Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

10. Phẩm Bồ-Tát Vấn Minh

11 Tháng Ba 201100:00(Xem: 16585)
10. Phẩm Bồ-Tát Vấn Minh

KINH HOA NGHIÊM 
Hán Dịch: Ðại-Sư Thật-Xoa-Nan-Ðà - Việt Dịch: HT Thích Trí Tịnh
Phật Học Viện quốc Tế Xuất Bản PL 2527 - 1983

PHẨM BỒ TÁT VẤN MINH
THỨ MƯỜI


 Lúc bấy giờ, Văn-Thù-Sư-Lợi Bồ-Tát hỏi Giác-Thủ Bồ-Tát : 'Phật-tử ! Tâm-tánh vốn là một, sao lại thấy có các thứ sai khác ? Những là :

Ðến đường lành nẻo dữ, căn thân có đủ có thiếu, thọ sanh đồng và khác, đẹp-đẽ cùng xấu-xí, nào vui nào khổ, nghiệp không biết tâm, mà tâm cũng chẳng biết nghiệp, thọ không rõ báo mà báo cũng chẳng rõ thọ, tâm chẳng biết thọ mà thọ cũng không biết tâm, nhơn không biết duyên mà duyên cũng chẳng biết nhơn, trí chẳng biết cảnh mà cảnh cũng chẳng biết trí.

Giác-Thủ Bồ-Tát nói kệ để đáp :

Nay ngài hỏi nghĩa này

Vì Liễu-ngộ quần-mông

Cứ tánh kia, tôi đáp

Xin ngài lóng nghe cho.

Các pháp không tác dụng

Cũng không có thể tánh

Vì thế nên các pháp

Ðều chẳng biết được nhau.

Ví như nước trong sông

Các dòng đua nhau chảy

Chúng đều chẳng biết nhau

Các pháp cũng như vậy.

Lại cũng như đống lửa

Ðồng thời phát ngọn to

Chúng đều chẳng biết nhau

Các pháp cũng như vậy.

Lại như gió lớn thổi

Xao động các cảnh vật

Chúng đều chẳng biết nhau

Các pháp cũng như vậy.

Lại như các địa-giới

Xây vần nương tựa nhau

Các pháp cũng như vậy.

Nhãn, nhĩ, tỉ, thiệt, thân

Tâm-ý sáu tình-căn

Do dây thường lưu-chuyển

Nhưng vẫn không năng-chuyển.

Pháp-tánh vốn vô-sanh

Trong đây không năng hiện

Cũng không vật sở-hiện.

Nhãn, nhĩ, tỉ, thiệt, thân

Tâm-ý sáu tình-căn

Tất cả rỗng vô-tánh

Vọng phân-biệt mà có.

Cứ đúng lý quan-sát

Tất cả đều vô-tánh

Pháp-nhãn bất-tư-nghì

Ðây là thấy chơn thật.

Hoặc vọng hay chẳng vọng

Hoặc thiệt hoặc chẳng thiệt

Thế-gian cùng xuất-thế

Chỉ là giả ngôn-thuyết.

Lúc đó, Văn-Thù-Sư-Lợi Bồ-Tát hỏi Tài-Thủ Bồ-Tát : 'Phật-tử ! Ðức Như-Lai tùy thờI-gian như thế-nào, cũng như tùy mạng-sống, tùy thân-thể, tùy hành-vi, tùy hiểu-biết, tùy ngôn-luận, tùy sở-thích, tùy phương-tiện, tùy tư-duy, tùy quan-sát của chúng-sanh như thế nào, mà hiện thân Phật để giáo-hóa điều-phục các chúng-sanh ấy ?

Tài-Thủ Bồ-Tát nói kệ đáp rằng :

Ðây là cảnh của bực

Ða-Văn thích tịch-diệt,

Nay tôi vì ngài đáp

Xin ngài chú ý nghe.

Phân biệt quán nội-thân

Trong đây gì là ta ?

Nếu hiểu được như vậy

Thời biết ta không.

Thân này là giả tạo

Chỗ trụ không nơi chỗ

Người thiệt-biết thân này

Trong đây không chấp trước.

Nơi thân khéo quan-sát

Tất cả đều thấy rõ

Biết pháp đều hư-vọng

Chẳng khởi tâm phân-biệt.

Mạng sống nhơn gì có

Rồi nhơn gì tan mất

Khác nào vòng lửa xây

Ðầu đuôi chẳng biết được.

người trí hay quan-sát

Có tướng đều vô-thường

Các pháp, không, vô-ngã

Lìa hẳn tất cả tướng.

Các báo, tùy nghiệp sanh

Giả dối như giấc mơ

Luôn luôn thường diệt hoại

Như trước, sau cũng vậy.

Những pháp thấy ở đời

Chỉ do tâm làm chủ,

Tùy hiểu chấp lấy tướng

Ðiên-đảo chẳng đúng thật.

Những ngôn-luận trong đời

Ðều do phân biệt cả

Chưa từng có một pháp

Ðược vào nơi pháp-tánh.

Sức năng-duyên, sở-duyên

Sanh ra những pháp-tướng

Chóng diệt, chẳng tạm dừng

Niệm niệm đều như vậy.

Lúc đó, Văn-Thù-Sư-Lợi Bồ-Tát hỏi Bửu-Thủ Bồ-Tát : 'Phật-tử ! Tất cả chúng-sanh đồng có tứ-đại, không ngã, không ngã-sở, tại sao lại có những sự khác biệt, như khổ vui, tốt xấu, ưa trong chuộng ngoài, thọ ít hưởng nhiều, hoặc hiện báo, hoặc hậu báo. Nhưng trong pháp-giới vẫn không tốt xấu ?

Bửu-Thủ Bồ-Tát nói kệ đáp rằng :

Cứ theo nghiệp đã tạo

Sanh quả báu như vậy

Ðều không có tác-giả

Ðây là lời chư Phật.

Như mặt gương sáng sạch

Tùy theo cảnh đối tượng

Hiện bóng sai khác nhau

Nghiệp tánh cũng như vậy.

Cũng như ruộng gieo giống

Chúng đều chẳng biết nhau

Tự nhiên mọc lên cây

Nghiệp tánh cũng như vậy.

Như nhà ảo thuật giỏi

Ở tại ngã tư đường

Hiện ra những sắc-tướng

Nghiệp-tánh cũng như vậy.

Như người gỗ máy móc

Hay vang ra các tiếng

Nó không ngã ngã-sở

Nghiệp-tánh cũng như vậy.

Cũng như giống chim bay

Từ trứng nở sanh ra

Tiếng kêu không đồng nhau

Nghiệp-tánh cũng như vậy.

Ví như trong thai-tạng

Căn thân đều thành-tựu

Thể-tướng không từ đâu

Nghiệp-tánh cũng như vậy.

Lại như ở địa-ngục

Bao nhiêu là sự khổ

Kia đều không từ đâu

Nghiệp-tánh cũng như vậy.

Như vua Chuyển-luân-vương

Có đủ bảy thứ bảo

Chỗ đến không từ đâu

Nghiệp-tánh cũng như vậy.

Lại như các thế-giới

Lúc đại-hỏa cháy tan

Lửa này không từ đâu

Nghiệp-tánh cũng như vậy

Lúc đó Văn-Thù-Sư-Lợi Bồ-Tát hỏi Ðức-Thủ Bồ-Tát : 'Phật-tử ! Chỗ giác-ngộ của Ðức Như-Lai chỉ là một pháp duy-nhứt, sao lại bảo là vô-lượng-pháp, hiện vô-lượng cõi, hóa vô-lượng-chúng, diễn vô-lượng âm, thị vô-lượng thân, biết vô-lượng tâm, hiện vô-lượng thần-thông, có thể chấn động khắp vô-lượng thế-giới, thị-hiện vô-lượng sự thù-thắng trang-nghiêm, hiển-thị vô-biên nhiều loại cảnh-giới. Nhưng trong pháp-tánh các tướng sai-biệt này đều bất-khả-đắc.

Ðức-Thủ Bồ-Tát nói kệ đáp rằng :

Nghĩa của Phật-tử hỏi

Rất sâu khó rõ được

Người trí biết nghĩa này

Thường chứa công-đức Phật.

Như đất chỉ một tánh

Mọi loài ở riêng chỗ

Ðất không nghĩ đồng khác

Pháp chư Phật như vậy.

Cũng như một đại-hải

Ngàn vạn lượng sóng trào

Nước biển vẫn duy nhứt

Pháp chư Phật như vậy.

Cũng như gió một tánh

Thổi động tất cả vật

Gió không nghĩ đồng khác

Pháp chư Phật như vậy.

Cũng như mây sấm lớn

Mưa khắp cả mọi nơi

Nước mưa vẫn không khác

Pháp chư Phật như vậy.

Cũng như mặt đất kia

Mọc lên nhiều mầm mộng

Mặt đất chỉ là một

Pháp chư Phật như vậy.

Mặt nhựt không mây mờ

Chiếu sáng khắp mười phương

Quang-minh không sai khác

Pháp chư Phật như vậy.

Như mặt nguyệt trên cao

Mọi nơi đều nhìn thấy

Mặt nguyệt vẫn một chỗ

Pháp chư Phật như vậy.

Ví như Ðại-Phạm-Vương

Ứng hiện khắp đại-thiên

Thân ngài vẫn không khác

Pháp chư Phật như vậy.

Lúc đó Văn-Thù-Sư-Lợi Bồ-Tát hỏi Mục-Thủ Bồ-Tát : 'Phật-tử ! Như-Lai phước-điền đồng một không sai khác, sao lại thấy chúng-sanh bố-thí được của quả-báo chẳng đồng? Những là :

Nhiều loại sắc, nhiều loại thân, nhiều loại căn, nhiều loại nhà, nhiều loại chủ, nhiều loại quyến thuộc, nhiều loại quan-chức, nhiều loại công-đức, nhiều loại trí-huệ.

Nhưng đức Phật đối với họ, tâm Phật thường bình-đẳng, không có quan-niệm riêng khác ?

Mục-Thủ Bồ-Tát nói kệ đáp rằng :

Như tất cả vẫn là một

Theo giống mọc mầm khác

Ðất không ý thân sơ

Phật phước-điền cũng vậy.

Lại như nước một vị

Nhơn đồ đựng có khác

Phật phước-điền vẫn một

Do tâm người thành khác.

Như nhà ảo thuật khéo

Làm mọi người hoan-hỉ

Phật phước-điền cũng vậy

Khiến chúng-sanh kính vui.

Như vua có tài trí

Hay khiến nhơn-dân mừng

Phật phước-điền cũng vậy

Khiến chúng đều an-vui.

Như mặt gương sáng sạch

Theo hình mà hiện bóng

Phật phước-điền cũng vậy

Tùy tâm được báo khác.

Như thuốc A-gìa-đà

Trị được tất cả độc

Phật phước-điền cũng vậy

Dứt các hoạ phiền não.

Như lúc mặt trời mọc

Chiếu sáng khắp thế-gian

Phật phước-điền cũng vậy

Phá trừ những tối tăm.

Như mặt nguyệt tròn sáng

Chiếu khắp cõi đại-địa

Phật phước-điền cũng vậy

Bình-đẳng với tất cả.

Ví như gió tỳ-lam

Chấn-động khắp đại địa

Phật phước-điền cũng vậy

Ðộng chúng-sanh ba cõi.

Như đại hỏa nổi lên

Ðốt cháy tất cả vật

Phật phước-điền cũng vậy

Ðốt tất cả hữu-vi.

Lúc đó Văn-Thù-Sư-Lợi Bồ-Tát hỏi Cần-Thủ Bồ-Tát : 'Phật-tử ! Phật-giáo là một, chúng-sanh được thấy biết, cớ sao không liền đều dứt trừ tất cả phiền-não hệ-phược mà được xuất-ly ? Nhưng nơi chúng-sanh, sắc, thọ, tưởng, hành và thức, năm uẩn, dục, sắc, vô-sắc, ba cõi, vô-minh, tham-ái đều không sai khác. Như thế thời Phật-giáo, đối với chúng-sanh, hoặc có lợi ích, hoặc không có lợi ích ?

Cần-Thủ Bồ-Tát nói kệ đáp rằng :

Phật-tử khéo lóng nghe

Nay tôi cứ thiệt đáp

Hoặc có mau giải-thoát

Hoặc có khó xuất-ly.

Nếu muốn cầu dứt trừ

Vô-lượng những lỗi ác

Nên ở trong Phật-pháp

Dũng-mãnh thường tinh-tấn.

Ví như chút ít lửa

Ðốt ướt thời chóng tắt

Ở nơi trong Phật-pháp

Người giải-đãi cũng vậy.

Như cọ cây lấy lửa

Chưa cháy mà nghỉ luôn

Thế lửa liền tắt nguội

Người giải-đãi cũng vậy.

Như người cầm nhựt châu

Chẳng dùng vật tiếp bóng

Trọn không thể được lửa

Người giải-đãi cũng vậy

Như ánh nắng quá chói

Trẻ nít nhắm đôi mắt

Tự nói sao không thấy

Người giải-đãi cũng vậy

Như người không tay chân

Muốn dùng cỏ làm tên

Bắn phá cả đại-địa

Người giải-đãi cũng vậy

Như lấy một đầu lông

Muốn chấm khô đại hải

Người giải-đãi cũng vậy

Không thể dứt hoặc nghiệp.

Lại như kiếp-hỏa nổi

Muốn tắt với ít nước

Ở nơi trong Phật-pháp

Người giải-đãi cũng vậy.

Như người ngó hư-không

Ngồi yên không giao-động

Nói mình bay đi khắp

Người giải-đãi cũng vậy.

Lúc đó Văn-Thù-Sư-Lợi Bồ-Tát hỏi Pháp-Thủ Bồ-Tát : 'Phật-tử ! Như lời đức Phật dạy : Nếu có chúng-sanh thọ-trì Chánh-pháp thời đều có thể dứt trừ tất cả phiền-não ?

Nhưng cớ sao có người thọ-trì chánh-pháp lại tùy thế-lực của tham, sân, si, mạn, tùy thế-lực của phú, phẩn, hận, tật, xan, cuống, siểm ... xoay chuyển không rời nơi tâm. Người hay thọ-trì pháp, cớ sao lại ở trong tâm hành khởi các phiền-não ?

Pháp-Thủ Bồ-Tát nói kệ đáp rằng :

Phật-tử khéo lóng nghe

Thật nghĩa ngài đã hỏi

Vì chẳng phải đa-văn

Mà vào được Phật-pháp.

Như người trôi giữa dòng

Sợ chìm mà chết khát

Nơi pháp chẳng tu-hành

Ða-văn cũng như vậy.

Như trần-thiết vật thực

Chẳng ăn phải đói

Nơi pháp chẳng tu-hành

Ða-văn cũng như vậy.

Như người giỏi dược-phương

Chẳng cứu được bịnh mình

Nơi pháp chẳng tu-hành

Ða-văn cũng như vậy.

Như người đếm châu báu

Tự mình vẫn nghèo nàn

Nơi pháp chẳng tu-hành

Ða-văn cũng như vậy.

Như người ở vương-cung

Mà tự chịu đói rét

Nơi pháp chẳng tu-hành

Ða-văn cũng như vậy.

Như điếc tấu âm-nhạc

Người nghe mình chẳng nghe

Nơi pháp chẳng tu-hành

Ða-văn cũng như vậy.

Như mù họa hình tượng

Người thấy mình chẳng thấy

Nơi pháp chẳng tu-hành

Ða-văn cũng như vậy.

Ví như nhà hàng-hải

Mà tự chết trong biển

Nơi pháp chẳng tu-hành

Ða-văn cũng như vậy.

Như ở ngã tư đường

Giảng nói những điều tốt

Mà tự không thật-đức

Chẳng tu cũng như vậy.

Lúc đó, Văn-Thù-Sư-Lợi Bồ-Tát hỏi Trí-Thủ Bồ-Tát : 'Phật-tử ! Trong phật-pháp, trí-huệ là trên tất cả. Cớ sao với các chúng-sanh, đức Phật hoặc ca ngợi sự bố-thí, sự trì-giới, hoặc ca ngợi sự nhẫn-nhục, sự tinh-tấn, thiền-định, trí-huệ, từ-bi, hỉ xả ... , mà chẳng chỉ dùng một pháp để được giải-thoát, thành vô-lượng chánh-đẳng chánh-giác ?

Trí-Thủ Bồ-Tát nói kệ đáp rằng :

Phật-tử rất hi-hữu

Biết rõ tâm chúng-sanh

Xin lóng nghe tôi đáp

Những nghĩa ngài đã hỏi.

Chư Phật thuở quá-khứ

Hiện-tại và vị-lai

Không có nói một pháp

Mà chứng được đạo-quả.

Phật biết tâm chúng-sanh

Tánh phận đều chẳng đồng

Tùy chỗ họ đáng thọ

Theo đó mà thuyết pháp.

Vì kẻ tham, khuyên thí

Vì người lỗi, khen giới

Nhiều sân, thời khuyên nhẫn

Giải-đãi, thời khuyên siêng.

Loạn tâm phải tu-định

Ngu-si trau trí-huệ

Bất-nhơn phải từ-mẫn

Giận-hại khuyên rèn bi.

Lo rầu thời ngợi hỉ

Chấp trước lời khen xả

Tuần tự tu như vậy

Lần đủ các phật-pháp.

Như trước xây nền móng

Rồi sau tạo nhà cửa

Thí và giới cũng vậy

Là gốc hạnh Bồ-Tát.

Ví như dựng thành quách

Ðể bảo hộ dân chúng

Nhẫn và tấn cũng vậy

Phòng hộ chư Bồ-Tát.

Ví như Ðại-Lực-Vương

Cả nước đều ngưỡng vọng

Ðịnh huệ cũng như vậy

Chỗ tựa của Bồ-Tát.

Cũng như vua chuyển-luân

Ban vui cho nhân-loại

Từ bihỉ xả

Làm Bồ-Tát an vui.

Lúc đó Văn-Thù-Sư-Lợi Bồ-Tát hỏi Hiền-Thủ Bồ-Tát rằng : 'Phật-tử ! Chư Phật chỉ do một đạo mà được giải-thoát. Cớ sao hiện nay thấy tất cả phật-độ lại có nhiều sự không đồng, những là :

Thế-giới, chúng-sanh-giới, thuyết-pháp, điều-phục, thọ-lượng, quang-minh, thần-thông, chúng-hội, giáo-nghĩa, pháp-trụ v.v... đều sai khác nhau.

Không có vị nào chẳng đủ tất cả phật-pháp mà được thành vô-thượng bồ-đề ?

Hiền-Thủ Bồ-Tát nói kệ đáp rằng :

Thưa ngài ! Pháp thường vậy

Pháp-Vương pháp duy-nhất

Tất cả chư Như-Lai

Một đạo mà giải-thoát.

Thân của tất cả Phật chỉ là một pháp-thân

Nhứt-tâ, nhứt trí-huệ

Lực vô-úy cũng vậy.

Như trước đến bồ-đề

Bao nhiêu tâm hồi hướng

Ðược cõi nước như vậy

Chúng-hội và thuyết-pháp.

Tất cả các cõi Phật

Trang-nghiêm đều viên-mãn

Tùy chúng-sanh hạnh khác

Thấy chẳng đồng như vậy

Cõi Phật cùng thân Phật

Chúng hộingôn thuyết

Các phật-pháp như vậy

Chúng-sanh chẳng thấy được.

Tâm ý đã thanh-tịnh

Hạnh-nguyện đều đầy đủ

Người sáng suốt như vậy

Mới được thấy nơi đây.

Tùy chúng-sanh tâm thích

Và cùng sức nghiệp-quả

Thấy sai khác như vậy

Do oai thần của Phật.

Cõi Phật vô-sai-biệt

Không ghét cũng không thương

Chỉ tùy tâm chúng-sanh

Thấy có khác như vậy.

Do đây nơi thế-giới

Chỗ thấy đều sai khác

Chẳng phải chư Như-Lai

Bực Ðại-Tiên có lỗi.

Tất cả các thế-giới

Người đáng được giáo-hóa

Thường được thấy Thế-Tôn

Pháp chư Phật như vậy.

Lúc đó chư Bồ-Tát nói với Văn-Thù-Sư-Lợi Bồ-Tát : 'Phật-tử ! Chúng tôi đã tự nói chỗ hiểu biết của mình rồi. Xin ngài dùng diệu-biện-tài diễn sướng những cảnh-giới của Như-Lai:

Những gì là cảnh-giới của Phật ? Những gì là nhơn của cảnh-giới Phật ? Những gì là sự nhập vào của cảnh-giới Phật ? Những gì là trí của cảnh-giới Phật ? Những gì là pháp của cảnh-giới Phật ? Những gì là ngôn-thuyết của cảnh-giới Phật ? những gì là sự hiểu biết của cảnh-giới Phật ? Những gì là sự chứng của cảnh-giới Phật ? Những gì là sự hiện ở của cảnh-giới Phật ? Những gì là sự rộng lớn của cảnh-giới Phật ?

Văn-Thù-Sư-Lợi Bồ-Tát nói kệ đáp rằng :

Như-Lai cảnh-giới sâu

Lượng đó khắp hư-không

Tất cả chúng-sanh vào

thật không chỗ nhập.

Như-Lai cảnh-giới sâu

Bao nhiêu nhơn thắng diệu

Ức kiếp thường tuyên nói

Cũng lại chẳng thể hết.

Tùy tâm trí huệ mình

Khuyến tấn đều khiến lợi

Ðộ chúng-sanh như vậy

Là cảnh-giới chư Phật.

Những cõi nước thế-gian

Tất cả đều theo vào

Trí thân không có sắc

Chẳng phải kia thấy được.

Chư Phật trí tự-tại

Tam-thế không chướng ngại

Cảnh-giới huệ như vậy

Bình-đẳng như hư-không.

Pháp-giới chúng-sanh-giới

Rốt ráo không sai khác

Tất cả đều rõ biết

Ðây là cảnh-giới Phật.

Trong tất cả thế-giới

Bao nhiêu những âm-thinh

Phật-trí đều tùy rõ

Cũng không có phân-biệt.

Chẳng phải thức biết được

Chẳng phải tâm cảnh-giới

Tánh đó vốn thanh-tịnh

Khai-thị các quần-sanh.

Chẳng nghiệp chẳng phiền-não

Không vật không trụ-xứ

Không chiếu không sở-hành

Bình-đẳng đi thế-gian.

Tất cả tâm chúng-sanh

Khắp ở trong ba thời

Như-Lai nơi một niệm

Tất cả đều rõ thấu.

Lúc bấy giờ trong cõi Ta-Bà này, tất cả chúng-sanh, bao nhiêu pháp sai-biệt, nghiệp sai-biệt, thế-gian sai-biệt, thân sai-biệt, căn sai-biệt, thọ sanh sai-biệt, trì-giới quả sai-biệt, phạm-giới quả sai-biệt, quốc-độ quả sai-biệt, do thần-lực của Phật thảy đều hiện rõ.

Phương đông, trăm ngàn ức na-do-tha vô-số, vô-lượng, vô-biên, vô-đẳng, bất-khả-số, bất-khả-xưng, bất-khả-tư, bất-khả-lượng, bất-khả-thuyết, tận pháp-giới hư-không-giới, trong tất cả thế-giới, bao nhiêu chúng-sanh pháp sai-biệt, đều do thần-lực của Phật mà hiển hiện rõ ràng.

Những phương Nam, Tây, Bắc, Ðông-Bắc, Ðông-Nam, Tây-Nam, Tây-Bắc, thượng, hạ, cũng đều như vậy.

********************

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14769)
Thuở đó đức Phật đang ngự tại rừng Ta-la-song-thọ, ở ngoại ô thành Câu-thi-na, thuộc lãnh thổ trị vì của bộ tộc Lực-sĩ.
(Xem: 11834)
Đức Thế Tôn từ nơi cung trời Đâu-suất sinh xuống thành Ca-duy, chán đời sống dục lạc ở vương cung, thành tựu đạo chơn thường dưới cội cây...
(Xem: 12768)
Kinh Rong Chơi Trời Phương Ngoại là một phẩm của Kinh Pháp Cú Hán tạng có tên là Nê Hoàn Phẩm. Nê HoànNiết bàn (Nirvana, Nibbâna).
(Xem: 10350)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1637. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 12070)
Đây là kinh Pháp Quán Phạm Chí. Khung cảnh dựng lên cho kinh cũng giống như khung cảnh của kinh thứ mười một...
(Xem: 15300)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, kinh văn số 1680, luận tập bộ toàn. HT Thích Như Điển dịch Việt
(Xem: 11090)
Một thời, đức Bhagavat trú tại Vārāṇasi, nơi xứ Ṛṣipatana, trong rừng Mṛgadāva. Bấy giờ, đức Thế Tôn nói:
(Xem: 10543)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển 32, luận tập bộ toàn, kinh văn 1671; HT Thích Như Điển dịch sang tiếng Việt.
(Xem: 12480)
Kinh Bát Đại Nhân Giác này của Đại Sư An Thế Cao từ nước An Tức sang Trung Quốc vào thời Hậu Hán (năm 132-167 sau công nguyên) soạn dịch.
(Xem: 16434)
Năm nay (2016) trong chương trình của tôi, không dự định đi sang Úc, nhưng ngày 23 tháng 6 năm 2016 vừa qua...
(Xem: 14319)
Tôi được nghe như vầy: một thuở nọ, Đức Thế Tôn đang ngụ tại vườn Nai, ở Isipatana gần Bénarès. Lúc bấy giờ...
(Xem: 11794)
Nay ở nơi chư Phật Chắp tay kính đảnh lễ Con sẽ như giáo nói Tư lương Bồ-đề Phật.
(Xem: 14815)
Lúc bấy giờ, ngài Vô-Tận-Ý Bồ-Tát (1) liền từ chỗ ngồi đứng dậy trịch áo bày vai hữu (2), chấp tay hướng Phật mà bạch rằng:
(Xem: 12036)
Bộ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh (Taisho Shinshu Daijokyo) xuất xứ từ thời Vua Taisho (Đại Chánh) ở Nhật Bản từ đầu thế kỷ thứ 20.
(Xem: 16861)
Có lẽ Lăng Già là một trong những bộ kinh phân tích cái Tâm một cách chi li, khúc chiết nhất trong kinh điển Phật giáo.
(Xem: 11594)
Tôi nghe như vầy. Có một lúc, Đức Phật đã sống ở gần Xá Vệ (Savatthi) trong Khu Rừng Kỳ Đà (Jeta Wood) ở tu viện Cấp Cô Độc
(Xem: 12740)
Đại Chánh Tân Tu Đại tạng Kinh, quyển thứ 32 thuộc Luận Tập Bộ Toàn. Kinh văn số 1641. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 11349)
Thưa Tôn giả Gotama, những ngày về trước, những ngày về trước nữa, rất nhiều Sa-môn, Bà-la-môn là du sĩ ngoại đạo ngồi...
(Xem: 12066)
Lời dạy của Đức Phật được kiết tập thành kinh điển và bảo lưu trong nhiều truyền thốngbộ phái Phật giáo.
(Xem: 52159)
Toàn bộ Đại Tạng Kinh tiếng Việt trên 203 tập đã dịch và in xong...
(Xem: 15472)
Như vầy tôi nghe: Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavana, ngôi vườn ông Anàthapindika. Lúc bấy giờ...
(Xem: 13973)
Nếu thấy thân người nữ Cùng với vẻ diễm kiều Người ngu không biết rõ Vọng sinh ý dâm nhiễm.
(Xem: 11445)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1691. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 13188)
Được nghe Đức Phật đích thân thuyết pháp là một nhân duyên hy hữu, một công đức vô lượng, và may mắn hãn hữu trong đời.
(Xem: 12792)
Lời Đức Phật dạy rất mực thâm sâu. Kinh nào cũng cần nghiền ngẫm, cần tu học với từng lời dạy một.
(Xem: 13227)
Tôi nghe như vầy: Một thuở nọ, Đức Phật cùng với 1.250 vị đại Bhikṣu ở trên núi Thứu Phong gần thành Vương Xá...
(Xem: 17921)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1686. HT Thích Như Điển dịch Việt
(Xem: 12458)
Tỉnh giác từ ngủ say Nên hoan hỷ tư duy Lắng nghe điều Ta nói Soạn tập lời Phật dạy
(Xem: 12658)
Tại thành Xá Vệ, vào buổi sáng sớm, Tỳ-kheo-ni Avalika khoác y ôm bình bát, đi vào thành Xá Vệ để khất thực.
(Xem: 54215)
Trong kinh Bách Dụ, Phật đã dùng những chuyện xưa để thí dụ cụ thể sự dại dột mê lầm chung của chúng ta. Nếu chúng ta biết trừ bỏ mê lầm ở đâu thì Niết Bàn sẽ thực hiện ở đó.
(Xem: 14435)
Khi ấy, đức Thế Tôn ở trong Xá-vệ đại thành bộ hành, để khất thực[32]; dùng cơm xong, việc thọ thực hoàn tất, từ bỏ việc khất thực ở phía sau (quay về bổn xứ).
(Xem: 9935)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1634, HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 13827)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1644 - HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 57992)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1679 - Pháp Thiên dịch Phạn ra Hán, HT Thích Như Điển dịch Hán ra Việt
(Xem: 14510)
Dịch từ văn Phạn sang văn Trung Hoa: Pháp sư Pháp Đăng; Thật Xoa Nan Đà (Siksananda), Lược giải: Tỳ kheo Thích Minh Điền
(Xem: 20150)
Nguyên tác Hán văn: sa-môn Pháp Tạng, chùa Sùng Phúc, Kinh Triệu thuật
(Xem: 13795)
Thời đại Dao Tần, Pháp Sư ba tạng Cưu Ma La Thập, dịch văn Phạn sang văn Trung Hoa, Lược giải: Tỳ kheo Thích Minh Điền
(Xem: 15412)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán tạng.
(Xem: 17500)
Bát Nhã Ba-La-Mật-Đa Tâm Kinhbài kinh được tụng đọc tại các chùa theo hệ thống Phật Giáo Đại Thừa, là bài kinh rất phổ thông...
(Xem: 13323)
Lành thay, Thế Tôn! Nay xin vì con mà nói vắn tắt pháp yếu. Sau khi nghe pháp, con sẽ ở một mình nơi chỗ vắng, tu tập không buông lung.
(Xem: 11938)
Hãy bứng gốc và buông bỏ tất cả các pháp sắc, thọ, tưởng, hành, thức – nghĩa là hãy bứng gốc và buông bỏ toàn bộ thế giới trong và ngoài mà ...
(Xem: 13494)
Luận rằng: Ông bảo lời ta không có đạo lý, nếu thế thì lời ông cũng không có đạo lý. Nếu lời ông không có đạo lý thì lời ta ắt có đạo lý.
(Xem: 14674)
Như Lai là vua của các pháp, là bậc Chí tôn của các pháp. Lành thay Thế Tôn! Nên thuyết nghĩa này cho các Tỳ-kheo.
(Xem: 12496)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh,Luận Tập Bộ Tòan thứ 32, Thứ tự Kinh Văn số 1631
(Xem: 12158)
Thiền-Đà-Ca vương phải nên biết, Sinh tử khổ não, nhiều lỗi lầm, Trọn bị vô minh che, ngăn ngại, Ta nay vì họ hưng lợi ích.
(Xem: 12066)
Như Bà-la-môn nói, trong các kinh điển, bốn Vệ-Đà là chính; Lại, trong đó, niệm là chính ; lại trong niệm này, năng thuyênsở thuyên là chính;
(Xem: 13293)
Nếu hiểu được Luận này, Ắt được các pháp luận, Nghĩa sâu xa như thế, Nay sẽ rộng tuyên nói.
(Xem: 12546)
Kinh văn số 1672, Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển 32
(Xem: 13670)
Này các đệ tử, sau khi Như Lai qua đời, các vị phải trân trọng, cung kính giới luật như kẻ nghèo hèn được giàu có, như kẻ đui mù được sáng mắt.
(Xem: 13333)
Tôi nghe như vầy: Bấy giờ, có số đông Tỳ-kheo Thượng tọa trú ở tại vườn Cù-sư-la, nước Câu-xá-di[2].
(Xem: 25609)
Duy Thức Học, người nào nếu như nghiên cứu đến cũng phải công nhận là một môn học rất thực tế, rất sống động...
(Xem: 12183)
Đức Phật thường nói rằng chỉ có một cách duy nhất vượt qua bờ phiền não là: xa lìa tham sân si.
(Xem: 14562)
Từ A-Di Đà, tức là phiên âm từ chữ Sanskrit: अमित​ amita, có nghĩa là: Vô lượng, đây là dịch sát theo ngữ nguyên अमित​ amita của Sanskrit.
(Xem: 11868)
Thuộc Tăng Chi Bộ (Anguttaranikàya) của Kinh tạng Pàli, đây là một bài kinh được tụng đọc thường nhật ở các xứ Phật giáo Nam Truyền
(Xem: 42083)
Bản dịch Việt ngữ từ bản chữ Hán năm 1898 Chùa Xiển Pháp tại thôn An Trạch, Tỉnh Hà Nội...
(Xem: 28355)
Nhiều người đọc Kinh Dược Sư hiểu sai ý của Phật Thích Ca muốn nói, hiểu sai nên đã đưa vào đường mê tín mà không biết, vì ở phần đầu của kinh Dược Sư...
(Xem: 38815)
Kinh Ngũ Bách Danh Quán Thế Âm bản chữ Hán và Việt dịch của Quảng Minh
(Xem: 14727)
Tây Thiên dịch kinh Tam tạng, Triều tán Đại phu, Thí Hồng Lư khanh, Truyền pháp Đại sư, Thần Thí Hộ phụng chiếu dịch; Phước Nguyên dịch Việt và chú.
(Xem: 12707)
đệ tử Phật, ngày cũng như đêm, thường xuyên chí thành, hết lòng trì tụng, quán niệm khắc ghi, tám điều giác ngộ, của bậc Đại nhân.
(Xem: 16245)
Sau khi Ta diệt độ nhập Niết-Bàn, hãy tự thắp đuốc lên mà đi; thắp lên với chính pháp, đừng thắp lên với pháp nào khác; hãy nương tựa với chính mình, đừng nương tựa với một pháp nào khác
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant