Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

10. Phẩm Bồ-Tát Vấn Minh

11 Tháng Ba 201100:00(Xem: 16548)
10. Phẩm Bồ-Tát Vấn Minh

KINH HOA NGHIÊM 
Hán Dịch: Ðại-Sư Thật-Xoa-Nan-Ðà - Việt Dịch: HT Thích Trí Tịnh
Phật Học Viện quốc Tế Xuất Bản PL 2527 - 1983

PHẨM BỒ TÁT VẤN MINH
THỨ MƯỜI


 Lúc bấy giờ, Văn-Thù-Sư-Lợi Bồ-Tát hỏi Giác-Thủ Bồ-Tát : 'Phật-tử ! Tâm-tánh vốn là một, sao lại thấy có các thứ sai khác ? Những là :

Ðến đường lành nẻo dữ, căn thân có đủ có thiếu, thọ sanh đồng và khác, đẹp-đẽ cùng xấu-xí, nào vui nào khổ, nghiệp không biết tâm, mà tâm cũng chẳng biết nghiệp, thọ không rõ báo mà báo cũng chẳng rõ thọ, tâm chẳng biết thọ mà thọ cũng không biết tâm, nhơn không biết duyên mà duyên cũng chẳng biết nhơn, trí chẳng biết cảnh mà cảnh cũng chẳng biết trí.

Giác-Thủ Bồ-Tát nói kệ để đáp :

Nay ngài hỏi nghĩa này

Vì Liễu-ngộ quần-mông

Cứ tánh kia, tôi đáp

Xin ngài lóng nghe cho.

Các pháp không tác dụng

Cũng không có thể tánh

Vì thế nên các pháp

Ðều chẳng biết được nhau.

Ví như nước trong sông

Các dòng đua nhau chảy

Chúng đều chẳng biết nhau

Các pháp cũng như vậy.

Lại cũng như đống lửa

Ðồng thời phát ngọn to

Chúng đều chẳng biết nhau

Các pháp cũng như vậy.

Lại như gió lớn thổi

Xao động các cảnh vật

Chúng đều chẳng biết nhau

Các pháp cũng như vậy.

Lại như các địa-giới

Xây vần nương tựa nhau

Các pháp cũng như vậy.

Nhãn, nhĩ, tỉ, thiệt, thân

Tâm-ý sáu tình-căn

Do dây thường lưu-chuyển

Nhưng vẫn không năng-chuyển.

Pháp-tánh vốn vô-sanh

Trong đây không năng hiện

Cũng không vật sở-hiện.

Nhãn, nhĩ, tỉ, thiệt, thân

Tâm-ý sáu tình-căn

Tất cả rỗng vô-tánh

Vọng phân-biệt mà có.

Cứ đúng lý quan-sát

Tất cả đều vô-tánh

Pháp-nhãn bất-tư-nghì

Ðây là thấy chơn thật.

Hoặc vọng hay chẳng vọng

Hoặc thiệt hoặc chẳng thiệt

Thế-gian cùng xuất-thế

Chỉ là giả ngôn-thuyết.

Lúc đó, Văn-Thù-Sư-Lợi Bồ-Tát hỏi Tài-Thủ Bồ-Tát : 'Phật-tử ! Ðức Như-Lai tùy thờI-gian như thế-nào, cũng như tùy mạng-sống, tùy thân-thể, tùy hành-vi, tùy hiểu-biết, tùy ngôn-luận, tùy sở-thích, tùy phương-tiện, tùy tư-duy, tùy quan-sát của chúng-sanh như thế nào, mà hiện thân Phật để giáo-hóa điều-phục các chúng-sanh ấy ?

Tài-Thủ Bồ-Tát nói kệ đáp rằng :

Ðây là cảnh của bực

Ða-Văn thích tịch-diệt,

Nay tôi vì ngài đáp

Xin ngài chú ý nghe.

Phân biệt quán nội-thân

Trong đây gì là ta ?

Nếu hiểu được như vậy

Thời biết ta không.

Thân này là giả tạo

Chỗ trụ không nơi chỗ

Người thiệt-biết thân này

Trong đây không chấp trước.

Nơi thân khéo quan-sát

Tất cả đều thấy rõ

Biết pháp đều hư-vọng

Chẳng khởi tâm phân-biệt.

Mạng sống nhơn gì có

Rồi nhơn gì tan mất

Khác nào vòng lửa xây

Ðầu đuôi chẳng biết được.

người trí hay quan-sát

Có tướng đều vô-thường

Các pháp, không, vô-ngã

Lìa hẳn tất cả tướng.

Các báo, tùy nghiệp sanh

Giả dối như giấc mơ

Luôn luôn thường diệt hoại

Như trước, sau cũng vậy.

Những pháp thấy ở đời

Chỉ do tâm làm chủ,

Tùy hiểu chấp lấy tướng

Ðiên-đảo chẳng đúng thật.

Những ngôn-luận trong đời

Ðều do phân biệt cả

Chưa từng có một pháp

Ðược vào nơi pháp-tánh.

Sức năng-duyên, sở-duyên

Sanh ra những pháp-tướng

Chóng diệt, chẳng tạm dừng

Niệm niệm đều như vậy.

Lúc đó, Văn-Thù-Sư-Lợi Bồ-Tát hỏi Bửu-Thủ Bồ-Tát : 'Phật-tử ! Tất cả chúng-sanh đồng có tứ-đại, không ngã, không ngã-sở, tại sao lại có những sự khác biệt, như khổ vui, tốt xấu, ưa trong chuộng ngoài, thọ ít hưởng nhiều, hoặc hiện báo, hoặc hậu báo. Nhưng trong pháp-giới vẫn không tốt xấu ?

Bửu-Thủ Bồ-Tát nói kệ đáp rằng :

Cứ theo nghiệp đã tạo

Sanh quả báu như vậy

Ðều không có tác-giả

Ðây là lời chư Phật.

Như mặt gương sáng sạch

Tùy theo cảnh đối tượng

Hiện bóng sai khác nhau

Nghiệp tánh cũng như vậy.

Cũng như ruộng gieo giống

Chúng đều chẳng biết nhau

Tự nhiên mọc lên cây

Nghiệp tánh cũng như vậy.

Như nhà ảo thuật giỏi

Ở tại ngã tư đường

Hiện ra những sắc-tướng

Nghiệp-tánh cũng như vậy.

Như người gỗ máy móc

Hay vang ra các tiếng

Nó không ngã ngã-sở

Nghiệp-tánh cũng như vậy.

Cũng như giống chim bay

Từ trứng nở sanh ra

Tiếng kêu không đồng nhau

Nghiệp-tánh cũng như vậy.

Ví như trong thai-tạng

Căn thân đều thành-tựu

Thể-tướng không từ đâu

Nghiệp-tánh cũng như vậy.

Lại như ở địa-ngục

Bao nhiêu là sự khổ

Kia đều không từ đâu

Nghiệp-tánh cũng như vậy.

Như vua Chuyển-luân-vương

Có đủ bảy thứ bảo

Chỗ đến không từ đâu

Nghiệp-tánh cũng như vậy.

Lại như các thế-giới

Lúc đại-hỏa cháy tan

Lửa này không từ đâu

Nghiệp-tánh cũng như vậy

Lúc đó Văn-Thù-Sư-Lợi Bồ-Tát hỏi Ðức-Thủ Bồ-Tát : 'Phật-tử ! Chỗ giác-ngộ của Ðức Như-Lai chỉ là một pháp duy-nhứt, sao lại bảo là vô-lượng-pháp, hiện vô-lượng cõi, hóa vô-lượng-chúng, diễn vô-lượng âm, thị vô-lượng thân, biết vô-lượng tâm, hiện vô-lượng thần-thông, có thể chấn động khắp vô-lượng thế-giới, thị-hiện vô-lượng sự thù-thắng trang-nghiêm, hiển-thị vô-biên nhiều loại cảnh-giới. Nhưng trong pháp-tánh các tướng sai-biệt này đều bất-khả-đắc.

Ðức-Thủ Bồ-Tát nói kệ đáp rằng :

Nghĩa của Phật-tử hỏi

Rất sâu khó rõ được

Người trí biết nghĩa này

Thường chứa công-đức Phật.

Như đất chỉ một tánh

Mọi loài ở riêng chỗ

Ðất không nghĩ đồng khác

Pháp chư Phật như vậy.

Cũng như một đại-hải

Ngàn vạn lượng sóng trào

Nước biển vẫn duy nhứt

Pháp chư Phật như vậy.

Cũng như gió một tánh

Thổi động tất cả vật

Gió không nghĩ đồng khác

Pháp chư Phật như vậy.

Cũng như mây sấm lớn

Mưa khắp cả mọi nơi

Nước mưa vẫn không khác

Pháp chư Phật như vậy.

Cũng như mặt đất kia

Mọc lên nhiều mầm mộng

Mặt đất chỉ là một

Pháp chư Phật như vậy.

Mặt nhựt không mây mờ

Chiếu sáng khắp mười phương

Quang-minh không sai khác

Pháp chư Phật như vậy.

Như mặt nguyệt trên cao

Mọi nơi đều nhìn thấy

Mặt nguyệt vẫn một chỗ

Pháp chư Phật như vậy.

Ví như Ðại-Phạm-Vương

Ứng hiện khắp đại-thiên

Thân ngài vẫn không khác

Pháp chư Phật như vậy.

Lúc đó Văn-Thù-Sư-Lợi Bồ-Tát hỏi Mục-Thủ Bồ-Tát : 'Phật-tử ! Như-Lai phước-điền đồng một không sai khác, sao lại thấy chúng-sanh bố-thí được của quả-báo chẳng đồng? Những là :

Nhiều loại sắc, nhiều loại thân, nhiều loại căn, nhiều loại nhà, nhiều loại chủ, nhiều loại quyến thuộc, nhiều loại quan-chức, nhiều loại công-đức, nhiều loại trí-huệ.

Nhưng đức Phật đối với họ, tâm Phật thường bình-đẳng, không có quan-niệm riêng khác ?

Mục-Thủ Bồ-Tát nói kệ đáp rằng :

Như tất cả vẫn là một

Theo giống mọc mầm khác

Ðất không ý thân sơ

Phật phước-điền cũng vậy.

Lại như nước một vị

Nhơn đồ đựng có khác

Phật phước-điền vẫn một

Do tâm người thành khác.

Như nhà ảo thuật khéo

Làm mọi người hoan-hỉ

Phật phước-điền cũng vậy

Khiến chúng-sanh kính vui.

Như vua có tài trí

Hay khiến nhơn-dân mừng

Phật phước-điền cũng vậy

Khiến chúng đều an-vui.

Như mặt gương sáng sạch

Theo hình mà hiện bóng

Phật phước-điền cũng vậy

Tùy tâm được báo khác.

Như thuốc A-gìa-đà

Trị được tất cả độc

Phật phước-điền cũng vậy

Dứt các hoạ phiền não.

Như lúc mặt trời mọc

Chiếu sáng khắp thế-gian

Phật phước-điền cũng vậy

Phá trừ những tối tăm.

Như mặt nguyệt tròn sáng

Chiếu khắp cõi đại-địa

Phật phước-điền cũng vậy

Bình-đẳng với tất cả.

Ví như gió tỳ-lam

Chấn-động khắp đại địa

Phật phước-điền cũng vậy

Ðộng chúng-sanh ba cõi.

Như đại hỏa nổi lên

Ðốt cháy tất cả vật

Phật phước-điền cũng vậy

Ðốt tất cả hữu-vi.

Lúc đó Văn-Thù-Sư-Lợi Bồ-Tát hỏi Cần-Thủ Bồ-Tát : 'Phật-tử ! Phật-giáo là một, chúng-sanh được thấy biết, cớ sao không liền đều dứt trừ tất cả phiền-não hệ-phược mà được xuất-ly ? Nhưng nơi chúng-sanh, sắc, thọ, tưởng, hành và thức, năm uẩn, dục, sắc, vô-sắc, ba cõi, vô-minh, tham-ái đều không sai khác. Như thế thời Phật-giáo, đối với chúng-sanh, hoặc có lợi ích, hoặc không có lợi ích ?

Cần-Thủ Bồ-Tát nói kệ đáp rằng :

Phật-tử khéo lóng nghe

Nay tôi cứ thiệt đáp

Hoặc có mau giải-thoát

Hoặc có khó xuất-ly.

Nếu muốn cầu dứt trừ

Vô-lượng những lỗi ác

Nên ở trong Phật-pháp

Dũng-mãnh thường tinh-tấn.

Ví như chút ít lửa

Ðốt ướt thời chóng tắt

Ở nơi trong Phật-pháp

Người giải-đãi cũng vậy.

Như cọ cây lấy lửa

Chưa cháy mà nghỉ luôn

Thế lửa liền tắt nguội

Người giải-đãi cũng vậy.

Như người cầm nhựt châu

Chẳng dùng vật tiếp bóng

Trọn không thể được lửa

Người giải-đãi cũng vậy

Như ánh nắng quá chói

Trẻ nít nhắm đôi mắt

Tự nói sao không thấy

Người giải-đãi cũng vậy

Như người không tay chân

Muốn dùng cỏ làm tên

Bắn phá cả đại-địa

Người giải-đãi cũng vậy

Như lấy một đầu lông

Muốn chấm khô đại hải

Người giải-đãi cũng vậy

Không thể dứt hoặc nghiệp.

Lại như kiếp-hỏa nổi

Muốn tắt với ít nước

Ở nơi trong Phật-pháp

Người giải-đãi cũng vậy.

Như người ngó hư-không

Ngồi yên không giao-động

Nói mình bay đi khắp

Người giải-đãi cũng vậy.

Lúc đó Văn-Thù-Sư-Lợi Bồ-Tát hỏi Pháp-Thủ Bồ-Tát : 'Phật-tử ! Như lời đức Phật dạy : Nếu có chúng-sanh thọ-trì Chánh-pháp thời đều có thể dứt trừ tất cả phiền-não ?

Nhưng cớ sao có người thọ-trì chánh-pháp lại tùy thế-lực của tham, sân, si, mạn, tùy thế-lực của phú, phẩn, hận, tật, xan, cuống, siểm ... xoay chuyển không rời nơi tâm. Người hay thọ-trì pháp, cớ sao lại ở trong tâm hành khởi các phiền-não ?

Pháp-Thủ Bồ-Tát nói kệ đáp rằng :

Phật-tử khéo lóng nghe

Thật nghĩa ngài đã hỏi

Vì chẳng phải đa-văn

Mà vào được Phật-pháp.

Như người trôi giữa dòng

Sợ chìm mà chết khát

Nơi pháp chẳng tu-hành

Ða-văn cũng như vậy.

Như trần-thiết vật thực

Chẳng ăn phải đói

Nơi pháp chẳng tu-hành

Ða-văn cũng như vậy.

Như người giỏi dược-phương

Chẳng cứu được bịnh mình

Nơi pháp chẳng tu-hành

Ða-văn cũng như vậy.

Như người đếm châu báu

Tự mình vẫn nghèo nàn

Nơi pháp chẳng tu-hành

Ða-văn cũng như vậy.

Như người ở vương-cung

Mà tự chịu đói rét

Nơi pháp chẳng tu-hành

Ða-văn cũng như vậy.

Như điếc tấu âm-nhạc

Người nghe mình chẳng nghe

Nơi pháp chẳng tu-hành

Ða-văn cũng như vậy.

Như mù họa hình tượng

Người thấy mình chẳng thấy

Nơi pháp chẳng tu-hành

Ða-văn cũng như vậy.

Ví như nhà hàng-hải

Mà tự chết trong biển

Nơi pháp chẳng tu-hành

Ða-văn cũng như vậy.

Như ở ngã tư đường

Giảng nói những điều tốt

Mà tự không thật-đức

Chẳng tu cũng như vậy.

Lúc đó, Văn-Thù-Sư-Lợi Bồ-Tát hỏi Trí-Thủ Bồ-Tát : 'Phật-tử ! Trong phật-pháp, trí-huệ là trên tất cả. Cớ sao với các chúng-sanh, đức Phật hoặc ca ngợi sự bố-thí, sự trì-giới, hoặc ca ngợi sự nhẫn-nhục, sự tinh-tấn, thiền-định, trí-huệ, từ-bi, hỉ xả ... , mà chẳng chỉ dùng một pháp để được giải-thoát, thành vô-lượng chánh-đẳng chánh-giác ?

Trí-Thủ Bồ-Tát nói kệ đáp rằng :

Phật-tử rất hi-hữu

Biết rõ tâm chúng-sanh

Xin lóng nghe tôi đáp

Những nghĩa ngài đã hỏi.

Chư Phật thuở quá-khứ

Hiện-tại và vị-lai

Không có nói một pháp

Mà chứng được đạo-quả.

Phật biết tâm chúng-sanh

Tánh phận đều chẳng đồng

Tùy chỗ họ đáng thọ

Theo đó mà thuyết pháp.

Vì kẻ tham, khuyên thí

Vì người lỗi, khen giới

Nhiều sân, thời khuyên nhẫn

Giải-đãi, thời khuyên siêng.

Loạn tâm phải tu-định

Ngu-si trau trí-huệ

Bất-nhơn phải từ-mẫn

Giận-hại khuyên rèn bi.

Lo rầu thời ngợi hỉ

Chấp trước lời khen xả

Tuần tự tu như vậy

Lần đủ các phật-pháp.

Như trước xây nền móng

Rồi sau tạo nhà cửa

Thí và giới cũng vậy

Là gốc hạnh Bồ-Tát.

Ví như dựng thành quách

Ðể bảo hộ dân chúng

Nhẫn và tấn cũng vậy

Phòng hộ chư Bồ-Tát.

Ví như Ðại-Lực-Vương

Cả nước đều ngưỡng vọng

Ðịnh huệ cũng như vậy

Chỗ tựa của Bồ-Tát.

Cũng như vua chuyển-luân

Ban vui cho nhân-loại

Từ bihỉ xả

Làm Bồ-Tát an vui.

Lúc đó Văn-Thù-Sư-Lợi Bồ-Tát hỏi Hiền-Thủ Bồ-Tát rằng : 'Phật-tử ! Chư Phật chỉ do một đạo mà được giải-thoát. Cớ sao hiện nay thấy tất cả phật-độ lại có nhiều sự không đồng, những là :

Thế-giới, chúng-sanh-giới, thuyết-pháp, điều-phục, thọ-lượng, quang-minh, thần-thông, chúng-hội, giáo-nghĩa, pháp-trụ v.v... đều sai khác nhau.

Không có vị nào chẳng đủ tất cả phật-pháp mà được thành vô-thượng bồ-đề ?

Hiền-Thủ Bồ-Tát nói kệ đáp rằng :

Thưa ngài ! Pháp thường vậy

Pháp-Vương pháp duy-nhất

Tất cả chư Như-Lai

Một đạo mà giải-thoát.

Thân của tất cả Phật chỉ là một pháp-thân

Nhứt-tâ, nhứt trí-huệ

Lực vô-úy cũng vậy.

Như trước đến bồ-đề

Bao nhiêu tâm hồi hướng

Ðược cõi nước như vậy

Chúng-hội và thuyết-pháp.

Tất cả các cõi Phật

Trang-nghiêm đều viên-mãn

Tùy chúng-sanh hạnh khác

Thấy chẳng đồng như vậy

Cõi Phật cùng thân Phật

Chúng hộingôn thuyết

Các phật-pháp như vậy

Chúng-sanh chẳng thấy được.

Tâm ý đã thanh-tịnh

Hạnh-nguyện đều đầy đủ

Người sáng suốt như vậy

Mới được thấy nơi đây.

Tùy chúng-sanh tâm thích

Và cùng sức nghiệp-quả

Thấy sai khác như vậy

Do oai thần của Phật.

Cõi Phật vô-sai-biệt

Không ghét cũng không thương

Chỉ tùy tâm chúng-sanh

Thấy có khác như vậy.

Do đây nơi thế-giới

Chỗ thấy đều sai khác

Chẳng phải chư Như-Lai

Bực Ðại-Tiên có lỗi.

Tất cả các thế-giới

Người đáng được giáo-hóa

Thường được thấy Thế-Tôn

Pháp chư Phật như vậy.

Lúc đó chư Bồ-Tát nói với Văn-Thù-Sư-Lợi Bồ-Tát : 'Phật-tử ! Chúng tôi đã tự nói chỗ hiểu biết của mình rồi. Xin ngài dùng diệu-biện-tài diễn sướng những cảnh-giới của Như-Lai:

Những gì là cảnh-giới của Phật ? Những gì là nhơn của cảnh-giới Phật ? Những gì là sự nhập vào của cảnh-giới Phật ? Những gì là trí của cảnh-giới Phật ? Những gì là pháp của cảnh-giới Phật ? Những gì là ngôn-thuyết của cảnh-giới Phật ? những gì là sự hiểu biết của cảnh-giới Phật ? Những gì là sự chứng của cảnh-giới Phật ? Những gì là sự hiện ở của cảnh-giới Phật ? Những gì là sự rộng lớn của cảnh-giới Phật ?

Văn-Thù-Sư-Lợi Bồ-Tát nói kệ đáp rằng :

Như-Lai cảnh-giới sâu

Lượng đó khắp hư-không

Tất cả chúng-sanh vào

thật không chỗ nhập.

Như-Lai cảnh-giới sâu

Bao nhiêu nhơn thắng diệu

Ức kiếp thường tuyên nói

Cũng lại chẳng thể hết.

Tùy tâm trí huệ mình

Khuyến tấn đều khiến lợi

Ðộ chúng-sanh như vậy

Là cảnh-giới chư Phật.

Những cõi nước thế-gian

Tất cả đều theo vào

Trí thân không có sắc

Chẳng phải kia thấy được.

Chư Phật trí tự-tại

Tam-thế không chướng ngại

Cảnh-giới huệ như vậy

Bình-đẳng như hư-không.

Pháp-giới chúng-sanh-giới

Rốt ráo không sai khác

Tất cả đều rõ biết

Ðây là cảnh-giới Phật.

Trong tất cả thế-giới

Bao nhiêu những âm-thinh

Phật-trí đều tùy rõ

Cũng không có phân-biệt.

Chẳng phải thức biết được

Chẳng phải tâm cảnh-giới

Tánh đó vốn thanh-tịnh

Khai-thị các quần-sanh.

Chẳng nghiệp chẳng phiền-não

Không vật không trụ-xứ

Không chiếu không sở-hành

Bình-đẳng đi thế-gian.

Tất cả tâm chúng-sanh

Khắp ở trong ba thời

Như-Lai nơi một niệm

Tất cả đều rõ thấu.

Lúc bấy giờ trong cõi Ta-Bà này, tất cả chúng-sanh, bao nhiêu pháp sai-biệt, nghiệp sai-biệt, thế-gian sai-biệt, thân sai-biệt, căn sai-biệt, thọ sanh sai-biệt, trì-giới quả sai-biệt, phạm-giới quả sai-biệt, quốc-độ quả sai-biệt, do thần-lực của Phật thảy đều hiện rõ.

Phương đông, trăm ngàn ức na-do-tha vô-số, vô-lượng, vô-biên, vô-đẳng, bất-khả-số, bất-khả-xưng, bất-khả-tư, bất-khả-lượng, bất-khả-thuyết, tận pháp-giới hư-không-giới, trong tất cả thế-giới, bao nhiêu chúng-sanh pháp sai-biệt, đều do thần-lực của Phật mà hiển hiện rõ ràng.

Những phương Nam, Tây, Bắc, Ðông-Bắc, Ðông-Nam, Tây-Nam, Tây-Bắc, thượng, hạ, cũng đều như vậy.

********************

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11599)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11909)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11072)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11315)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 12043)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12535)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10737)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 17942)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11699)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9916)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10148)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12318)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15305)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11212)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14296)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12055)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15279)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 11969)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12376)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11143)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12040)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10573)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12529)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13127)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14754)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12622)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16500)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19586)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13073)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12626)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12216)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11807)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10872)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13464)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11912)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11811)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11601)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12727)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14470)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12577)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15622)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13572)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12854)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9823)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 17953)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11124)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 9031)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12137)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 13003)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10256)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12140)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15254)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16563)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12169)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11413)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14210)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19627)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14120)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24532)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10641)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant