Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Trang 1

11 Tháng Ba 201100:00(Xem: 19751)
Trang 1

KINH HOA NGHIÊM 
Hán Dịch: Ðại-Sư Thật-Xoa-Nan-Ðà - Việt Dịch: HT Thích Trí Tịnh
Phật Học Viện quốc Tế Xuất Bản PL 2527 - 1983

PHẨM HIỀN THỦ
THỨ MƯỜI HAI

Văn-Thù-Sư-Lợi Bồ-Tát nói hạnh thanh-tịnh không trược loạn đại công-đức rồi, vì muốn hiển-thị công-đức của bồ-đề tâm, nên nói kệ hỏi Hiền-Thủ Bồ-Tát :

Nay tôi đã vì chư Bồ-Tát

Nói hạnh thanh-tịnh Phật đã tu

Ngài cũng nên ở trong hội này

Diễn đạt tu hành công-đức lớn.

Lúc đó Hiền-Thủ Bồ-Tát nói kệ đáp :

Lành thay xin ngài lóng nghe đây

Những công-đức đó chẳng lường được

Nay tôi tùy sức, nói ít phần

Như một giọt nước trong biển lớn.

Nếu có Bồ-Tát sơ phát tâm

Thệ cầu sẽ chứng Phật bồ-đề

Công-đức của kia không ngằn mé

Không thể cân lường, chẳng gì sánh.

Huống là vô-lượng vô-biên kiếp

Tu đủ địa, độ, các công-đức

Mười phương tất cả chư Như-Lai

Ðều cùng ngợi khen chẳng hết được.

Vô-biên công-đức lớn như vậy

Nay tôi trong đây nói ít phần

Ví như chân chim vạch không gian

Và như hạt bụi trên đại địa.

Bồ-Tát phát tâm cầu bồ-đề

Chẳng phải không nhơn, không có duyên

Với Phật, Pháp, Tăng khởi lòng tin

Do đây mà sanh tâm rộng lớn.

Chẳng cầu ngũ dục và ngôi vua

Chẳng mong giàu, vui, danh tiếng lớn

Chỉ vì dứt hẳn khổ chúng-sanh

Lợi ích thế-gian mà phát ý.

Thường muốn lợi lạc các chúng-sanh

Trang-nghiêm cõi nước, cúng-dường Phật

Thọ trì chánh-pháp, tu trí-huệ

Vì chứng bồ-đề mà phát tâm.

Thâm tâm, tin, hiểu thường thanh-tịnh

Cung kính, tôn trọng tất cả Phật

Nơi Pháp và Tăng cũng như vậy

Chí-thành cúng-dường mà phát tâm.

Thâm tín nơi Phật và phật-pháp

Cũng tin phật-tử đạo tu hành

Và tin vô-thượng đại bồ-đề

Do đây Bồ-Tát phát tâm nguyện.

Tin là đạo nguồn, mẹ công-đức

Nuôi lớn tất cả những pháp lành

Dứt trừ lưới nghi, khỏi vòng ái

Khai thị niết-bàn, đạo vô-thượng.

Tin không nhơ bợn, lòng thanh-tịnh

Là cội cung kính, trừ kiêu mạn

Cũng là pháp-tạng đệ-nhứt-tài

Là tay thanh-tịnh thọ thiện hạnh.

Tin hay ban cho, không bỏn-sẻn

Tin hay hoan-hỉ vào phật-pháp

Tin hay thêm lớn trí, công-đức

Tin quyết-định được bực Như-Lai.

Tin khiến lục-căn sạch, sáng, lẹ

Tin sức kiên-cố không bị hư

Tin hay dứt hẳn cội phiền-não

Tin hay chuyển hướng Phật công-đức.

Tin nơi cảnh-giới không chấp trước

Xa lìa các nạn, được vô-nạn

Tin hay vượt khỏi các đường ma

Thị-hiện đạo giải-thoát vô-thượng.

Tin là giống công-đức không hư

Tin hay sanh trưởng cây bồ-đề

Tin hay thêm lớn trí tối-thắng

Tin hay thị-hiện tất cả Phật.

Cứ theo công-hạnh nói thứ đệ

Tin là hơn hết, rất khó được

Ví như trong tất cả thế-gian

Mà có như ý diệu-bửu-châu.

Nếu thường tin thờ nơi chư Phật

Thời hay trì giới và tu-học;

Nếu thường trì-giới và tu học

Thời hay đầy đủ các công-đức.

Giới hay khai phát gốc bồ-đề

Học là siêng tu bực công-đức,

Nơi giới và học thường thuận làm

Thời được chư Phật luôn khen ngợi.

Nếu thường tin phụng nơi chư Phật

Thời hay trần-thiết cúng-dường lớn

Nếu hay trần-thiết cúng-dường lớn

Người này tin Phật bất-tư-nghì.

Nếu thường tin phụng nơi tôn-pháp

Thời nghe phật-pháp không nhàm đủ

Nếu nghe phật-pháp không nhàm đủ

Người này tin pháp bất-tư-nghì.

Nếu thường tin phụng thanh-tịnh tăng

Thời được tín tâm bất-thối-chuyển

Nếu được tín-tâm bất-thối-chuyển

Người này tín-lực không dao-động.

Nếu được tín-lực không dao-động

Thời được lục-căn sạch sáng-lẹ

Nếu được lục-căn sạch sáng-lẹ

Thời hay xa lìa ác-tri-thức.

Nếu hay xa lìa ác-tri-thức

Thời được gần gũi thiện-tri-thức

Nếu được gần gũi thiện-tri-thức

Thời hay tu tập quảng-đại-thiện.

Nếu hay tu tập quảng-đại-thiện

Người này được thành nhơn-lực lớn

Nếu người được thành nhơn-lực lớn

Thời được thù-thắng quyết-định giải.

Nếu được thù-thắng quyết-định giải

Thời được chư Phật thường hộ-niệm

Nếu được chư Phật thường hộ-niệm

Thời hay phát khởi bồ-đề-tâm

Nếu hay phát khởi bồ-đề-tâm

Thời hay siêng tu Phật công-đức

Nếu hay siêng tu Phật công-đức

Thời được sanh vào nhà của Phật.

Nếu được sanh ở nhà chư Phật

Thời khéo tu-hành phương-tiện lớn

Nếu khéo tu-hành phương-tiện lớn

Thời tâm tin ưa được thanh-tịnh.

Nếu được tâm tin ưa thanh-tịnh

Thời được tâm tăng-thượng tối-thắng

Nếu được tâm tăng-thượng tối-thắng

Thời thường tu tập ba-la-mật

Nếu thường tu tập ba-la-mật

Thời được trọn đủ pháp đại-thừa

Nếu được trọn đủ pháp đại-thừa

Thời hay đúng pháp cúng-dường Phật.

Nếu hay đúng pháp cúng-dường Phật

Thời được tâm niệm Phật bất-động

Nếu được tâm niệm Phật bất-động

Thời thường thấy được vô-lượng Phật.

Nếu thường thấy được vô-lượng Phật

Thời thấy Như-Lai thể thường-trụ

Nếu thấy Như-Lai thể thường-trụ

Thời biết được pháp trọn bất-diệt.

Nếu biết được pháp trọn bất-diệt

Thời được biện-tài vô-chướng-ngại

Nếu được biện-tài vô-chướng-ngại

Thời hay khai diễn vô-biên pháp.

Nếu hay khai diễn vô-biên pháp

Thời hay từ-mẫn độ chúng-sanh

Nếu hay từ-mẫn độ chúng-sanh

Thời được tâm đại-bi kiên-cố.

Nếu được tâm đại-bi kiên-cố

Thời hay mến ưa pháp thâm-diệu

Nếu hay mến ưa pháp thâm-diệu

Thời hay xa lìa lỗi hữu-vi.

Nếu hay xa lìa lỗi hữu-vi

Thời lìa kiêu-mạn và phóng-dật

Nếu lìa kiêu-mạn và phóng-dật

Thời hay kiêm-lợi tất cả chúng.

Nếu hay kiêm-lợi tất cả chúng

Thời ở sanh-tử không mỏi nhàm

Nếu ở sanh-tử không mỏi nhàm

Thời được dũng kiện không ai hơn.

Nếu được dũng kiện không ai hơn

Thời hay phát khởi đại thần-thông

Nếu hay phát khởi đại thần-thông

Thởi biết hạnh tất cả chúng-sanh.

Nếu biết hạnh tất cả chúng-sanh

Thời hay thành-tựu các quần-sanh

Nếu hay thành-tựu các quần-sanh

Thời được trí khéo nhiếp chúng-sanh.

Nếu được trí khéo nhiếp chúng-sanh

Thời hay thành tựu pháp tứ-nhiếp

Nếu hay thành tựu pháp tứ-nhiếp

Thời cho chúng-sanh lợi vô-hạn

Nếu cho chúng-sanh lợi vô-hạn

Thời đủ phương-tiện trí tối-thắng

Nếu đủ phương-tiện trí tối-thắng

Thời trụ đạo dũng-mãnh vô-thượng.

Nếu trụ đạo dũng-mãnh vô-thượng

Thời hay xô dẹp những ma-lực

Nếu hay xô dẹp những ma-lực

Thời hay vượt khỏi cảnh tứ-ma.

Nếu hay vượt khỏi cảnh tứ-ma

Thời được đến nơi bực bất-thối

Nếu được đến nơi bực bất-thối

Thời được pháp-nhẫn vô-sanh lớn.

Nếu được pháp-nhẫn vô-sanh lớn

Thời được chư Phật thọ-ký cho

Nếu được chư Phật thọ-ký cho

Thời tất cả Phật hiện ra trước.

Nếu được chư Phật hiện ra trước

Thời rõ mật-dụng thần-thông lớn

Nếu rõ mật-dụng thần-thông lớn

Thời được chư Phật thường nhớ tưởng.

Nếu được chư Phật thường nhớ tưởng

Thời dùng Phật-đức tự trang-nghiêm

Nếu dùng Phật-đức tự trang-nghiêm

Thời được thân đoan-nghiêm diệu-phước.

Nếu được thân đoan-nghiêm diệu-phước

Thời thân chói sáng dường núi vàng

Nếu thân chói sáng dường núi vàng

Thời đủ ba mươi hai tướng hảo.

Nếu đủ ba mươi hai tướng hảo

Tám mươi tùy hảo đồng nghiêm-sức

Nếu đủ tùy hảo đồng nghiêm-sức

Thời thân sáng chói vô-hạn-lượng.

Nếu thân sáng chói vô-hạn-lượng

Thời được quang-minh bất-tư-nghị

Nếu được quang-minh bất-tư-nghị

Quang-minh này hiện những liên-hoa.

Những quang-minh từ liên-hoa hiện

Có vô-lượng Phật ngự trên liên-hoa

Thị-hiện mười phương đều khắp cả

Ðều hay điều-phục các chúng-sanh.

Nếu hay điều-phục các chúng-sanh

Thời hiện vô-lượng thần-thông-lực.

Nếu hiện vô-lượng thần-thông-lực

Thời trụ bất-tư-nghị cõi nước,

Thời diễn thuyết bất-tư-nghị pháp

Khiến bất-tư-nghị chúng hoan-hỉ.

Thời dùng sức trí-huệ, biện-tài

Tùy tâm chúng-sanh mà giáo-hóa.

Nếu dùng sức trí-huệ, biện tài

Tùy tâm chúng-sanh mà giáo-hóa

Thời dùng trí-huệ làm tiên-đạo

Thân, ngữ, ý, thường không lầm lỗi.

Nếu dùng trí-huệ làm tiên đạo

Thân ngữ ý thường không lầm lỗi

Thời nguyện-lực tất được tự-tại

Tùy theo các loài mà hiện thân.

Nếu nguyện-lực ấy được tự-tại

Tùy theo các loài mà hiện thân

Thời lúc tùy chúng, mà thuyết-pháp

Âm-thinh tùy loại, khó nghĩ bàn

Thời với tâm tất cả chúng-sanh

Một niệm biết cả không thừa sót.

Nếu với tâm tất cả chúng-sanh

Một niệm biết cả không thừa sót.

Thời biết phiền-não không từ đâu

Trọn không còn chìm trong sanh-tử.

Nếu biết phiền-não không từ đâu

Trọn không còn chìm trong sanh-tử

Thời được thân công-đức pháp-tánh

Dùng pháp oai-lực hiện thế-gian.

Nếu được thân pháp-tánh công-đức

Dùng pháp oai-lực hiện thế-gian

Thời được thập-địa, mười tự-tại

Tu-hành các độ, thắng giải-thoát

Thời được quán-đảnh đại thần-thông

Trụ nơi tối-thắng các tam-muội.

Nếu được quán-đảnh đại-thần-thông

Trụ nơi tối thắng các tam-muộI

Thời khắp mười-phương chỗ chư Phật

Ðáng thọ quán-đảnh được thắng-vị

Thời được tất cả Phật mười phương

Tay lấy cam-lộ rưới trên đảnh

Thời thân đầy khắp như hư-không

An-trụ bất-động khắp mười-phương.

Nếu thân đầy khắp như hư-không

An-trụ bất-động khắp mười-phương

Thời chỗ sở-hành không ai bằng

Chư thiên, người đời chẳng biết được.

Bồ-Tát siêng tự-tại hạnh đại-bi

Nguyện độ tất cả đều trọn vẹn

Nếu ai nghe thấy mà cúng-dường

Ðều làm cho họ được an-lạc.

Thần-lực của chư Bồ-Tát kia

Pháp-nhãn toàn vẹn không thuyết giảm

Những đạo diệu-hạnh thập thiện thảy

Thắng bửu vô-lượng đều khiến hiện.

Như báu kim-cang trong đại-hải

Do oai-lực này sanh các báu;

Không tăng, không giảm, cũng vô-tận

Công-đức của Bồ-Tát cũng vậy.

Hoặc có quốc-độ không có Phật

Bồ-Tát nơi đó hiện thành Phật,

Nếu có quốc-độ chẳng biết Pháp

Nơi đó Bồ-Tát thuyết diệu-pháp.

Không có phân-biệt, không công-dụng

Trong khoảng một niệm khắp mười-phương

Như mặt nguyệt sáng chiếu khắp nơi

Vô-lượng phương-tiện độ quần-sanh.

Ở trong mười-phương các thế-giới

Niệm niệm thị-hiện thành phật-đạo

Chuyển chánh pháp-luân vào tịch-diệt

Nhẫn đến xá-lợi phân bố rộng.

Hoặc hiện Thanh-Văn cùng Ðộc-Giác

Hoặc hiện thành Phật khắp trang-nghiêm

Như vậy khai-diễn pháp ba thừa

Rộng độ chúng-sanh vô-lượng kiếp.

Hoặc hiện thân đồng-nam đồng-nữ

Trời rồng nhẫn đến a-tu-la,

Cùng với ma-hầu-la-già thảy

Tùy chúng sở-thích đều khiến thấy.

Chúng-sanh hình tướng đều chẳng đồng

Hành-nghiệp, âm-thinh cũng vô-lượng

Tất cả như vậy đều hiện được

Hải-ấn tam-muội oai-thần lực.

Nghiêm-tịnh bất-tư-nghị quốc-độ

Cúng-dường tất cả chư Như-Lai

Phóng-đại quang-minh vô-lượng-biên

Ðộ thoát chúng-sanh cũng vô-hạn.

Trí-huệ tự-tại, bất-tư-nghị

Ngôn-từ thuyết-pháp không chướng ngại

Thí, giới, nhẫn, tấn và thiền-định

Trí-huệ, phương-tiện, thần-thông thảy.

Tất cả như vậy đều tự-tại

Do Phật hoa-nghiêm tam-muội lực.

Trong một vi-trần nhập tam-muộI

Thành-tựu vi-trần tất cả định,

Mà vi-trần kia cũng không thêm

Nơi một hiện khắp vô-biên cõi.

Trong một trần kia, nhiều quốc-độ

Hoặc là có Phật, hoặc không Phật,

Hoặc là tạp nhiễm, hoặc thanh-tịnh

Hoặc cõi rộng lớn, hoặc hẹp nhỏ

Hoặc có cõi thành, hoặc là hoại

Hoặc cõi chánh-trụ, hoặc bàng-trụ,

Hoặc như ánh-nắng giữa đồng-trống

Hoặc như lưới Thiên-Ðế trên trời.

Như chỗ thị-hiện trong một trần

Tất cả vi-trần đều như vậy,

Ðây là những thánh-nhơn cao cả

Tam-muội, giải-thoát thần-thông-lực.

Nếu muốn cúng-dường tất cả Phật

Nhập nơi tam-muội khởi thần-thông

Hay dùng một tay khắp đại-thiên

Cúng khắp tất cả vô-số Phật.

Bao nhiêu hoa đẹp ở mười-phương

Hương thoa, hương bột, báu vô-giá

Ðều từ trong tay xuất hiện ra

Cúng-dường chư Phật ngự đạo-thọ.

Bửu-y vô-giá, xen hương-diệu

Bửu tràng-phan, lọng đều xinh đẹp

Vàng rồng làm hoa, ngọc làm màn

Tất cả đều từ trong tay hiện.

Bao nhiêu vật tốt ở mười-phương

Ðáng đem phụng-hiến đấng vô-thượng

Trong tay tất cả đều hiện đủ

Trước cây bồ-đề cúng chư Phật.

Tất cả kỹ-nhạc ở mười-phương

Chung, cổ, cầm, sắc đủ các loại

Ðồng tấu hòa nhã âm-thinh diệu

Ðều từ bàn tay xuất hiện ra.

Bao nhiêu tán tụng ở mười-phương

Ca ngợi thiệt-đức của chư Phật

Như vậy các thứ diệu ngôn-từ

Ðều từ bàn tay mà khai-diễn.

Bồ-Tát tay mặt phóng tịnh-quang

Trong quang rưới ra nước thơm sạch

Rưới khắp mười-phương các quốc-độ

Cúng dường tất cả Chiếu-Thế-Ðăng.

Lại phóng quang-minh diệu trang-nghiêm

Xuất-sanh vô-lượng hoa-sen báu

Hoa này hình sắc đều rất đẹp

Dùng đây cúng-dường lên chư Phật.

Lại phóng quang-minh hoa trang-nghiêm

Các thứ diệu-hoa họp làm trướng

Rải khắp cõi nước ở mười-phương

Cúng-dường tất cả đấng Ðại-Ðức.

Lại phóng quang-minh hương trang-nghiêm

Các thứ diệu-hương họp làm trướng,

Rải khắp cõi nước ở mười-phương

Cúng-dường tất cả đấng Ðại-Ðức.

Lại phóng quang-minh mạt-hương tốt

Các thứ mạt-hương họp làm trướng

Rải khăp cõi nước ở mười-phương

Cúng-dường tất cả đấng Ðại-Ðức.

Lại phóng quang-minh y trang-nghiêm

Các thứ y phục họp làm trướng

Rải khắp cõi nước ở mười-phương

Cúng-dường tất cả đấng Ðại-Ðức.

Lại phóng quang-minh bửu trang-nghiêm

Các thứ diệu-bửu họp làm trướng

Rải khắp cõi nước ở mười-phương

Cúng-dường tất cả đấng Ðại-Ðức.

Lại phóng quang liên-hoa trang-nghiêm

Các thứ liên-hoa họp làm trướng

Rải khắp cõi nước ở mười-phương

Cúng-dường tất cả đấng Ðại-Ðức.

Lại phóng quang anh-lạc trang-nghiêm

Các thứ chuỗi-ngọc họp làm trướng

Rải khắp cõi nước ở mười-phương

Cúng-dường tất cả đấng Ðại-Ðức.

Lại phóng quang-minh tràng trang-nghiêm

Bửu-tràng rực-rỡ đủ màu đẹp

Các loại vô-lượng đều rất tốt

Dùng dây trang-nghiêm các phật-độ.

Các thứ báu đẹp lọng trang-nghiêm

Những phan lụa đẹp treo rủ xuống

Lạc báu ma-ni, diễn phật-âm

Ðem đến kính-dâng cúng chư Phật.

Tay hiện đồ cúng bất-tư-nghị

Như vậy cúng-dường một Ðạo-Sư

Nơi tất cả Phật đều như vậy

Ðây là thần-lực của Ðại-Sĩ.

Bồ-Tát trụ trong môn tam-muội

Các thứ tự-tại nhiếp chúng-sanh

Ðều đem pháp công-đức đã làm

Vô-lượng phương-tiện để chỉ dạy.

Hoặc dùng môn cúng-dường Như-Lai

Hoặc dùng môn nhẫn-nhục bất-động

Hoặc dùng môn khổ-hạnh tinh-tấn

Hoặc dùng môn thiền-định tịch-tịnh,

Hoặc dùng môn trí-huệ quyết rõ

Hoặc dùng môn phương-tiện tu-hành

Hoặc dùng môn phạm-trụ, thần-thông

Hoặc dùng môn tứ-nhiếp lợi-ích,

Hoặc dùng môn phước-trí trang-nghiêm

Hoặc dùng môn nhơn-duyên, giải-thoát

Hoặc dùng môn căn, lực, chánh-đạo

Hoặc dùng môn Thinh-Văn giải-thoát,

Hoặc dùng môn Ðộc-Giác Thanh-tịnh

Hoặc dùng môn Ðại-Thừa tự-tại

Hoặc dùng môn Vô-Thường những khổ

Hoặc dùng môn vô-ngã vô-thọ,

Hoặc dùng môn bất-tịnh, ly-dục

Hoặc dùng môn diệt-tận tam-muội.

Tùy theo chúng-sanh bịnh chẳng đồng

Ðều dùng pháp-dược để đối-trị.

Tùy theo chúng-sanh tâm sở-thích

Ðều dùng phương-tiện khiến đầy đủ.

Tùy theo chúng-sanh hạnh sai-biệt

Ðều dùng chước khéo khiến thành tựu.

những tướng tam-muội thần-thông ấy

Tất cả trời người chẳng lường được.

Có diệu tam-muội tên tùy-lạc

Bồ-Tát trụ đây, khắp quan-sát

Tùy nghi thị-hiện độ chúng-sanh

Ðều khiến vui lòng theo chánh-pháp.

Trong thời-gian, nạn cơ-cẩn, tai

Ban cho thế-gian đồ cần thiết

Tùy chỗ họ muốn đều khiến đủ

Khắp vì chúng-sanh làm lợi-ích :

Hoặc cho những vật uống, ăn ngon

Y-phục, tư-trang, những vật tốt

Cả đến ngôi vua, đều xả được

Khiến kẻ ưa thí theo chánh-pháp.

Hoặc dùng tướng-hảo trang-nghiêm thân

Y-phục thượng-diệu, chuỗi ngọc báu

Tràng hoa nghiêm-sức, hương thoa thân

Oai-nghi đầy đủ, độ hàm thức.

Tất cả thế-gian chỗ ưa chuộng

Sắc tướng, dung-nhan, và y-phục

Tùy nghi hiện đủ, vui lòng họ

Khiến kẻ ưa sắc theo chánh-pháp.

Tiếng ca-lăng-tần-già mỹ diệu

Âm-thinh diệu Câu-chỉ-la thảy

Những thứ phạm-âm đều đầy đủ

Tùy lòng họ thích vì thuyết-pháp.

Tám vạn bốn ngàn các pháp-môn

Chư Phật dùng đây độ chúng-sanh

Bồ-Tát cũng theo pháp sai-biệt

Tùy nghi theo đời mà hóa độ.

Chúng-sanh khổ, lạc, lợi, suy thảy

Những việc thật hành của thế-gian

Ðều hay ứng hiện đồng với họ

Dùng đây phổ-độ các chúng-sanh.

Tất cả thế-gian những khổ hoạn

Sâu rộng không bờ như đại-hải

Ðồng sự với họ đều chịu được

Khiến họ lợi ích được an vui.

Có người chẳng biết pháp xuất ly

Chẳng cầu giải-thoát lìa ồn náo

Vì họ Bồ-Tát hiện thí xả

Thường ưa xuất-gia tâm tịch-tịnh.

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 33172)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(Xem: 6539)
Phật Đà Thập Đại Đệ Tử Tán - Hòa thượng Tuyên Hóa giảng thuật, Nguyễn Minh Tiến Việt dịch
(Xem: 11257)
Các tác phẩm của Thầy phần lớn được dịch từ Hán tạng, gồm giới kinh và các nguồn văn học Phật giáo Đại thừa với tư tưởng uyên thâm về triết họctâm lý học.
(Xem: 30395)
Đã phát khởi chí nguyện Đại thừa, lại kiên quyết thực hiện chí nguyện ấy, đó thực sự là cung cách hùng dũng của con sư tử đang vươn mình, và do đó phải được nhìn đến bằng cung cách của con voi chúa.
(Xem: 30429)
Vua và phu nhân gởi thơ cho Thắng Man, đại lược ca ngợi công đức vô lượng của Như Lai, rồi sai kẻ nội thị tên Chiên Đề La đem thư đến nước A Du Xà... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 7968)
Tất cả các nhà đạo học và thế học muốn thành tựu kết quả tốt đẹp trong cuộc đời, thì trước hết, họ phải trải qua quá trình kham nhẫn, nỗ lực, tu, học, rèn luyện tự thân, giúp đỡ, và đem lại lợi ích cho tha nhân.
(Xem: 12168)
Bảy Đức Thế Tôn quá khứ từ Thế Tôn Tỳ Bà Thi, Thế Tôn Thích Ca, và chư Thế Tôn vị lai đều chứng ngộ Vô Thượng Bồ Đề từ sự chứng ngộ sự thật Duyên khởi.
(Xem: 12240)
Trong các bản Kinh Pháp Cú, phổ biến nhất hiện nay là Kinh Pháp Cú Nam Truyền, tức là Kinh Pháp Cú dịch theo Tạng Pali.
(Xem: 11587)
Có lần Đức Phật sống tại Rajagaha (Vương Xá) trong Khu Rừng Tre gần Nơi Nuôi Những Con Sóc. Lúc bấy giờ, vị Bà La Môn tên là Akkosa Bharadvaja đã nghe người ta đồn đãi như sau:
(Xem: 12797)
Tôi nghe như vầy. Có lần Đức Phật, trong khi đi hoằng pháp ở nước Kosala nơi có một cộng đồng rất đông Tỳ Kheo, ngài đi vào một tỉnh nhỏ nơi cư trú của người Kalama
(Xem: 34740)
Quy Sơn Cảnh Sách Học Giải - Tác Giả: Thiền Sư Quy Sơn Linh Hựu; Thích Thiện Trí (Thánh Tri) Phỏng Việt Dịch và Viết Bài Học Giải
(Xem: 9836)
Kinh này khởi đầu bằng lời người Bà La Môn hỏi rằng làm thế nào người ta có thể tự thanh tịnh hóa khi nhìn thấy một vị Thượng nhân đã Thanh tịnh,
(Xem: 52259)
Nguyên xưa ngài Quán Nguyệt Pháp sư đem hai thời kinh khóa tụng: Mai đóng chung và chiều nhập chung lại làm một đại thể làm một tập lớn. - Chú giải: Ngài Quán Nguyệt; Dịch giả: HT Thích Khánh Anh
(Xem: 10731)
Tôi nghe như vậy: Một thời, đức Thế Tôn trú tại thành phố Śrāvastī (Xá-vệ), nơi rừng cây Jeta (Kì-đà), vườn của Ông Anāthapiṇḍada (Cấp-cô-độc),
(Xem: 10504)
Bài kinh này trong đoạn cuối (bài kệ 787), câu “không nắm giữ gì, cũng không bác bỏ gì” được Thanissaro Bhikkhu ghi chú rằng ...
(Xem: 10702)
Lúc bấy giờ, Bồ tát Đại sĩ Akṣayamatir[1] từ chỗ ngồ đứng dậy, vắt thượng y[2] qua một bên vai, chắp hai tay[3] hướng về đức Thế Tôn và thưa rằng:
(Xem: 10465)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào?
(Xem: 13072)
Đại ý bài kinh này Đức Phật dạy chúng đệ tử không nên truy tìm quá khứ, không nên ước vọng tương lai vì quá khứ đã đoạn tận.
(Xem: 16260)
Evaṃ me sutaṃ, “như vầy tôi nghe”, là lời Ngài Ananda bắt đầu mỗi bài kinh mà có lẽ không Phật tử nào là không biết.
(Xem: 21828)
Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538), thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm.
(Xem: 9612)
Phật dạy giới này áp dụng chung cho tất cả các Phật tử tại gia, không phân biệt Phật tử này thuộc thành phần hay đẳng cấp xã hội nào.
(Xem: 7114)
Sa-môn Thích Đàm Cảnh dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, vào thời Tiêu-Tề (479-502). Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn, tại Canada, năm 2018.
(Xem: 10389)
Đức Phật A Di Đà tự thân có ánh sáng vô lượng, chiếu khắp cả mười phương mà không có vật gì có thể ngăn che. Vì vậy nên Phật A Di Đà có nghĩa là Vô Lượng Quang Phật.
(Xem: 12736)
Nguyên tác Hán văn: Tì-kheo Linh Diệu, tông Thiên Thai soạn - Dịch sang tiếng Việt: Thích Thọ Phước
(Xem: 12774)
Ngài Buddhaghosa sanh ra và lớn lên nước Magadha, thuộc Trung Ấn Độ, vào thế kỷ thứ V trong ngôi làng Ghosa, gần địa danh nơi đức Phật thành đạo Bodhigaya
(Xem: 16222)
Nghiên Cứu Về Kinh A Hàm (Ãgama, Sanscrist)
(Xem: 16526)
Ai nói như sau, này các Tỷ-kheo: "Người này làm nghiệp như thế nào, như thế nào, người ấy cảm thọ như vậy, như vậy".
(Xem: 13845)
Đây là những điều tôi nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Cấp Cô Độc trong vườn cây Kỳ Đà ở thành Vương Xá.
(Xem: 16566)
Vào thời Đức Thích-ca-mâu-ni, không có hệ thống chữ viết được phổ biếnẤn Độ. Do đó, những thuyết giảng của Ngài được ghi nhớ và ...
(Xem: 12108)
"Lại nữa, lúc bấy giờ Mahāmati thưa rằng: “Bạch Thế Tôn, ngài đã từng dạy rằng: từ lúc Như Lai chứng nghiệm giác ngộ cho đến...
(Xem: 13793)
Kinh Địa Tạng là một trong các kinh Đại thừa được phổ biến rộng rãi trong quần chúng Việt Nam từ hơn nửa thế kỷ nay song song với các kinh Kim Cương, Di Đà, Phổ Môn...
(Xem: 14308)
Nguyên tác: Tôn giả Thế Thân (Acarya Vasubandhu) - Hán dịch: Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng; Việt dịch: Tỳ khưu Tâm Hạnh
(Xem: 9190)
No. 1613 - Nguyên tác: Tôn giả An Huệ; Dịch Hán: Tam Tạng Pháp sư Địa-bà-ha-la; Dịch Việt: Tâm Hạnh
(Xem: 11736)
Duy thức nhị thập luận, do bồ tát Thế Thân soạn, ngài Huyền trang dịch vào đời Đường... được thu vào Đại chính tạng, tập 31, No.1590.
(Xem: 11253)
Bồ-tát Trần Na tạo luận. Tam tạng Pháp sư Huyền Trang phụng chiếu dịch. Việt dịch: Quảng Minh
(Xem: 16290)
Nghe như vầy, một thời Đức Phật ở nước Xá Vệ ở vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc cùng chúng đại Tỳ Kheo năm trăm vị. Bấy giờ các thầy Tỳ Kheo...
(Xem: 14329)
No. 699; Hán dịch: Đời Đại Đường, Trung Thiên Trúc, Tam tạng Pháp sư Địa bà ha la, Đường dịch là Nhật Chiếu
(Xem: 16189)
Đức Phật Thích-Ca Mưu-Ni, bắt đầu chuyển pháp-luân, độ cho năm vị Tỳ-Khưu là Tôn-giả Kiều-Trần-Như v.v... Sau cùng, Ngài thuyết pháp độ cho ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 12689)
Kinh Phạm Võng nằm trong Đại Chánh Tạng, tập 24, ký hiệu 1484, gọi đủ là Phạm võng kinh Lô xá na Phật thuyết bồ tát tâm địa giới phẩm đệ thập
(Xem: 12073)
Phật thuyết-giảng Kinh Phạm-Võng để dạy về giới-luật, và các pháp cao-siêu vượt thoát được sáu mươi hai kiến-chấp vốn là các tà-kiến đã...
(Xem: 11792)
Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi, tại Jetavana, vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Độc). Ở đây,,,
(Xem: 15654)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434; Dịch Phạn - Hán: Tam Tạng Cát-ca-dạ, Dịch Hán - Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ; Hiệu đính: HT Thích Như Điển
(Xem: 11505)
Đời Đường, Thận Thủy Sa Môn Huyền Giác Soạn; Thánh Tri dịch nghĩa Việt và viết bài học giải...
(Xem: 14014)
Phật giáo được khai sáng ở Ấn-độ vào năm 589 trước kỉ nguyên tây lịch (năm đức Thích Ca Mâu Ni thành đạo), và đã tồn tại liên tục, phát triển không ngừng trên ...
(Xem: 12002)
Trong truyền thống Phật giáo Bắc truyền, Dược Sư là một bản kinh thường được trì tụng nhằm mục đích giải trừ tật bệnh, cầu nguyện bình an...
(Xem: 12621)
Thích-ca là phiên âm của tiếng Phạn. Phiên âm Hán Việt là Năng Nhân. Tức là họ của đấng hóa Phật ở cõi Ta-bà...
(Xem: 14987)
Kinh chuyển Pháp luân là bài thuyết Pháp đầu tiên của Đức Phật Thích-ca sau khi Ngài đã đắc đạo.
(Xem: 11954)
Ba Ngàn Oai Nghi Của Vị Đại Tỳ Kheo - Được xếp vào tập T24 - Kinh số 1470 - Tổng cộng kinh này có 2 quyển
(Xem: 13123)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 14525)
Satipatthana Sutta là một bản kinh quan trọng làm nền tảng cho một phép thiền định chủ yếu trong Phật giáo là Vipassana...
(Xem: 20679)
Kinh Tứ Thập Nhị Chương là một bài Kinh được truyền bá khá rộng rải ở các Tồng Lâm Tự Viện của Trung QuốcViệt Nam từ xưa đến nay.
(Xem: 13222)
Bản dịch này được trích ra từ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh Vol. 48, No. 2010. Bởi vì lời dạy của Tổ Tăng Xán quá sâu sắc, súc tích, và bao hàm trong 584 chữ Hán,
(Xem: 10941)
Dịch từ Phạn sang Tạng: Kluḥi dbaṅ-po, Lhaḥi zla-ba; Dịch Tạng sang Việt: Phước Nguyên
(Xem: 20692)
Trí Phật là trí Kim – cang, Thân Phật là thân Kim – Sắc, cõi Phật là cõi Hoàng – kim, lời Phật tất nhiên là lời vàng.
(Xem: 14354)
Bấy giờ Hòa Thượng Vakkali nhìn thấy Đức Phật đang đi đến từ xa, và ông đã cố gắng ngồi dậy.
(Xem: 20367)
Xin dâng hết lên Tam Bảo chứng minh và xin Quý Ngài cũng như Quý Vị tùy nghi xử dụng in ấn tiếp tục hay trì tụng cũng như cho dịch ra những ngôn ngữ khác...
(Xem: 17648)
Niệm Phật Tâm Muội do HT Hư Vân soạn, Sa môn Hiển Chơn dịch; Tọa Thiền Dụng Tâm Ký do Viên Minh Quốc Sư soạn, HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 14010)
Khi Bồ-tát Quán Tự Tại hành sâu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, ngài soi thấy năm uẩn đều KHÔNG, liền qua hết thảy khổ ách.
(Xem: 31854)
Viết ra các bài Phật học thường thức này, chúng tôi không có tham vọng giới thiệu toàn bộ Phật pháp và chỉ cốt giúp cho các bạn sơ cơ hiểu được một cách đúng đắn, đạo lý năm thừa trong Phật giáo mà thôi.
(Xem: 12013)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, Kinh văn số 1675. Tác giả: Long Thọ Bồ Tát; Sa Môn Sắc Tử dịch Phạn sang Hán; HT Thích Như Điển dịch Việt
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant