân diệu-hương-luân

Nhẫn đến chơn-châu như đèn sáng

Các thứ diệu-bửu dùng trang-nghiêm

Thanh-tịnh bửu-luân chỗ an-trụ.

Ma-ni kiên-cố dùng làm tạng

Diêm-phù-đàn-kim dùng trang-sức

Phóng quang phát sáng khắp mười phương

Trong ngoài chói suốt đều thanh-tịnh.

Kim-cang ma-ni họp lại thành

Lại rưới ma-ni các diệu-bửu

Bửu đó đẹp lạ đều khác nhau

Phóng quang thanh-tịnh khắp tráng lệ.

Hương thủy chảy xen vô-lượng sắc

Rưới những bửu-hoa và chiên-đàn

Hoa-sen đua nở khắp mọi nơi

Cỏ thơm trải đất hương ngào ngạt.

Vô-lượng cây báu khắp trang-nghiêm

Hoa-nở nhị đơm mầu sáng rỡ

Y-phục xinh đẹp ở trong đó

Mây sáng bốn phương thường viên mãn.

Vô-lượng vô-biên đại Bồ-Tát

Cầm lọng thắp hương đầy pháp-giới

Ðều phát tất cả diệu thinh-âm

Chuyển chánh pháp-luân của chư Phật.

Những cây ma-ni bằng chất báu

Mỗi chất báu đều phóng quang-minh

Tỳ-Lô-Gía-Na thanh-tịnh thân

Hiện vào trong đó đều khiến thấy.

Trong những trang-nghiêm hiện thân Phật

Sắc tướng vô-biên vô-lượng số

Qua đến mười phương khắp mọi nơi

Hóa độ chúng-sanh cũng vô-lượng.

Tất cả trang-nghiêm vang tiếng diệu

Diễn nói bổn nguyện của Như-Lai

Sát-hải thanh-tịnh khắp mười phương

Thần-lực của Phật khiến đầy khắp.

Lúc đó Phổ-Hiền Bồ-Tát lại bảo đại-chúng rằng : 'Chư Phật-tử ! Trong đại-luân-vi-sơn nơi thế-giới-hải này, tất cả đại-địa đều do kim-cang hiệp thành, kiên cố trang-nghiêm chẳng thể hư hoại, bằng phẳng thanh-tịnh, ma-ni làm luân, các thứ báu làm tạng, những ma-ni bửu xen lẫn trong đó, rải những mạt châu báu, hoa sen trải đất, hương tạng ma-ni xen trong hoa. Những đồ trang-nghiêm đầy khắp như mây, tất cả sự trang-nghiêm trong tất cả quốc-độ của tam-thế chư Phật đều họp lại để nghiêm-sức, ma-ni diệu-bửu làm lưới hiện tất cả cảnh-giới của Như-Lai như lưới Thiên-đế giăng hàng trong đó.

Chư Phật-tử ! Ðại-địa của thế-giới-hải này có thế-giới-hải vi-trần-số sự trang-nghiêm như vậy.

Lúc đó Phổ-Hiền Bồ-Tát muốn tuyên lại nghĩa này, thừa thần-lực của Phật, quan-sát mười-phương mà nói kệ rằng :

Ðại-địa bằng phẳng rất thanh-tịnh

An-trụ kiên cố không hư hoại

Khắp chốn, ma-ni dùng trang-nghiêm

Trong đó các báu cùng xen lẫn.

Kim-cang làm đất rất đáng thích

Bửu-luân bửu-võng trang-nghiêm đủ

Hoa sen trải trên đều viên mãn

Diệu y giăng trùm đều cùng khắp.

Thiên-quang anh-lạc chuỗi ngọc báu

Trải giăng đầy đất trang-nghiêm đẹp

Chiên-đàn ma-ni rải khắp nơi

Ðều phóng quang-minh đẹp thanh-tịnh.

Bửu-hoa sáng chói phóng quang-minh

Tia sáng như mây chiếu tất cả

Rải hoa đẹp đầy và các báu

Trùm khắp mặt đất để nghiêm sức.

Mây dày giăng bủa khắp mười phương

Quang-minh quảng đại vô cùng tận

Khắp đến mười phương tất cả cõi

Diễn pháp cam-lồ của Như-Lai.

Trong châu ma-ni đều khắp hiện

Ðại nguyện của Phật vô-biên kiếp

Công-hạnh thuở xưa của Như-Lai

Trong châu báu này đều hiện đủ.

Những báu ma-ni nơi đại-địa

Tất cả quốc-độ đều đến nhập

Những quốc-độ kia mỗi vi-trần

Tất cả quốc-độ nhập trong đó.

Diệu-bửu trang-nghiêm hoa tạng giới

Bồ-Tát du hành khắp mười phương

Diễn nói hoằng-thệ của đại-sĩ

Ðây là thần-lực của đạo-tràng.

Ma-ni diệu-bửu khắp trang-nghiêm

Phóng tịnh quang-minh đủ sự đẹp

Ðầy khắp pháp-giới khắp hư-không

Phật-lực tự-nhiên hiện như vậy.

Những ai tu tập nguyện Phổ-Hiền

Vào cảnh-giới Phật bực đại-trí

Biết được trong thế-giới-hải này

Như vậy tất cả sự thần biến.

Lúc đó Phổ-Hiền Bồ-Tát lại bảo đại-chúng rằng : 'Chư Phật-tử ! Trong đại-địa của thế-giới-hải này có mười bất-khả-thuyết Phật-sát vi-trần-số hương-thủy-hải. Tất cả diệu-bửu-trang-nghiêm đáy biển. Diệu-hương ma-ni trang-nghiêm bờ biển. Tỳ-Lô-Giá-Na ma-ni bửu-vương dùng làm lưới. Trong biển đầy những nước thơm đủ màu chói suốt. Nhiều thứ hoa báu xoay giăng trên mặt nước. Bột mịn chiên-đàn lóng đọng dưới nước. Diễn ngôn âm của Phật, phóng quang-minh báu. Vô-biên Bồ-Tát cầm các thứ lọng, hiện thần-thông. Bao nhiêu sự trang-nghiêm của tất cả thế-giới đều hiện trong đó. Thềm bực bằng mười chất báu liệt hàng khắp nơi. Bao quanh bằng lan-can mười báu. Tứ-thiên-hạ vi-trần-số châu báu trang-nghiêm. Bạch liên-hoa đua nở trong nước. Bất-khả-thuyết trăm ngàn ức na-do-tha-số tràng thi-la mười báu. Hằng-hà-sa-số tràng thi-la mười báu. Hằng-hà-sa số tràng y linh lưới báu. Hằng-hà-sa số lâu-các báu đẹp vô-biên sắc-tướng. Trăm ngàn ức na-do-tha thành liên-hoa mười báu. Tứ-thiên-hạ vi-trần rừng cây báu. Bửu-diệm ma-ni dùng làm lưới. Có hằng-hà-sa-số hương chiên-đàn, ngọc ma-ni sáng chói vang ngôn âm chư Phật. Bất-khả-thuyết trăm ngàn ức na-do-tha rào tường bằng châu báu bao quanh khắp nơi để trang-nghiêm.

Lúc đó Phổ-Hiền Bồ-Tát muốn tuyên lại nghĩa này, thừa thần-lực của Phật, quan-sát mười phương rồi nói kệ rằng :

Ðại-địa trong thế-giới này

Có hương thủy-hải ma-ni đẹp

Diệu-bửu thanh-tịnh trải đáy biển

Ở trên kim-cang chẳng hư hoại.

Hương-tạng ma-ni xây thành bờ

Châu-luân nhựt-diệm như mây bủa

Diệu-bửu liên-hoa làm anh-lạc

Nơi nơi trang-nghiêm rất thanh-tịnh;

Nước thơm đựng trong đủ các màu

Hoa báu xoay giăng phóng ánh sáng

Tiếng vang chấn động khắp gần xa

Do Phật oai-thần nên diễn pháp.

Thềm bực trang-nghiêm đủ chất báu

Lại dùng ma-ni để trang-sức

Lan-can bao quanh bằng châu báu

Lưới báu liên-hoa như mây bủa.

Cây báu ma-ni liệt thành hàng

Hoa nhụy đua nở sáng rực rỡ

Các thứ tiếng nhạc luôn hòa-tấu

Thần-thông của Phật khiến như vậy.

Hương-diệm chói ngời không tạm dừng

Những bạch liên-hoa đơm báu đẹp

Giăng bủa trang-nghiêm biển nước thơm

Quảng-đại viên mãn đều đầy khắp.

Tràng báu minh-châu thường sáng rực

Y đẹp rủ thòng để nghiêm sức

Lưới linh như-ý diễn pháp-âm

Khiến người nghe tiếng hướng Phật-trí.

Liên-hoa diệu-bửu làm thành quách

Những ma-ni màu trang-nghiêm đẹp

Chơn-châu như mây giăng bốn phương

Như vậy trang-nghiêm biển hương-thủy.

Rào tường bao quang đều khắp vòng

Lâu-các vọng nhau giăng trên đó

Vô-lượng tia sáng thường chói rực

Nhiều thứ trang-nghiêm biển thanh-tịnh.

Tỳ-Lô Như-Lai thuở xa xưa

Tất cả sát-hải đều nghiêm-tịnh

Như vậy rộng lớn vô-lượng-biên

Ðều là Như-Lai tự-tại-lực.

Lúc đó Phổ-Hiền Bồ-Tát lại bảo đại-chúng rằng : 'Chư Phật-tử ! Mỗi biển hương-thủy chảy vòng bên hữu. Tất cả con sông này đều dùng kim-cang làm bờ, tịnh-quang ma-ni dùng để trang-nghiêm, thường hiện mây sáng màu báu đẹp của chư Phật và những ngôn-âm của các chúng-sanh. Những chỗ nước xoáy trong các sông ấy, hiện ra hình tướng tất cả công-hạnh của chư Phật đã tu-tập. Lưới giăng bằng ma-ni treo linh và lạc báu, những sự trang-nghiêm của các thế-giới-hải đều hiện trong lưới đó. Mây báu ma-ni trùm trên đó. Mây này khắp hiện sự thần-thông của đức Tỳ-Lô-Giá-Na, thập phương Hóa-Phật và tất cả chư Phật. Lại vang ra tiếng vi-diệu xưng dương danh hiệu của tam-thế chư Phật và Bồ-Tát.

Trong hương thủy đó thường xuất-sanh tất cả bửu-diệm, mây sáng nối luôn chẳng dứt. Nếu nói rộng ra, thời mỗi con sông đều có thế-giới-hải vi-trần-số sự trang-nghiêm.

Lúc đó Phổ-Hiền Bồ-Tát muốn tuyên lại nghĩa này, thừa oai-lực của Phật quan-sát mười-phương rồi nói kệ rằng :

Dòng nước thơm trong đầy cả sông

Kim-cang diệu-bửu làm bờ bực

Mạt báu làm luân trải đáy sông

Những thứ nghiêm-sức đều báu đẹp.

Thềm báu liệt hàng đẹp trang-nghiêm

Lan-can bao vòng rất tráng lệ

Chơn châu làm tạng những hoa đẹp

Những tràng chuỗi ngọc đồng rũ xuống.

Nước thơm sáng báu màu thanh-tịnh

Thường tuônma-ni dòng chảy xiết

Các hoa theo sóng đều động dao

Ðồng tấu nhạc-âm tuyên diệu-pháp.

Bột mịn chiên-đàn làm bùn đọng

Tất cả diệu-bửu đồng xoáy khoắn

Hương-tạng ngào ngạt đầy mặt nước

Phát sáng tuôn thơm khắp mọi nơi.

Trong sông xuất-sanh những diệu-bửu

Ðều phóng quang-minh màu chói rực

quang-minh ảnh-hiện thành đài tòa

Lọng báu chuỗi ngọc đều đầy đủ.

Trong ma-ni-vương hiện thân Phật

Quang-minh chiếu khắp mười phương cõi

Dùng đây làm luân đẹp mặt đất

Nước thơm chói suốt thường đầy khắp.

Ma-ni làm lưới, vàng làm lạc

Trùm khắp hương-hà diễn tiếng Phật

Tuyên đủ tất cả đạo bồ-đề

Cùng với hạnh Phổ-Hiền vi-diệu.

Bờ báu ma-ni rất thanh-tịnh

Thường vang tiếng nói bổn-nguyện Phật

Tất cả chư Phật xưa tu hành

Tiếng vang diễn nói đều nghe được.

Trong sông những chỗ nước xoáy khoắn

Bồ-Tát như mây thường hiện ra

Những quốc-độ lớn đều qua đến

Nhẫn đến pháp-giới đều đầy khắp.

Châu-vương thanh-tịnh bủa như mây

Tất cả hương-hà đều che khắp

Chân kia đồng Phật tướng bạch hào

Sáng rỡ hiển hiện bóng chư Phật.

Lúc đó Phổ-Hiền Bồ-Tát lại bảo đại-chúng rằng : 'Chư Phật-tử ! Hai bên bờ đất của những sông hương-thủy này đều trang-nghiêm bằng những diệu-bảo. Mỗi mỗi đều có tứ thiên-hạ vi-trần-số những báu trang-nghiêm. Bạch liên-hoa khắp các nơi. Mỗi nơi đều có tứ thiên-hạ vi-trần-số rừng cây báu hàng lối thứ tự. Trong mỗi mỗi cây thường tuôn ra những mây đẹp, ma-ni bửu-vương chiếu sáng trong đó. Các thứ hoa thơm đầy trên cây. Những cây báu ấy lại vang ra tiếng vi-diệu diễn nói đại nguyện của chư Phật đã tu hành trong nhiều kiếp. Lại rưới các thứ ma-ni bửu-vương đầy khắp mặt đất : những là liên-hoa-luân ma-ni bửu-vương, hương-diệm quang-vân ma-ni bửu-vương, chủng-chủng nghiêm-sức ma-ni bửu-vương, hiện bất-tư-nghì trang-nghiêm-sắc ma-ni bửu-vương, Nhựt-quang-minh ma-ni bửu-vương, quang-võng-vân ma-ni bửu-vương, hiện Phật thần-biến ma-ni bửu-vương, hiện chúng-sanh nghiệp-báo hải ma-ni bửu-vương. Có thế-giới-hải vi-trần-số ma-ni bửu-vương như vậy. Hai bên bờ đất của những sông hương-thủy đều có đủ những sự trang-nghiêm như vậy.

Lúc đó Phổ-Hiền Bồ-Tát, muốn tuyên lại nghĩa này, thừa thần-lực của Phật quan-sát mười-phương rồi nói kệ rằng :

Ðất kia bằng phẳng, rất thanh-tịnh

Chơn-kim ma-ni đồng nghiêm-sức

Cây báu thẳng hàng che trong đó

Cao vọi buông nhành rợp như mây.

Nhánh lá toàn bằng báu trang-nghiêm

Hoa nở phóng quang chiếu bốn phía

Trái bằng ma-ni như mây giăng

Khiến khắp mười phương thường hiện thấy.

Ma-ni trải đất đều đầy khắp

Bột báu màu đẹp đồng trang-nghiêm

Lại dùng ma-ni làm cung điện

Ðều hiện tượng hình của chúng-sanh.

Châu ma-ni vương hiện ảnh Phật

Khắp trên mặt đất đều rải khắp

Như vậy sáng chói khắp mười phương

Trong mỗi vi-trần đều thấy Phật.

Diệu-bửu trang-nghiêm khéo chia giăng

Lưới đèn chơn-châu xen lẫn nhau

Nơi nơi đều có ma-ni luân

Mỗi châu hiện thần-thông của Phật.

Châu báu trang-nghiêm phóng sáng lớn

Trong tia sáng đó hiện Hóa-Phật

Nơi nơi chốn chốn đều cùng khắp

Ðều dùng thập-lực khai diễn rộng.

ma-ni diệu-bửu bạch-liên-hoa

Trong tất cả sông đều mọc khắp

Hoa sen nhiều loại chẳng đồng nhau

Ðều hiện quang-minh không dứt hết.

Những sự trang-nghiêm trong ba thuở

Trong trái ma-ni đều hiển-hiện

Thể-tánh vô-sanh bất-khả-thủ

Ðây là Như-Lai tự-tại-lực.

Tất cả trang-nghiêm mặt đất này

Ðều hiện Như-Lai thân quảng-đại

Kia cũng chẳng đến cũng chẳng đi

Phật xưa nguyện-lực đều khiến thấy.

Trong mỗi vi-trần mặt đất này

Tất cả Phật-tử đương hành đạo

Ðều thấy cõi mình được thọ ký

Tùy theo ý nguyện đều thanh-tịnh.

Lúc đó Phổ-Hiền Bồ-Tát lại bảo đại-chúng rằng : 'Chư Phật-tử ! Thế-giới-hải trang-nghiêm của chư Phật Thế-Tôn đều bất-tư-nghì. Vì sao vậy ? Này Chư Phật-tử ! Tất cả cảnh-giới của Hoa-Tạng thế-giới-hải này, mỗi mỗi đều dùng thế-giới-hải vi-trần-số công-đức thanh-tịnh để trang-nghiêm.

Lúc đó Phổ-Hiền Bồ-Tát muốn tuyên lại nghĩa này, thừa thần-lực của Phật, quan-sát mười-phương rồi nói kệ rằng :

Tất cả chỗ trong sát-hải này

Ðều trang-sức với nhiều thứ báu

Phát sáng trên không, bủa như mây

Quang-minh rổng suốt, thường giăng đậy.

Ma-ni tuôn mây không cùng tận

Ảnh Phật mười phương hiện trong đó

Thần-thông biến-hóa chẳng tạm-dừng

Tất cả Bồ-Tát đồng vân tập.

Những ngọc ma-ni diễn Phật-âm

Tiếng Phật mỹ diệu bất-tư-nghì

Tỳ-Lô-Giá-Na xưa tu hành

Trong bảo-châu này luôn nghe thấy.

Quang-minh thanh-tịnh đấng Biến-Tri

Trong đồ trang-nghiêm đều hiện bóng

Biến-hóa phân-thân chúng vây quanh

Tất cả sát-hải đều cùng khắp.

Tất cả hóa-Phật đều như huyễn

Tìm chỗ đến kia đều chẳng được

Bởi sức oai-thần cảnh-giới Phật

Trong tất cả cõi hiện như vậy.

Thần-thông tự-tại của Như-Lai

Ðều khắp mười phương các quốc-độ

Trong sự trang-nghiêm của cõi này

Nơi các bửu châu đều hiện rõ.

Những sự biến-hóa ở mười phương

Tất cả đều như ảnh trong gương

Chỉ do Như-Lai xưa tu hành

Thần-thông nguyện-lực cấu tạo được.

Nếu Phật-tử tu hạnh Phổ-Hiền

Vào biển thắng-trí của Bồ-Tát

Có thể nơi trong các vi-trần

Khắp hiện thân mình tịnh quốc-độ.

Bất-khả tư-nghì ức đại kiếp

Gần-gũi tất cả chư Như-Lai

Tất cả công-hạnh đã tu hành

Trong một sát-na-do-tha đều hiện được.

Chư Phật quốc-độ như hư-không

Vô-đẳng vô-sanh và vô-tướng

Vì lợi chúng-sanh mà trang-nghiêm

Vì bổn-nguyện nên trụ trong đó.

Lúc đó Phổ-Hiền Bồ-Tát lại bảo đại-chúng rằng : 'Chư Phật-tử ! Nay tôi sẽ nói trong đây có những thế-giới nào an-trụ.

Chư Phật-tử ! Trong mười bất-khả-thuyết phật-sát vi-trần-số hương-thủy-hải này, có mười bất-khả-thuyết phật-sát vi-trần-số thế-giới-chủng an-trụ. Mỗi thế-giới-chủng lại có mười bất-khả-thuyết phật-sát vi-trần-số thế-giới.

Chư Phật-tử ! Ở trong thế-giới-hải, các thế-giới-chủng kia đều riêng nương ở, đều riêng hình-trạng, đều riêng thể-tánh, đều riêng phương-sở, đều riêng thu nhập, đều riêng trang-nghiêm, đều riêng chừng ngằn, đều riêng bày hàng, đều riêng vô-sai-biệt, đều riêng năng-lực gia-trì.

Chư Phật-tử ! Các thế-giới chủng này, hoặc có nương đại-liên-hoa-hải mà an-trụ, hoặc có nương vô-biên-sắc-bửu-hoa-hải mà an-trụ, hoặc có nương nhứt-thiết-chơn-châu-tạng-bửu-anh-lạc-hải mà an-trụ, hoặc có nương hương-thủy-hải mà an-trụ, hoặc có nương nhứt-thiết-hoa-hải mà an-trụ, hoặc có nương ma-ni-bửu-võng-hải mà an-trụ, hoặc có nương triền-lưu-quang-hải mà an-trụ, hoặc có Bồ-Tát bửu-trang-nghiêm-quan-hải mà an-trụ, hoặc có nương chủng-chủng-chúng-sanh-thân-hải mà an-trụ, hoặc có nương nhứt-thiết-phật-âm-thinh-ma-ni-vương-hải mà an-trụ. Có thế-giới-hải vi-trần-số sự an-trụ như vậy.

Chư Phật-tử ! Tất cả thế-giới-chủng đó hình trạng đều khác nhau : hoặc hình núi Tu-Di, hoặc hình sông, hoặc hình xoay chuyển, hoặc hình nước xoáy, hoặc hình trục xe, hoặc hình lễ-đàn, hoặc hình rừng cây, hoặc hình lầu gác, hoặc hình sơn-tràng, hoặc hình vuông góc, hoặc hình hoa-sen, hoặc hình thai-tạng, hoặc hình khư-lặc-ca, hoặc hình thân chúng-sanh, hoặc hình mây, hoặc hình tướng-hảo của Phật, hoặc hình quang-minh viên-mãn, hoặc hình lưới chơn-châu, hoặc hình ngạch cửa, hoặc hình đồ trang-nghiêm, có thế-giới-hải vi-trần-số hình trạng như vậy.

Chư Phật-tử ! Những thế-giới-chủng đó hoặc dùng thập phương ma-ni-vân làm thể, hoặc dùng quang-minh làm thể, hoặc dùng lửa báu thơm làm thể, hoặc dùng tất cả báu trang-nghiêm làm thể, hoặc dùng ảnh-tượng Bồ-Tát làm thể, hoặc dùng quang-minh chư Phật làm thể, hoặc dùng sắc tướng của Phật làm thể, hoặc dùng một bửu-quang làm thể, hoặc dùng nhiều bửu-quang làm thể, hoặc dùng thinh-âm những nghiệp-hải của tất cả chúng-sanh làm thể, hoặc dùng thinh-âm thanh-tịnh cảnh-giới của tất cả chư Phật làm thể, hoặc dùng thinh-âm đại-nguyện-hải của tất cả Bồ-Tát làm thể, hoặc dùng thinh-âm phương-tiện của tất cả Phật làm thể, hoặc dùng thinh-âm đồ trang-nghiêm thành hoại của tất cả cõi làm thể, hoặc dùng thinh-âm của vô-biên Phật làm thể, hoặc dùng thinh-âm biến-hóa của chư Phật làm thể, hoặc dùng thinh-âm thiện của tất cả chúng-sanh làm thể, hoặc dùng thinh-âm thanh-tịnh biển công-đức của tất cả Phật làm thể. Có thế-giới-vi-trần-số thể-tánh như vậy.

Lúc đó Phổ-Hiền Bồ-Tát muốn tuyên lại nghĩa này, thừa thần-lực của Phật quan-sát mười-phương rồi nói kệ rằng :

Sát-chủng kiên-cố diệu trang-nghiêm

Quảng-đại thanh-tịnh quang-minh tạng

An-trụ nơi bửu hải liên-hoa

Hoặc an-trụ nơi Hương-thủy hải.

Hình Tu-điều-phục, thành, cây, lễ-đàn

Tất cả sát-chủng khắp mười phương

Các loại trang-nghiêm hình chẳng đồng

Ðều riêng bủa giăng mà an-trụ.

Hoặc thể-tánh là tịnh quang-minh

Hoặc là hoa-tạng và bửu-vân

Hoặc do những ánh lửa cấu thành

An-trụ ma-ni tạng bất hoại.

Mây đèn màu lửa quang-minh thảy

Nhiều loại vô-biên màu thanh-tịnh

Hoặc dùng ngôn-âm để làm thể

Là tiếng bất-tư-nghì của Phật.

Hoặc do nguyện-lực vang ra tiếng

Thần-biến âm-thinh làm thể-tánh

Phước nghiệp rộng lớn của chúng-sanh

Công-đức âm của Phật cũng vậy.

Sát-chủng mỗi môn đều sai khác

Chẳng thể nghĩ bàn vô-cùng-tận

Mười phương như vậy đều cùng khắp

Quảng-đại trang-nghiêm hiện thần-lực.

Những cõi rộng lớn ở mười phương

Ðều hiện vào trong thế-giới này

Dầu thấy mười phương hiện trong đây

Mà thiệt không vào cũng không đến.

Ðem một sát-chủng vào tất cả

Tất cả vào một cũng không thừa

Thể tướng như cũ không đổi dời

Vô-đẳng vô-lượng đều cùng khắp.

Trong vi-trần của tất cả cõi

Ðều thấy Như-Lai hiện trong đó

Nguyện-hải ngôn-âm như sấm vang

Tất cả chúng-sanh đồng điều-phục.

Phật-thân cùng khắp tất cả cõi

Vô-số Bồ-Tát đều đầy khắp

Như-Lai tự-tại không ai bằng

Hoá-độ tất cả các hàm-thức.

Lúc đó Phổ-Hiền Bồ-Tát lại bảo đại-chúng rằng : 'Chư Phật-tử ! Mười bất-khả-thuyết Phật-sát vi-trần-số hương-thủy-hải này ở trong Hoa-Tạng thế-giới-hải giăng bày như lưới báu của Thiên-đế.

Chư Phật-tử ! Hương-thủy-hải ở trung-ương tên Vô-Biên-Diệu-Hoa-Quang. Ðáy biển là tràng ma-ni-vương hiện tất cả hình Bồ-Tát, xuất sanh một đại liên-hoa tên Nhứt-Thiết-Hương-Ma-Ni-Trang-Nghiêm. Trên đó có thế-giới-chủng tên Phổ-Chiếu-Thập-Phương-Xí-Nhiên-Bửu-Quang-Minh, dùng tất cả đồ trang-nghiêm làm thể. Trong đây có bất-khả-thuyết phật-sát vi-trần-số thế-giới. Phương dưới tất cả, có thế-giới tên Tối-Thắng-Quang-Biến-Chiếu, dùng kim-cang-trang-nghiêm-quang-diệu-luân làm tế, nương bửu-ma-ni-hoa mà trụ. Trạng như hình ma-ni-bửu. Mây bửu-hoa-trang-nghiêm giăng trùm trên đó. Trong đây có một phật-sát vi-trần-số thế-giới bao quanh. Phật hiệu Tinh-Nhãn-Ly-Cấu-Ðăng.

Qua khỏi phật-sát vi-trần-số thế-giới về thượng-phương, có thế-giới tên Chủng-Chủng-Hương-Liên-Hoa-Diệu-Trang-Nghiêm, dùng tất cả đồ trang-nghiêm làm tế, nương bửu-liên-hoa-võng mà trụ, trạng như tòa sư-tử, mây bửu-sắc châu che trùm, hai phật-sát vi-trần-số thế-giới bao quanh, Phật hiệu Sư-Tử-Quang-Thắng-Chiếu.

Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Bửu-Trang-Nghiêm-Phổ-Chiếu-Quang, dủng hương-phong-luân làm tế, nương bửu-hoa anh-lạc mà trụ, hình tám góc, mây ma-ni-nhựt-luân giăng-che, ba phật-sát vi-trần-số thế-giới bao quanh, Phật hiệu Tịnh-Quang-Trí-Thắng-Tràng.

Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Chủng-Chủng-Quang-Minh-Hoa-Trang-Nghiêm, dùng bửu-vương làm tế, nương biển kim-cang-thi-la-tràng mà trụ, hình như liên-hoa ma-ni, mây kim-cang ma-ni bửu-quanh che giăng, bốn phật-sát vi-trần-số thế-giới bao quanh, đều thuần thanh-tịnh, Phật hiệu Kim-Cang-Quang-Minh-Vô-Lượng-Tinh-Tấn-Lực-Thiện-Xuất-Hiện.

Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Phổ-Phóng-Diệu-Hoa-Quang, dùng bửu-linh-trang-nghiêm-võng làm tế, nương biển thọ lâm trang-nghiêm-bửu-luân-võng mà trụ, hình khắp vuông vức mà có nhiều cạnh góc, mây phạm-âm ma-ni-vương che giăng, năm phật-sát vi-trần-số thế-giới bao quanh, Phật hiệu Hương-Quang-Hỉ-Lực-Hải.

Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Tịnh-Diệu-Quang-Minh, dùng tràng bửu-vương trang-nghiêm làm tế, nương biển kim-cang cung-điện mà trụ, hình vuông, mây ma-ni-luân-kế-trướng giăng che, sáu phật-sát vi-trần-số thế-giới bao quanh, Phật hiệu Phổ-Quang-Tự-Tại-Tràng.

Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Chúng-Hoa-Diệm-Trang-Nghiêm, dùng hoa trang-nghiêm làm tế, nương biển bửu-sắc-diệm mà trụ, hình như lầu các, mây bửu-sắc-ý-chơn-châu-lan-thuẫn giăng che, bảy phật-sát vi-trần-số thế-giới bao quanh, thuần thanh-tịnh, Phật hiệu Hoan-Hỉ-Công-Ðức-Danh-Xưng Tự-Tại-Quang.

Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Xuất-Sanh-Oai-Lực-Ðịa, dùng xuất-nhứt-thiết-thinh ma-ni-vương-trang-nghiêm làm tế, nương biển bửu-sắc-liên-hoa-tòa-hư-không mà trụ, hình như lưới nhơn-đà-la, mây vô-biên-sắc-hoa-võng giăng che, tám phật-sát-vi-trần-số thế-giới bao quanh, Phật hiệu Quảng-Ðại-Danh-Xưng-Trí-Hải-Tràng.

Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Xuất-Diệu-Âm-Thinh, dủng tâm-vương-ma-ni-trang-nghiêm làm tế, nương biển ma-ni-vương hằng xuất diệu âm-thinh trang-nghiêm vân mà trụ, hình như thân Phạm-Thiên, mây tòa sư-tử vô-lượng bửu-trang-nghiêm giăng che, chín phật-sát vi-trần-số thế-giới bao quanh, Phật hiệu Thanh-Tịnh-Nguyện-Quang-Minh-Tướng-Vô-Năng-Tối-Phục.

Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Kim-Cang-Tràng, dùng vô-biên-trang-nghiêm-chơn-châu-tạng-bửu-anh-lạc làm tế, nương biển trang-nghiêm bửu sư-tử-tòa ma-ni mà trụ, hình tròn, mười tu-di-sơn vi-trần-số mây ma-ni-hoa-hương giăng che, mười phật-sát vi-trần-số thế-giới bao quanh, thuần thanh-tịnh, Phật hiệu Nhứt-Thiết-Pháp-Hải-Tối-Thắng-Vương.

Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Hằng-Xuất-Hiện-Ðế-Thanh-Bửu-Quang-Minh, dùng Kim-Cang trang-nghiêm làm tế, nương biển chủng-chủng-thù-thù dị hoa mà trụ, hình bán nguyệt, mây thiên-bửu-trướng giăng che, mười một phật-sát vi-trần-số thế-giới bao quanh, Phật hiệu Vô-Lượng-Công-Ðức-Pháp.

Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Quang-Minh-Chiếu-Diệu, dùng phổ-quang-trang-nghiêm làm tế, nương biển hoa-triền-hương-thủy mà trụ, hình như hoa-triền, nhiều thứ y-vân giăng che, mười hai phật-sát vi-trần-số thế-giới bao quanh, Phật hiệu Siêu-Thích-Phạm.

Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Ta-Bà, dùng kim-cang trang-nghiêm làm tế, nương liên-hoa-võng do phong-luân nhiếp trì mà trụ, hình như hư-không, dùng mây thiên-cung-điện trang-nghiêm giăng che, mười ba phật-sát vi-trần-số thế-giới bao quanh, Phật chính là đức Tỳ-Lô-Giá-Na Như-Lai.

Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Tịch-Tịnh-Ly-Trần-Quang, dùng bửu-trang-nghiêm làm tế, nương biển chủng-chủng-bửu-y mà trụ, trạng như hình chấp-kim-cang, mây vô-biên-sắc-kim-cang giăng che, mười bốn phật-sát vi-trần-số thế-giới bao quanh, Phật hiệu Biến-Pháp-Giới-Thắng-Âm.

Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Chúng-Diệu-Quang-Minh-Ðăng, dùng trướng trang-nghiêm làm tế, nương biển tịnh-hoa-võng mà trụ, hình như chữ vạn, mây ma-ni-thọ, hương-thủy-hải giăng che, mười lăm phật-sát vi-trần-số thế-giới bao quanh, thuần thanh-tịnh, Phật hiệu Bất-Khả-Tòi-Phục-Lực-Phổ-Chiếu-Tràng.

Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Thanh-Tịnh-Quang-Biến-Chiếu, dùng vô-tận-bửu-vân ma-ni-vương làm tế, nương biển chủng-chủng-hương-diệm-liên-hoa mà trụ, hình như quy-giáp, mây ma-ni-luân-chiên-đàn giăng-che, mười sáu phật-sát vi-trần-số thế-giới bao quanh, Phật hiệu Thanh-Tịnh-Nhựt-Công-Ðức-Nhãn.

Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Bửu-Trang-Nghiêm-Tạng dùng chúng-sanh-hình-ma-ni-vương làm tế, nương biển quang-minh-tạng-ma-ni-vương mà trụ, hình tám góc, dùng lưới luân-vi-trần-sơn-bửu-trang-nghiêm hoa-thọ giăng che, mười bảy phật-sát vi-trần-số bao quanh, Phật hiện Vô-Ngại-Trí-Quang-Minh-Biến-Chiếu-Thập-Phương.

Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Ly-Trần, dùng Diệu-Tướng Trang-Nghiêm làm tế, nương biển chúng-diệu-hoa-sư-tử-tòa mà trụ, hình như chuỗi ngọc, dùng mây ma-ni-vương viên-quang giăng che, mười tám phật-sát vi-trần-số thế-giới bao quanh, thuần thanh-tịnh, Phật hiệu Vô-Lượng-Phương-Tiện-Tối-Thắng-Tràng.

Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Thanh-Tịnh-Quang-Phổ-Chiếu, dùng xuất-vô-tận-bửu-vân ma-ni-vương làm tế, nương biển vô-lượng-sắc-hương-diệm-tu-di-sơn mà trụ, hình như bửu-hoa xoay nở, mây vô-biên-sắc-quang-minh-ma-ni-vương-đế-thanh giăng che, mười chín phật-sát vi-trần-số thế-giới bao quanh, Phật hiệu Phổ-Chiếu-Pháp-Giới-Hư-Không-Quang.

Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Diệu-Bửu-Diệm, dùng phổ-quang-minh-nhựt-nguyệt-bửu làm tế, nương biển thiên-hình-ma-ni-vương mà trụ, trạng như đồ bửu-trang-nghiêm, mây bửu-y-tràng và lưới ma-ni-đăng-tạng giăng che, hai mươi phật-sát vi-trần-số thế-giới bao quanh, thuần thanh-tịnh, Phật hiệu Phước-Ðức-Tướng-Quang-Minh.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12501)
Ấn là chiếc ấn hay khuôn dấu. Pháp có nghĩa là chánh pháp hay toàn bộ hệ thống tư tưởng trong lời dạy của Đức Phật được ghi lại trong ba tạng thánh điển. Pháp ấn có nghĩa là khuôn dấu của chánh pháp
(Xem: 10382)
Đây là Kinh thứ 16 của Nghĩa Túc Kinh và cũng có chủ đề “Mâu Ni”: Một vị mâu ni thấy như thế nào và hành xử như thế nào khi đứng trước tình trạng bạo động và sợ hãi?
(Xem: 12347)
Các nhà học giả Tây phương cũng như Đông phương đều công nhận hệ thống Bát-nhã là cổng chính yếu dẫn vào Đại thừa.
(Xem: 11646)
Mỗi khi nói về vấn đề niềm tin trong đạo Phật, chúng ta thường hay dẫn chứng những lời Phật dạy trong kinh Kalama.
(Xem: 28811)
Kinh Quán Thế Âm bồ tát cứu khổ nằm trong Vạn tự chánh tục tạng kinh, ta quen gọi là tạng chữ Vạn, quyển1, số 34. Kinh này là một trong những kinh Ấn Độ soạn thuật, thuộc Phương đẳng bộ.
(Xem: 12052)
Trong Kinh Kim Cang có câu, “Nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai.” Nghĩa là, nếu thấy các tướng đều xa lìa tướng, tức là thấy Phật.
(Xem: 13010)
Kinh Kim Cương (hay Kim Cang), tên đầy đủ là Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Đa (Vajracchedika-prajñaparamita), là một trong những bài kinh quan trọng nhất của Phật giáo Đại Thừa
(Xem: 11445)
Trong sách Nhật Tụng Thiền Môn, chúng ta có Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 12380)
Kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật là một bộ kinh hoằng dương rất thịnh, phổ biến rất rộng trong các kinh điển đại thừa.
(Xem: 17447)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 53061)
Phương pháp sám hối Từ bi đạo tràng Mục Liên Sám Pháp - Nghi Thức Tụng Niệm
(Xem: 35490)
Từ bi Đạo Tràng, bốn chữ ấy là danh hiệu của pháp sám hối nầy... Thích Viên Giác dịch
(Xem: 21398)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 10679)
Năm 1984 khi bắt đầu lạy kinh Ngũ Bách Danh bằng âm Hán Việt thuở ấy, tôi không để ý mấy về ngữ nghĩa. Vì lúc đó lạy chỉ để lạy theo lời nguyện của mình.
(Xem: 19240)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 12408)
Một trong những bộ kinh quan trọng nhất của hệ tư tưởng Phật giáo Bắc truyền, không những có ảnh hưởng to lớn đối với tín đồ Phật giáo mà còn lôi cuốn được sự quan tâm của giới nghiên cứu, học giả Đông Tây, là Kinh Diệu Pháp Liên Hoa.
(Xem: 26047)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 13321)
Tác phẩm này có thể là hành trang cần thiết cho những ai muốn thực hành Bồ Tát giới theo đúng lời Phật dạy. Vì vậy, tôi trân trọng giới thiệu đến Tăng, Ni, Phật tử.
(Xem: 14382)
Nguyên tác Phạn ngữ Abhidharmakośa của Thế Thân, Bản dịch Hán A-tỳ-đạt-ma-câu-xá luận của Huyền Trang - Việt dịch: Đạo Sinh
(Xem: 16090)
Vào khoảng thời gian Phật ngự tại nước Tỳ Xá Ly, gần đến giờ thọ trai Ngài mới vào thành khất thực. Bấy giờ trong thành Tỳ Xá Ly có một chàng ly xa tên là Tỳ La Tứ Na (Dõng Quân).
(Xem: 13730)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp, Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ, Ngã kim kiến văn đắc thọ trì, Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa.
(Xem: 16847)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ Ngã kim kiến văn đắc thọ trì Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa
(Xem: 17586)
Vào khoảng 150 năm sau khi Bụt nhập Niết bàn, đạo Bụt chia thành nhiều bộ phái, kéo dài mấy trăm năm. Thời kỳ này gọi là thời kỳ Đạo Bụt Bộ Phái.
(Xem: 13131)
Nói đến kinh Pháp Hoa, các vị danh Tăng đều hết lòng ca ngợi. Riêng tôi, từ sơ phát tâm đã có nhân duyên đặc biệt đối với bộ kinh này.
(Xem: 12534)
A-hàm có thể đẩy tan những dục vọng phiền não đang thiêu đốt chúng ta và nuôi lớn giới thân tuệ mạng thánh hiền của chúng ta...
(Xem: 11610)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni sanh ở Ấn Độ, nên thuyết pháp đều dùng Phạn ngữ, Kinh điển do người sau kiết tập cũng bằng Phạn văn. Những bổn Kinh Phật bằng Trung văn đều từ Phạn văn mà dịch lại.
(Xem: 11618)
Có rất nhiều công trình thâm cứu có tính cách học giả về tác phẩm nầy dưới dạng Anh ngữ, Nhật ngữ và Hoa ngữ liên quan đến đời sống, khái niệm nồng cốt của tư tưởng Trí Khải Đại Sư trong mối tương quan với Phật giáo Trung Quán
(Xem: 14511)
Luật học hay giới luật học là môn học thuộc về hành môn, nhằm nghiên cứuthực hành về giới luật do đức Phật chế định cho các đệ tử
(Xem: 20487)
Quyển sách “Giáo Trình Phật Học” quý độc giả đang cầm trên tay là được biên dịch ra tiếng Việt từ quyển “Buddhism Course” của tác giả Chan Khoon San.
(Xem: 18996)
Tam Tạng Thánh Điển là bộ sưu tập Văn Chương Pali lớn trong đó tàng chứa toàn bộ Giáo Pháp của Đức Phật Gotama đã tuyên thuyết trong suốt bốn mươi lăm năm từ lúc ngài Giác Ngộ đến khi nhập Niết Bàn.
(Xem: 19569)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18654)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 12188)
Kinh này dịch từ kinh Pháp Ấn của tạng Hán (kinh 104 của tạng kinh Đại Chính) do thầy Thi Hộ dịch vào đầu thế kỷ thứ mười.
(Xem: 12318)
Đại Chánh Tân Tu số 0158 - 8 Quyển: Hán dịch: Mất tên người dịch - Phụ vào dịch phẩm đời Tần; Việt dịch: Linh-Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
(Xem: 13863)
Là Bộ Luật trong hệ thống Luật-Tạng do Bộ Phái Nhất Thiết Hữu thuộc hệ Thượng Tọa Bộ Ấn Độ kiết tập...Đại Tạng No. 1451
(Xem: 15030)
“Triệu Luận” là một bộ luận Phật Giáo do Tăng Triệu, vị học giả Bát nhã học, bậc cao tăng nổi tiếng đời Hậu Tần Trung Quốc, chủ yếu xiển thuật giáo nghĩa Bát nhã Phật Giáo.
(Xem: 15037)
Bộ chú giải này là một trong năm bộ luận giải thích về luật trong Luật bộ thuộc Hán dịch Bắc truyền Đại tạng kinh lưu hành tại Trung quốc và được đưa vào Đại chính tân tu Đại tạng kinh N.1462, tập 24 do Nhật bản biên tập.
(Xem: 13995)
Dịch theo bản in lần thứ nhất của Hoa Tạng Phật Giáo Đồ Thư Quán, Đài Bắc, tháng 2, năm Dân Quốc 81 - 1992
(Xem: 15524)
Hữu Bộ là một trường phái Phật Giáo quan trọng. Nếu không kể Thượng Toạ Bộ (Theravada, Sthaviravada) thì Hữu Bộbộ phái Phật Giáo duy nhất có được một hệ thống giáo lý gần như nguyên thuỷ...
(Xem: 11405)
Tôi nghe như vầy vào khoảng thời gian đức Phật ngự tại tinh xá Kỳ Hoàn thuộc nước Xá Vệ có ngàn vị tỳ theo tăng và mười ngàn đại Bồ tát theo nghe pháp.
(Xem: 17196)
Biện chứng Phá mê Trừ khổ - Prajnaparamita Hrdaya Sutra (Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm kinh); Thi Vũ dịch và chú giải
(Xem: 14981)
Là 2 bản Kinh: Kinh Phật Thuyết A Di Đà No. 366 và Kinh Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ No. 367
(Xem: 20198)
Bát-nhã tâm kinh (prajñāpāramitāhṛdayasūtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát-nhã ba-la-mật (prajñā-pāramitā). Trong bản Hán dịch của Huyền Trang, kinh gồm 262 chữ.
(Xem: 14616)
Như thật tôi nghe một thuở nọ Phật cùng các Tỳ kheo vân tập tại vườn cây của Trưởng giả Cấp cô ĐộcThái tử Kỳ Đà ở nước Xá Vệ.
(Xem: 13841)
Kinh này dịch từ kinh số 301 trong bộ Tạp A Hàm của tạng Hán. Tạp A Hàm là kinh số 99 của tạng kinh Đại Chính.
(Xem: 11710)
Đây là những điều tôi đã được nghe: Hồi ấy, có những vị thượng tọa khất sĩ cùng cư trú tại vườn Lộc Uyển ở Isipatana thành Vārānasi. Đức Thế tôn vừa mới nhập diệt không lâu.
(Xem: 15063)
Kinh Mục Kiền Liên hỏi năm trăm tội khinh trọng trong Giới Luật; Mất tên người dịch sang Hán văn, Thích Nguyên Lộc dịch Việt
(Xem: 12998)
Hán dịch: Hậu Hán, Tam tạng An Thế Cao người nước An Tức; Việt dịch: Tì-kheo Thích Nguyên Chơn.
(Xem: 22882)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434;, dịch Phạn sang Hán: Nguyên Ngụy Thiên Trúc Tam Tạng Cát-ca-dạ; Dịch Hán sang Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ...
(Xem: 14557)
Người giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không. Giảng tại: Tịnh Tông Học Hội Singapore. Người dịch: Vọng Tây cư sĩ. Biên tập: Phật tử Diệu Hương, Phật tử Diệu Hiền
(Xem: 11651)
Kinh này là kinh thứ mười trong Nghĩa Túc Kinh, nhưng lại là kinh thứ mười một trong Atthaka Vagga, kinh tương đương trong tạng Pali.
(Xem: 13171)
Có thể xem đây là "tập sách đầu giường" hay "đôi tay tỳ-kheo"; rất cần thiết cho mỗi vị Tỳ-kheo mang theo bên mình để mỗi ngày mở ra học tụng cho nhuần luật nghi căn bản.
(Xem: 16885)
Không Sát Sanh là giới thứ nhất trong Ngũ Giới. Chúng ta đang sống trong một thế giới bất toàn, mạnh hiếp yếu, lớn hiếp nhỏ, giết chóc tràn lan khắp nơi.
(Xem: 18348)
Kể từ khi đạo Phật truyền vào nước ta, hàng Phật tử tại gia trong bất cứ thời đại nào và hoàn cảnh nào cũng đã có những đóng góp thiết thực trong sứ mạng hộ trìhoằng dương chánh pháp.
(Xem: 11944)
Tạng Luật (Vinayapiṭaka) thuộc về Tam Tạng (Tipiṭaka) là những lời dạy và quy định của đức Phật về các vấn đềliên quan đến cuộc sống...
(Xem: 11504)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, Trưởng lão Māhakassapa (Ma-ha Ca-diếp) triệu tập 500 vị Tỳ-khưu A-la-hán để trùng tụng Pháp và Luật.
(Xem: 15853)
Bồ Tát Long Thọ - Cưu Ma La Thập Hán dịch; Chân Hiền Tâm Việt dịch & Giải thích; Xuất Bản 2007
(Xem: 12885)
Ngài Long Thọ, tác giả Trung Quán Luận và những kinh sách khác, được chư thiền đức xưng tán là Đệ nhị Thích Ca, đã vạch ra thời kỳ chuyển pháp lần thứ hai.
(Xem: 18910)
Vị Tăng, lấy Phật làm tính, lấy Như-Lai làm nhà, lấy Pháp làm thân, lấy Tuệ làm mệnh, lấy Thiền-duyệt làm thức ăn.
(Xem: 18423)
Trong Vi Diệu Pháp cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant