Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

09. Phẩm Quang-minh giác

11 Tháng Ba 201100:00(Xem: 19919)
09. Phẩm Quang-minh giác

KINH HOA NGHIÊM 
Hán Dịch: Ðại-Sư Thật-Xoa-Nan-Ðà - Việt Dịch: HT Thích Trí Tịnh
Phật Học Viện quốc Tế Xuất Bản PL 2527 - 1983

PHẨM QUANG MINH GIÁC
THỨ CHÍN

 Lúc bấy giờ, đức Thế-Tôn, từ dưới lòng hai bàn chưn, phóng ra trăm ức tia sáng chiếu khắp Ðại-thiên thế-giới : trăm ức Diêm-Phù-Ðề, trăm ức Phất-Bà-Ðề, trăm ức Cù-Gia-Ni, trăm ức Uãt-Ðơn-Việt, trăm ức đại-hải, trăm ức Luân-Vi-Sơn, trăm ức Bồ-Tát thọ sanh, trăm ức Bồ-Tát xuất gia, trăm ức Như-Lai thành chánh giác, trăm ức Như-Lai chuyển pháp luân, trăm ức Như-Lai nhập niết-bàn, trăm ức Tu-Di-Sơn, trăm ức Tứ-Vương-Thiên, trăm ức Ðao-Lợi-Thiên, trăm ức Dạ-Ma-Thiên, trăm ức Ðâu-Suất-Thiên, trăm ức Hóa-Lạc-Thiên, trăm ức Tha-Hóa-Thiên, trăm ức Sơ-Thiền-Thiên, trăm ức Nhị-Thiền-Thiên, trăm ức Tâm-Thiền-Thiên, trăm ức Tứ-Thiền-Thiên, nhẫn đến trăm ức Sắc-Cứu-Cánh-Thiên. Tất cả vật cảnh trong Ðại-Thiên thế-giới đều được quang-minh của Thế-Tôn soi sáng hiển hiện cả.

Như nơi đây hiện thấy đức Thế-Tôn ngồi tòa Liên-Hoa-Tạng-Sư-Tử, mười phật-sát vi-trần-số Bồ-Tát vây quanh. Trong trăm ức Diêm-Phù-Ðề khác, cũng đều có Như-Lai an-tọa như thế cả.

Do thần lực của Phật, trong mười phương, mỗi phương đều có một đại Bồ-Tát cùng mười phật-sát vi-trần-số Bồ-Tát đồng câu hội đến chỗ đức Phật ngự : Ðông-phương Kim-Sắc thế-giới có Văn-Thù-Sư-Lợi Bồ-Tát, Nam-phương Diệu-Sắc thế-giới có Giác-Thủ Bồ-Tát, Tây-phương Liên-Hoa-Sắc thế-giới có Tài-Thủ Bồ-Tát, Bắc-phương Chiêm-Bặc-Hoa-Sắc thế-giới có Bửu-Thủ Bồ-Tát, Ðông-bắc-phương Ưu-Bát-La-Hoa-Sắc thế-giới có Bồ-Tát Công-Ðức-Thủ, Ðông-nam-phương Kim-Sắc thế-giới có Mục-Thủ Bồ-Tát, Tây-nam-phương Bửu-Sắc thế-giới có Tinh-Tấn-Thủ Bồ-Tát, Tây-bắc-phương Kim-Cang-Sắc thế-giới có Pháp-Thủ Bồ-Tát, Hạ-phương Pha-Lê-Sắc thế-giới có Trí-Thủ Bồ-Tát, Thượng-phương Bình-Ðẳng-Sắc thế-giới có Hiềm-Thủ Bồ-Tát.

Lúc đó, trong tất cả trăm ức đạo-tràng, nơi chư Phật ngự, trăm ức Văn-Thù-Sư-Lợi Bồ-Tát đồng thời ứng thinh nói kệ rằng :

Nếu có ai thấy Phật

Giải-thoát lìa hữu lậu

Chẳng tham trước thế-gian

Người này chẳng chứng đạo.

Nếu ai biết Như-Lai

Thể-tướng vô-sở-hữu

Tu tập được rõ ràng

Người này mau thành Phật.

Nếu thấy thế-giới này

Tâm được chẳng dao-động

Với Phật-thân cũng vậy

Sẽ thành bực Thắng-Trí.

Nếu với Phật cùng Pháp

Ðược tâm trọn bình đẳng

Chẳng móng khởi nhị niệm

Sẽ lên bực Nan-Tư.

Nếu thấy Phật và thân

Bình đẳng mà an-trụ

Vô trụ vô sở nhập

Sẽ thành bực Nam-Ngộ.

Sắc, Thọ không có số

Tưởng, Hành, Thức cũng vậy

Nếu biết được như đây

Sẽ là Ðại-Mâu-Ni.

Kiến chấp thế, xuất thế

Tất cả đều vượt khỏi

Mà hay khéo biết pháp

Sẽ thành bực Ðại-Quang.

Nếu nơi đấng Toàn-Trí

Phát sanh tâm hồi hướng

Thấy tâm không chỗ sanh

Sẽ được bực Hồng-Danh.

Chúng-sanh không có sanh

Cũng lại không có hoại

Nếu được trí như vậy

Sẽ thành vô-thượng-đạo.

Trong một : hiểu vô-lượng

Trong vô-lượng : hiểu một

Rõ kia sanh lẫn nhau

Sẽ thành vô-sở-úy.

Lúc bấy giờ, quang-minh của đức Phật chiếu ra ngoài thế-giới này suốt đến mười phương, mỗi phương đều chiếu mười quốc-độ. Trong những cõi đó, tất cả vật cảnh từ Diêm-Phù-Ðề đến Sắc-Cứu-Cánh-Thiên đều được chói sáng, và đều có đức Phật ngự trên tòa sư-tử như ở cõi này.

Do thần-lực của đức Phật, mười phương đều có một đại Bồ-Tát cùng mười phật-sát vi-trần-số Bồ-Tát đồng câu hội đến chỗ Phật, cũng chính là Văn-Thù-Sư-Lợi Bồ-Tát v.v...

Bấy giờ, ở trước mỗi Như-Lai, Văn-Thù-Sư-Lợi Bồ-Tát đồng thời ứng thinh nói kệ rằng:

Chúng-sanh không trí-huệ

Tham-ái đâm thương độc

Vì cứu họ nên Phật

Cầu Bồ-Ðề vô-thượng.

Thấy các nơi các pháp

Ðều xa rời hai bên

Ðạo thành trọn chẳng thối

Chuyển pháp luân vô đẳng.

Bất-khả-tư-nghì kiếp

Tinh-tấn tu các hạnh

Vì độ các chúng-sanh

nguyện lực của Phật.

Ðạo-sư hàng quân ma

Dũng-kiện không ai hơn

Quang-minh diễn diệu-nghĩa

Từ-bi nên như vậy.

Dùng tâm-trí-huệ kia

Phá các chướng phiền não

Một niệm thấy tất cả

thần lực của Phật.

Ðánh trống lớn chánh pháp

Giác ngộ mười phương cõi

Ðều khiến đến bồ-đề

Sức tự-tại như vậy.

Chẳng hoại vô-biên cảnh

Mà đi ức cõi nước

Với cõi không trệ trước

Kia tự-tại như Phật.

Chư Phật như hư-không

Rốt ráo thường thanh-tịnh

Nghĩ nhớ lòng hoan hỉ

Kia các nguyện đầy đủ.

Trong mỗi mỗi địa ngục

Trải qua vô-lượng kiếp

cứu độ chúng-sanh

Mà nhẫn được khổ này.

Chẳng tiếc nơi thân mạng

Thường hộ các phật-pháp

Vô ngã tâm điều nhu

Hay được đạo Như-Lai.

Lúc đó quang-minh của đức Phật chiếu quá mười phương thế-giới, rồi chiếu suốt trăm thế-giới ở mỗi phương trong mười phương. Nơi các thế-giới ấy đều có Như-Lai ngự tòa sư-tử như ở tại đây, và do thần-lực của đức Phật, mỗi phương đều có một đại Bồ-Tát, tức là Văn-Thù-Sư-Lợi Bồ-Tát v.v... cùng mười Phật-sát-vi-trần-số Bồ-Tát đồng đến chỗ Phật.

Bấy giờ, trước mỗi đức Phật, Văn-Thù-Sư-Lợi Bồ-Tát đồng ứng thinh nói kệ rằng :

Phật rõ pháp như huyễn

Thông đạt không chướng ngại

Tâm tịnh lìa tham chấp

Ðiều phục các chúng-sanh.

Hoặc có thấy sơ sanh

Sắc đẹp như núi vàng

Trụ thân tối hậu này

Làm mặt nguyệt nhơn loại

Hoặc thấy Phật kinh hành

Ðủ vô-lượng công-đức

Niệm huệ đều thiện xảo

Bước đi Ðại-Sư-Tử.

Hoặc thấy mắt xanh biếc

Quan-sát khắp mười phương

Có lúc hiện vui cười

thuận lòng quần chúng.

Hoặc thấy sư tử hống

Thân thù thắng vô tỉ

Thị hiện tối hậu sanh

Nói lời đều chơn thật.

Hoặc có thấy xuất gia

Giải thoát những hệ phược

Tu tập hạnh chư Phật

Thường thích quán tịch diệt.

Hoặc thấy ngồi đạo-tràng

Rõ biết tất cả pháp

Ðến bờ công-đức kia

Phiền não si đã hết.

Hoặc thấy thắng thượng phu

Ðầy đủ tâm đại-bi

Chuyển pháp luân vi diệu

Ðộ vô-lượng chúng-sanh.

Hoặc thấy sư tử hống

Oai quang rất thù-đặc

Siêu tất cả thế-gian

Thần thông lực vô đẳng

Hoặc thấy tâm tịch tịnh

Như ngọn đèn tắt hẳn

Hiện các loại thần thông

Ðấng thập lực như vậy.

Lúc bấy giờ, quang-minh của đức Phật chiếu khỏi trăm thế-giới, suốt đến khắp ngàn thế-giới ở mỗi phương trong mười phương. Nơi mười phương thế-giới này cũng đều có đức Phật ngự đạo-tràng giữa chúng hội mười-phật-sát vi-trần-số Bồ-Tát.

Do thần lực của đức Phật, mỗi phương trong mười phương đều có một đại Bồ-Tát, chính là Văn-Thù-Sư-Lợi Bồ-Tát v.v... cùng mười phật-sát vi-trần-số Bồ-Tát đồng câu hội đến chỗ Phật ngự.

Bấy giờ, trước mỗi đức Phật, Văn-Thù-Sư-Lợi Bồ-Tát đồng ứng thinh nói kệ rằng :

Phật nơi pháp thậm thâm

Thông đạt không ai sánh

Chúng-sanh không thấy được

Phật tuần tự khai thị

Ngã tánh chưa từng có

Ngã sở cũng không tịch

Cớ sao chư Như-Lai

Lại được có thân thể

Ðấng giải-thoát Minh-Hạnh

Vô-số vô-đẳng luân

Các nhơn lượng thế-gian

Tìm lỗi không thể được.

Phật chẳng phải những loại

Uẩn, xứ, giới, sanh tử

Số pháp vẫn không thành

Nên hiệu Nhơn-Sư-Tử.

Tánh Phật vốn không tịch

Trong ngoài đều giải-thoát

Rời tất cả vọng niệm

Pháp vô-đẳng như vậy.

Thế tánh thường bất động

Không ngã không đến đi

Mà hay giác ngộ đời

Vô-biên đều điều phục.

Thường thích quán tịch diệt

Một tướng không có hai

Tâm Phật không tăng giảm

Hiện vô-lượng thần lực.

Chẳng làm hạnh nghiệp báo

Nhơn duyên của chúng-sanh

Mà rõ thấu vô ngại

Ðấng Thiện-Thệ như vậy.

Tất cả loài chúng-sanh

Lưu chuyển trong mười phương

Như-Lai không phân biệt

Ðộ thoát vô-biên loại.

Chư Phật thân Kim-Sắc

Chẳng cõi khắp các cõi

Tùy chúng-sanh sở thích

Diễn thuyết pháp tịch diệt.

Lúc bấy giờ, quang-minh của đức Phật chiếu quá ngàn thế-giới, suốt khắp mười ngàn thế-giới, ở mỗi phương, trong mười phương. Nơi những thế-giới này cũng đều có đức Phật ngự nơi đạo-tràng giữa chúng hội mười phật-sát vi-trần-số Bồ-Tát.

Do thần-lực của Phật, mỗi phương trong mười phương đều có một đại Bồ-Tát, chính là Văn-Thù-Sư-Lợi Bồ-Tát, cùng mười phật-sát vi-trần-số Bồ-Tát, đồng câu hội đến chỗ đức Phật ngự.

Bấy giờ, trước mỗi đức Phật, Văn-Thù-Sư-Lợi Bồ-Tát đồng ứng thinh nói kệ rằng :

Phát khởi tâm đại-bi

Cứu hộ các chúng-sanh

Thoát hẳn chúng nhơn thiên

Nên làm việc như vậy.

Lòng thường tin ưa Phật

Tâm đó không thối chuyển

Gần gũi chư Như-Lai

Nên làm việc như vậy.

Chí thích công-đức Phật

Tâm đó trọn không thối

Trụ nơi huệ thanh-lương

Nên làm việc như vậy.

Trong tất cả oai-nghi

Thường nhớ công-đức Phật

Ngày đêm không tạm dứt

Việc như vậy nên làm.

Quán tam thế vô-biên

Học công-đức của Phật

Thường không lòng nhàm mỏi

Việc như vậy nên làm.

Quán thân như thiệt-tướng

Tất cả đều tịch diệt

Lìa ngã, không chấp ngã

Việc như vậy nên làm.

Bình-đẳng quán chúng-sanh

Chẳng móng niệm phân biệt

Vào nơi cảnh chân thật

Việc như vậy nên làm.

Bưng cả vô-biên cõi

Uống hết tất cả biển

Thần-thông đại trí lực

Việc như vậy nên làm.

Tư duy các quốc-độ

Tướng sắc và phi sắc

Ðều biết được tất cả

Việc như vậy nên làm.

Vi-trần mười phương cõi

Một trần là một Phật

Ðều biết được số đó

Việc như vậy nên làm.

Lúc bấy giờ, quang-minh của đức Phật chiếu quá mười ngàn thế-giới, suốt khắp đến trăm ngàn thế-giới, ở mỗi phương, trong mười phương. Nỏi đó đều có đức Phật ngự giữa đạo-tràng chúng hội mười phật-sát vi-trần-số Bồ-Tát.

Do thần lực của đức Phật, mỗi phương đều có một đại Bồ-Tát, Văn-Thù-Sư-Lợi Bồ-Tát v.v... cùng mười phật-sát vi-trần-số Bồ-Tát đồng câu hội đến chỗ Phật.

Bấy giờ, trước mỗi đức Phật, Văn-Thù-Sư-Lợi Bồ-Tát đồng ứng thinh nói kệ rằng :

Nếu dùng oai đức, sắc, chủng tộc

Ðể thấy đấng Ðiều-Ngự trong đời

Ðây là mắt bịnh thấy điên đảo

Người này chẳng biết pháp tối thắng.

Như-Lai sắc, hình những tướng tốt

Tất cả thế-gian chẳng lường được

Ức na-do kiếp đồng nghĩ lường

Sắc tướng, oai-đức chuyển vô biên.

Như-Lai chẳng lấy tướng làm thể

Chính là pháp tịch diệt vô tướng

Thân tướng oai nghi đều đầy đủ

Thế-gian tùy thích đều được thấy.

Phật pháp vi diệu khó lường được

Tất cả ngôn thuyết chẳng đến được

Chẳng phải hòa hiệp, bất hòa hiệp

Thể tánh tịch diệt không các tướng.

Phật thân vô sanh ngoài hí luận

Chẳng phải uẩn tụ, pháp sai biệt

Ðược sức tự-tại thấy quyết định

Sở hành vô úy lìa ngôn thuyết.

Thân tâm đều bình đẳng

Trong ngoài đều giải thoát

Nhiều kiếp trụ chánh niệm

Vô trước, không hệ-phược.

Bực tâm sạch sáng suốt

Sở hành không nhiễm trước

Trí nhãn đều cùng khắp

Rộng lớn lợi chúng-sanh.

Một thân là vô-lượng

Vô-lượng lại là một

Rõ biết các thế-gian

Hiện hình khắp tất cả.

Thân này không từ đâu

Cũng không nơi tích tụ

Vì chúng-sanh phân biệt

Thấy Phật có nhiều thân.

Tâm phân biệt thế-gian

Tâm này vô sở hữu

Như-Lai biết pháp này

Thấy thân Phật như vậy.

Lúc bấy giờ, quang-minh của đức Thế-Tôn chiếu quá trăm ngàn thế-giới, suốt đến trăm vạn thế-giới, ở mỗi phương, trong mười phương. Nơi đó đều có đức Phật ngự đạo-tràng chúng hội mười phật-sát vi-trần-số Bồ-Tát.

Do thần lực của đức Phật, mỗi phương đều có một đại Bồ-Tát, Văn-Thù-Sư-Lợi Bồ-Tát v.v... cùng mười phật-sát vi-trần-số Bồ-Tát đồng câu hội đến chỗ Phật ngự.

Bấy giờ, trước mỗi đức Phật, Văn-Thù Sư-Lợi Bồ-Tát đồng ứng thinh nói kệ rằng :

Như-Lai rất tự-tại

Siêu thế vô-sở-y

Ðủ tất cả công-đức

Ðộ thoát nơi các cõi.

Không nhiễm cũng không trước

Vô-tưởng vô-y-chỉ

Thể tánh không thể lường

Ai thấy cũng ca ngợi.

Quang-minh khắp thanh-tịnh

Trần lụy đều rửa bỏ

Bất-động lìa hai bên

Ðây là trí Như-Lai.

Thân tâm lìa phân biệt

Thời với tất cả pháp

Thoát hẳn những nghi trệ.

Trong tất cả thế-gian

Nơi nơi chuyển pháp-luân

Vô-tánh vô sở chuyển

Ðạo Sư phương tiện nói.

Nơi pháp không nghi lầm

Tuyệt hẳn những hí luận

Chẳng sanh tâm phân biệt

niệm Phật Bồ-đề.

Rõ biết pháp sai biệt

Chẳng chấp trước ngôn thuyết

Chẳng có một cùng nhiều

Ðây là thuận lời Phật.

Trong nhiều không một tánh

Một cũng không có nhiều

Bỏ cả hai như vậy

Khắp vào Phật công-đức.

Chúng-sanh và quốc-độ

Tất cả đều tịch-diệt

Vô-y vô phân biệt

Vào được Phật bồ-đề.

Chúng-sanh và quốc-độ

Ðồng dị đều chẳng được

Khéo quan-sát như vậy

Là biết nghĩa phật-pháp.

Lúc bấy giờ, quang-minh của đức Phật chiếu quá trăm vạn thế-giới suốt đến một ức thế-giới ở mỗi phương trong mười phương. Nơi đó đều có đức Phật ngự giữa chúng hội mười phật-sát vi-trần-số Bồ-Tát.

Do thần lực của đức Phật, mỗi phương đều có một đại Bồ-Tát, Văn-Thù Sư-Lợi Bồ-Tát v.v... cùng mười phật-sát vi-trần-số Bồ-Tát đồng câu hội đến chỗ Phật ngự.

Bấy giờ, Văn-Thù Sư-Lợi Bồ-Tát, ở trước mỗi đức Phật, đồng thời ứng thinh nói kệ rằng :

Trí huệ vô đẳng pháp vô-biên

Vượt biển hữu lậu đến bờ kia

Thọ lượng quang-minh đều vô tỉ

Phương-tiện-lực của đấng công-đức.

Bao nhiêu phật-pháp đều rõ ràng

Thường quán tam-thế không nhàm mỏi

Dầu duyên cảnh-giới không phân biệt

Ðây phương-tiện của bậc nan-tư.

Thích quán chúng-sanh vốn vô-sanh

Khắp thấy các loài vốn không loài

Hằng trụ thiền-tịch chẳng hệ lụy

Ðây phương tiện của Vô-Ngại-Huệ.

Khéo léo thông đạt tất cả pháp

Chánh-niệm siêng tu đạo niết-bàn

Thích nơi giải-thoát lìa bất bình

Ðây phương tiện của bực tịch-diệt.

Hay khuyên người hướng Phật bồ-đề

Ðến nhứt-thiết-trí như pháp-giới

Khéo dạy chúng-sanh vào đế-lý

Ðây phương tiện ngươwi trụ tâm Phật.

Phật chỗ thuyết pháp đều thuận vào

Trí huệ quảng đại không chướng ngại

Tất cả xứ hành đều bước lên

Phương tiện tu tập của Tự-Tại.

Hằng trụ niết-bàn như hư-không

Tùy tâm hóa hiện đều cùng khắp

Ðây tựa vô tướng mà làm tướng

Phương tiện của bực Ðáo-Nan-Ðáo.

Sáng tối ngày tháng và năm kiếp

Thế-giới thỉ chung là thành hoại

Như vậy nhớ nghĩ đều rõ biết

Ðây phương tiện của Thời-Số-Trí.

Tất cả chúng-sanh có sanh diệt

Sắc phi-sắc cùng tưởng phi-tưởng

Bao nhiêu danh tự đều rõ biết

Ðây phương tiện của bực Nan-Tư.

Thời quá khứ, hiện-tại, vị-lai

Bao nhiêu ngôn thuyết đều rõ được

Mà biết ba thời đều bình đẳng

Ðây phương tiện của Vô-Tỷ-Giải.

Lúc bấy giờ, quang-minh của đức Phật chiếu quá một ức thế-giới, suốt khắp mười ức thế-giới, ở mỗi phương, trong mười phương. Nơi đó đều có đức Phật ngự giữa đạo-tràng mười phật-sát vi-trần-số Bồ-Tát.

Do thần lực của đức Phật, mỗi phương đều có một vị đại Bồ-Tát, Văn-Thù-Sư-Lợi Bồ-Tát v.v... đều cùng mười phật-sát vi-trần-số Bồ-Tát đồng câu hội nơi Phật ngự.

Bấy giờ, Văn-Thù-Sư-Lợi Bồ-Tát, ở trước mỗi đức Phật, đồng ứng thinh nói kệ rằng :

Khổ hạnh lớn khó đều tu tập

Ngày đêm tinh cần không nhàm trễ

Ðã độ khó độ sư tử hống

Ðộ khắp chúng-sanh là hạnh Phật.

Chúng-sanh lưu chuyển biển ái-dục

Vô-minh che đậy rất khổ ngặt

Chí-Nhơn dũng mãnh đều dứt trừ

Thệ nguyện như vậy là hạnh Phật.

Thế-gian phóng dật say ngũ dục

Phân biệt sai lầm chịu những khổ

Phụng hành Phật-giáo đều nhiếp tâm

Nguyện độ chúng-sanh là hạnh Phật.

Chúng-sanh chấp ngã vào sanh tử

Cầu tột mé kia không thể được

Khắp thờ chư Phật được diệu pháp

Vì họ giảng pháp là hạnh Phật.

Chúng-sanh bơ vơ bịnh khổ vây

Thường trôi nẻo ác khởi ba độc

Ngọn lửa hừng lớn luôn đốt cháy

Tịnh tâm động chúng là hạnh Phật.

Chúng-sanh mê lầm mất chánh đạo

Thường đi đường tà vào nhà tối

Vì họ thắp sáng đèn chánh pháp

Luôn luôn soi sáng là hạnh Phật.

Chúng-sanh trôi chìm biển hữu lậu

Khổ lo không bờ chẳng ở được

Vì họ sửa sang đại pháp thuyền

Ðều khiến thoát khổ là hạnh Phật.

Chúng-sanh vô tri chẳng thấy cội

Mê lầm cuồng si trong hiểm nạn

Phật thương xót họ xây pháp-kiều

Khiến trụ chánh niệm là hạnh Phật.

Thấy các chúng-sanh ở đường hiểm

Khổ già bịnh chết luôn bức ngặt

Tu các phương tiện không hạn lượng

Thệ độ tất cả là hạnh Phật.

Nghe pháp tin hiểu không nghi lầm

tánh không tịch chẳng kinh sợ

Tùy hình lục đạo khắp mười phương

Cứu khắp quần mê là hạnh Phật.

Lúc bấy giờ, quang-minh của đức Phật chiếu quá mười ức thế-giới, suốt khắp đến trăm ức thế-giới, ngàn ức, vạn ức, trăm ngàn ức, na-do-tha ức, trăm na-do-tha ức, ngàn na-do-tha ức, trăm ngàn na-do-tha ức, nhẫn đến vô số, vô-lượng, vô-biên, vô-đẳng, bất khả số, bất khả xưng, bất khả tư, bất khả lượng, bất khả thuyết, tận pháp-giới, hư-không giới, tất cả thế-giới ở mười phương. Nơi mỗi thế-giới từ Diêm-Phù-Ðề đến Sắc-Cứu-Cánh Thiên mọi vật cảnh đều được hiển hiện. Nơi mỗi Diêm-Phù-Ðề đều có đức Phật ngự giữa đạo-tràng mười phật-sát vi-trần-số Bồ-Tát.

Do thần-lực của đức Phật, mỗi phương đều có một đại Bồ-Tát, Văn-Thù-Sư-Lợi Bồ-Tát v.v... đều cùng mười phật-sát vi-trần-số Bồ-Tát đồng câu-hội đến chỗ Phật ngự.

Bấy giờ, Văn-Thù-Sư-Lợi Bồ-Tát ở trước mỗi đức Phật, đều ứng thinh nói kệ rằng :

Một niệm quán khắp vô-lượng kiếp

Vô khứ vô lai cũng vô trụ

Như vậy rõ biết việc ba thời

Siêu xuất phương tiện thành thập lực.

Mười phương vô tỉ hồng danh tốt

Lìa hẳn các hạnh thường hoan hỉ

Khắp đến trong tất cả quốc-độ

Vì người tuyên dương pháp như vậy.

Vì lợi chúng-sanh cúng-dường Phật

Ðúng ý nguyện được quả tương tợ

Với tất cả pháp đều thuận biết

Khắp trong mười phương hiện thần-lực.

Tối sơ cúng Phật ý nhu nhuẫn

Nhập đại thiền định quán pháp tánh

Khuyên khắp chúng-sanh phát đạo tâm

Do đây mau thành quả vô thượng.

Mười phương cầu pháp lòng không đổi

Vì tu công-đức cho đầy đủ

Hai tướng có không đều dứt trừ

Người này thấy Phật đúng chơn thật.

Qua khắp các cõi nước mười phương

Nói rộng diệu pháp hưng lợi ích

Trụ nơi thật tế chẳng động dao

Công-đức người này đồng với Phật.

Pháp luân vi-diệu của Phật dạy

Tất cả đều là bồ-đề phần

Nếu được nghe rồi ngộ pháp tánh

Người như đây là thường thấy Phật.

Chẳng thấy thập lực không như huyễn

Dầu thấy nhưng chẳng thấy như lòa

Phân biệt chấp tướng chẳng thấy Phật

Rốt ráo lìa chấp mới thấy Phật.

Chúng-sanh tùy nghiệp đều sai khác

Mười phương trong ngoài khó thấy hết

Thân Phật vô ngại khắp mười phương

Chẳng thể thấy hết cũng như vậy.

Như trong không-giới vô-lượng cõi

Không lai không khứ khắp mười phương

Sanh thành diệt hoại vô-sở-y

Phật khắp hư-không cũng như vậy.

**********************

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11532)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11862)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11034)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11249)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 11975)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12454)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10667)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 17861)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11623)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9852)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10103)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12267)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15248)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11129)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14210)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 11998)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15187)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 11880)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12331)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11097)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12003)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10505)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12466)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13044)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14693)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12559)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16414)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19474)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13019)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12564)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12175)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11723)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10806)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13405)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11867)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11746)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11518)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12661)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14393)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12520)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15549)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13501)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12777)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9762)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 17881)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11051)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 8990)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12090)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 12938)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10214)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12089)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15186)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16509)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12120)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11380)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14148)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19529)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14062)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24414)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10587)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant