Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Trang 2

11 Tháng Ba 201100:00(Xem: 18280)
Trang 2

KINH HOA NGHIÊM 
Hán Dịch: Ðại-Sư Thật-Xoa-Nan-Ðà - Việt Dịch: HT Thích Trí Tịnh
Phật Học Viện quốc Tế Xuất Bản PL 2527 - 1983

PHẨM HIỀN THỦ
THỨ MƯỜI HAI

Nhà là chốn tham ái, ràng buộc

Muốn khiến chúng-sanh, đều khỏi lìa

Nên hiện xuất-gia được giải-thoát

Với các dục lạc không ưa thích.

Bồ-Tát hiện làm mười công-hạnh

Cũng làm tất cả pháp đại-nhơn

Làm hạnh chư Tiên đều không sót

Vì muốn chúng-sanh được lợi ích.

Nếu có chúng-sanh thọ vô-lượng

Phiền-não vi-tế thích đầy đủ

Trong đó Bồ-Tát được tự-tại

Hiện thọ các khổ : già, bịnh, chết.

Hoặc kẻ tham-dục, sân, ngu-si

Lửa mạnh phiền-não luôn hừng cháy

Bồ-Tát thị-hiện già, bịnh, chết

Khiến chúng-sanh đó đều điều-phục.

Như-Lai thập-lực, vô-sở-úy

Cùng với mười tám pháp bất-cộng

Tất cả vô-lượng các công-đức

Ðều đem thị-hiện độ chúng-sanh.

Thọ-ký, giáo-hóa và thần-túc

Ðều là sức tự-tại của Phật

Chư Ðại-Sĩ kia đều thị-hiện

Hay khiến chúng-sanh đều điều-phục.

Bồ-Tát đem các môn phương-tiện

Tùy thuận thế-pháp độ chúng-sanh

Ví như liên-hoa chẳng dính nước

Tại thế như vậy, khiến người tin.

Là vua văn tài, học uyên-bác

Ca vũ, luận bàn, người đều thích

Tất cả kỹ-thuật trong thế-gian

Như nhà ảo-thuật đều hiện đủ.

Hoặc làm trưởng-giả, chủ trong ấp

Hoặc làm thương mãi, người buôn bán

Hoặc làm quốc-vương cùng quan lớn

Hoặc làm lương-y, nhà hùng-biện.

Hoặc làm cây to giữa cánh đồng

Hoặc làm thuốc hay, những kho báu

Hoặc làm bửu-châu như-ý-vương

Hoặc đem chánh-đạo dạy chúng-sanh.

Nếu thấy thế-giới mới thành lập

Chúng-sanh chưa có vật cần dùng

Bấy giờ Bồ-Tát làm công-thợ

Vì họ bầy ra các nghề nghiệp.

Chẳng làm vật bức-não chúng-sanh

Chỉ nói chuyện thế-gian lợi-ích

Các luận : chú-thuật, dược-thảo thảy

Tất cả như vậy đều nói rành.

Thắng-hạnh của tất cả tiên-nhơn

Trời người, mọi loài đều tín-ngưỡng

Những pháp khổ-hạnh khó làm đó

Bồ-Tát tùy-nghi đều làm được.

Hoặc làm ngoại-đạo người xuất-gia

Hoặc ở núi rừng tự cần khổ

Hoặc để mình trần, không y-phục

Mà làm sư-trưởng của chúng kia.

Hoặc hiện những hạnh tà-mạng thảy

Tập làm phi-pháp cho là thắng

Hoặc hiện oai-nghi, làm phạm-chí

Ở trong chúng kia làm thượng-thủ.

Hoặc chịu ngũ-nhiệt, phơi dưới nắng

Hoặc giữ giới bò, chó và nai

Hoặc mặc áo rách, phụng-thờ lửa

Vì độ chúng kia, làm sư-trưởng.

Hoặc hiện yết-kiến các thiên-miếu

Hoặc lại hiện vào nước sông Hằng

Ăn củ, trái thảy, đều hiện làm

Nơi đó thường suy pháp tối-thắng.

Hoặc hiện ngồi xổm, hoặc co chơn

Hoặc nằm cỏ gai, hoặc trên tro

Hoặc nằm trên chày, cầu xuất-ly

Mà ở chúng kia làm sư-thủ.

Như vậy các phái, các ngoại đạo

Quan-sát ý-giải cùng đồng-sự

Hiện làm : khổ-hạnh đời chẳng kham

Khiến họ xem thấy đều điều-phục.

Chúng-sanh mê-lầm bẩm tà-giáo

Trụ nơi ác-kiến, thọ những khổ

Vì họ, phương-tiện, nói diệu-pháp

Ðều khiến được hiểu lý chơn-thật.

Hoặc theo chú-ngữ nói tứ-đế

Hoặc giỏi mật-ngữ nói tứ-đế

Hoặc dùng tiếng người nói tứ-đế

Hoặc Trời mật-ngữ nói tứ-đế.

Phân-biệt văn-tự, nói tứ-đế

Quyết-định nghĩa-lý, nói tứ-đế

Khéo phá nơi người, nói tứ-đế

Chẳng bị dao-động, nói tứ-đế,

Hoặc tiếng bát-bộ, nói tứ-đế

Hoặc tất cả lời, nói tứ-đế

Tùy ngôn-âm thế-gian hiểu được

Diễn thuyết tứ-đế, khiến giải-thoát.

Tất cả bao nhiêu các phật-tử

Ðều nói như vậy đủ tất cả

Biết cảnh-giới lời bất-tư-nghị

Ðây là thuyết-pháp tam-muội-lực.

Có thắng tam-muội tên an-lạc

Hay khắp cứu độ các quần sanh

Phóng đại quang-minh bất-tư-nghị

Khiến ai được thấy đều điều phục.

Quang-minh đã phóng tên thiện-hiện

Nếu có ai gặp quang-minh này

Tất được lợi-ích chẳng luống uổng

Nhơn đây được thành trí vô-thượng,

Bồ-Tát trước hiện nơi chư Phật

Hiện Pháp, hiện Tăng, hiện chánh-đạo

Cũng hiện tháp Phật và hình tượng

Vì thế nên thành quang-minh này.

Lại phóng quang-minh tên chiếu-diệu

Chói lấn tất cả sáng chư Thiên

Bao nhiêu ám-chướng đều tiêu-trừ

Khắp vì chúng-sanh làm lợi-ích.

Quang này giác-ngộ tất cả chúng

Khiến cầm đèn sáng cúng-dường Phật

Do dùng đèn sáng cúng-dường Phật

Ðược thành thế-gian Vô-Thượng-Ðăng.

Thắp những đèn dầu và đèn tô

Cũng thắp các thứ đuốc sáng tỏ

Những ngọn nến báu thơm đẹp nhất

Dùng đây cúng Phật được quang này.

Lại phóng quang-minh tên tế-độ

Quang này giác ngộ tất cả chúng

Khiến họ phát tâm đại thệ-nguyện

Ðộ thoát quần-sanh trong dục-hải

Thời hay vượt qua bốn dòng nước

Bước đến thành vô-ưu giải-thoát.

Nơi những đường đi ngang sông lớn

Xây cất cầu đò và thuyền bè

Quở rầy hữu-vi khen tịch-tịnh

Do đây được thành quang-minh này.

Lại phóng quang-minh tên diệt-ái

Quang này giác-ngộ tất cả chúng

Khiến họ xa lìa cảnh ngũ-dục

Gẩm suy diệu-vị pháp giải-thoát.

Nếu hay bỏ lìa cảnh ngũ-dục

Gẩm suy diệu-vị pháp giải-thoát

Thời hay dùng Phật pháp cam-lồ

Rưới tắt thế-gian những khát-ái.

Bố-thí ao, giếng, và khe suối

Chuyên cầu bồ-đề đạo vô-thượng

Quở trách ngũ-dục, khen thiền-định

Do đây được thành quang-minh này.

Lại phóng quang-minh tên hoan-hỷ

Quang này giác-ngộ tất cả chúng

Khiến họ ái-mộ Phật bồ-đề

Phát tâm nguyện chứng vô-sư-đạo.

Tạo lập Như-Lai tượng đại-bi

Tướng hảo trang-nghiêm, ngự liên-tòa

Luôn khen những công-đức tối-thắng

Do đây được thành quang-minh này.

Lại phóng quang-minh tên ái-nhạo

Quang này giác-ngộ tất cả chúng

Khiến lòng họ mến kính chư Phật

Mến kính tôn-pháp mến kính tăng;

Nếu tâm thường kính mến chư Phật

Kính mến Pháp và kính mến Tăng

Thời ở trong chúng-hội Như-Lai

Thành được pháp-nhẫn sâu vô-thượng.

Khai-ngộ chúng-sanh số vô-lượng

Khiến họ niệm Phật, Pháp, Tăng-Bửu

Và dạy phát tâm tự-tại công-đức

Do đây được thành quang-minh này.

Lại phóng quang-minh tên phước-tụ

Quang này giác-ngộ tất cả chúng

Khiến họ thật hành nhiều bố-thí

Dùng đây nguyện cầu đạo vô-thượng.

Lập hội đại bố-thí vô-hạn

Ai đến cầu xin đều thỏa mãn

Chẳng để lòng họ còn thấy thiếu

Do đây được thành quang-minh này.

Lại phóng quang-minh tên cụ-trí

Quang này giác-ngộ tất cả chúng

Khiến nơi một pháp, trong một niệm

Ðều hiểu vô-lượng các pháp-môn.

Ví các chúng-sanh phân-biệt pháp

Nhẫn đến quyết-liễu nghĩa chơn-thật

Khéo nói pháp nghĩa không thiếu bớt

Do đây được thành quang-minh này.

Lại phóng quang-minh tên huệ-đăng

Quang này giác-ngộ tất cả chúng

Khiến biết chúng-sanh tánh không-tịch

Tất cả các pháp vô-sử-hữu.

Diễn-thuyết các pháp không, vô-chủ

Như huyễn, như diệm, trăng dưới nước

Cũng như giấc mơ, cùng bóng tượng

Do đây được thành quang-minh này.

Phóng quang-minh tên pháp-tự-tại

Quang này giác-ngộ tất cả chúng

Khiến được vô-tận đà-la-ni

Tổng-trì tất cả các phật-pháp,

Cung-kính cúng-dường người trì-pháp

Cung-cấp hầu-hạ chư thánh-hiền

Ðem chánh-pháp thí cho chúng-sanh

Do đây được thành quang-minh này.

Lại phóng quang-minh tên năng-xả

Quang này giác-ngộ kẻ xan-tham

Khiến biết tài vật là vô-thường

Thường thích bố-thí lòng không nhiễm.

Lòng keo-kiết khó điều, được điều

Biết của như mộng, như mây nổI

Thêm lớn tâm bố-thí thanh-tịnh

Do đây được thành quang-minh này.

Lại phóng quang-minh tên trừ-nhiệt

Quang này giác-ngộ kẻ phạm giới

Khiến họ thọ-trì giới thanh-tịnh

Phát tâm nguyện chứng đạo vô-sư.

Khuyên đắc chúng-sanh thọ-trì giới

Mười nghiệp đạo lành đều thanh-tịnh

Lại khiến phát hướng bồ-đề tâm

Do đây được thành quang-minh này.

Lại phóng quang-minh tên nhẫn-nghiêm

Quang này giác-ngộ kẻ sân hận

Khiến họ lìa sân, trừ ngã-mạn

Thường thích pháp nhu-hòa nhẫn-nhục.

Chúng-sanh bạo ác khó nhẫn được

Vì bồ-đề nên tâm chẳng động

Thường thích chánh-pháp-ngợi đức nhẫn-nhục

Do đây được thành quang-minh này.

Lại phóng quang-minh tên dũng-mãnh

Quang này giác-ngộ kẻ giải-đãi

Khiến họ thường đối với Tam-Bảo

Cung-kính cúng-dường không nhàm mỏi.

Nếu họ thường đối với Tam-Bảo

Cung-kính cúng-dường không nhàm mỏi

Thời hay vượt khỏi cảnh tứ-ma

Mau thành bực bồ-đề vô-thượng.

Khuyến hóa chúng-sanh khiến tinh-tấn

Thường siêng cúng-dường ngôi Tam-Bảo

Lúc pháp sắp diệt chuyên ủng-hộ

Do đây được thành quang-minh này.

Lại phóng quang-minh tên tịch-tịnh

Quang này giác-ngộ kẻ loạn tâm

Khiến họ xa lìa tham, sân, si

Tâm chẳng dao động được chánh-định,

Xa lìa tất cả ác-trí-thức

Luận đàm vô-nghĩa, hạnh tạp nhiễm

Khen ngợi thiền-định, hạnh tịch-tịnh

Do đây được thành quang-minh này.

Lại phóng quang-minh tên huệ-nghiêm

Quang này giác-ngộ kẻ ngu mê

Khiến họ chứng lý, hiểu duyên khởi

Lục căn, trí-huệ đều thông đạt,

Nếu hay chứng lý, hiểu duyên-khởi

Lục-căn, trí-huệ đều thông đạt

Thời được pháp tam-muội nhựt-đăng

Trí-huệ sáng tỏ thành phật-quả,

Của ngoài, trong thân đều hay xả

Vì đạo bồ-đề cầu chánh-pháp

Nghe xong, chuyên cần vì chúng nói

Do đây được thành quang-minh này.

Lại phóng quang-minh tên phật-huệ

Quang này giác-ngộ các hàm-thức

Khiến thấy vô-lượng vô-biên Phật

Ðều ngự trên bửu-tọa liên-hoa.

Khen Phật oai-đức và giải-thoát

Ngợi Phật tự-tại vô-hạn-lượng

Hiển thị phật-lực và thần-thông

Do đây được thành quang-minh này.

Lại phóng quang-minh tên vô-úy

Quang này chiếu đến kẻ sợ hãi

Quỷ-mị bắt giữ, những độc hại

Tất cả đều khiến mau trừ diệt,

Hay ban vô-úy cho chúng-sanh

Gặp kẻ não-hại đều khuyên ngăn

Chẩn-tế kẻ cô cùng ách-nạn

Do đây được thành quang-minh này.

Lại phóng quang-minh tên an-ổn

Quang này chiếu đến người tật bịnh

Khiến trừ tất cả sự khổ đau

Ðều được sự vui trong chánh-định,

Ban cho thuốc hay cứu các bịnh

Diệu-bửu sống lâu, hương thoa thân

Tô, dầu, sữa, mật làm thức ăn

Do đây được thành quang-minh này.

Lại phóng quang-minh tên kiến-Phật

Quang này giác-ngộ người sắp chết

Khiến, tùy nhớ tưởng, thấy Như-Lai

Mạng chung được sanh cõi nước Phật,

Thấy kẻ lâm-chung khuyên niệm Phật

Lại chỉ tượng Phật bảo nhìn ngắm

Khiến đối với Phật rất kính ngưỡng

Do đây được thành quang-minh này.

Lại phóng quang-minh tên lạc-pháp

Quang này giác-ngộ tất cả chúng

Khiến nơi chánh-pháp luôn mến thích

Lóng nghe, diễn thuyết và biên chép,

Lúc pháp sắp diệt hay diễn thuyết

Khiến người cầu pháp ý thỏa-mãn

Mến thích chánh-pháp siêng tu tập

Do đây được thành quang-minh này.

Lại phóng quang-minh tên diệu-âm

Quang này khai-ngộ chư Bồ-Tát

Hay khiến các tiếng trong ba cõi

Người đều nghe là tiếng của Phật,

Dùng âm-thinh lớn ca ngợi Phật

Bố-thí lạc, linh các âm nhạc

Khiến kháp thế-gian nghe tiếng Phật

Do đây được thành quang-minh này.

Phóng quang-minh tên thí cam-lộ

Quang này khai-ngộ tất cả chúng

Khiến bỏ tất cả hạnh phóng-dật

Tu hành đầy đủ các công-đức,

Nói pháp hữu-vi chẳng an-ổn

Vô-lượng khổ-não đều đầy khắp

Hằng thích ca ngợi vui tịch-diệt

Do đây được thành quang-minh này.

Lại phóng quang-minh tên tối-thắng

Quang này khai-ngộ tất cả chúng

Khiến ở chỗ Phật khắp lóng nghe

Giới, định, trí-huệ pháp tăng thượng,

Thường thích ca ngợi tất cả Phật

Thắng-giới, thắng-định, thắng trí-huệ

Ðó là vì cầu đạo vô-thượng

Do đây được thành quang-minh này.

Lại phóng quang-minh tên Bửu-nghiêm

Quang này giác-ngộ tất cả chúng

Khiến được bửu-tạng vô-cùng tận

Dùng đây cúng-dường chư Như-Lai,

Ðem các loại bửu-châu thượng-diệu

Dâng lên chư Phật và tháp Phật

Cũng khiến ban cho kẻ nghèo thiếu

Do đây được thành quang-minh này.

Lại phóng quang-minh tên hương-nghiêm

Quang này giác-ngộ tất cả chúng

Khiến người nghe pháp lòng vui đẹp

Quyết-định sẽ thành công-đức Phật,

Hương tốt quý giá dùng thoa đất

Cúng-dường tất cả đấng Tói-Tôn

Cũng dùng xây tháp và tượng Phật

Do đây được thành quang-minh này.

Lại phóng quang-minh tên tạp trang-nghiêm

Bửu-tràng, phan lọng số vô-lượng

Thắp hương, rải hoa, tấu âm-nhạc

Thành ấp trong ngoài đều khắp cả,

Ðem những kỹ-nhạc vi-diệu ấy

Cùng những hương, hoa, phan, lọng đẹp

Các thứ trang-nghiêm cúng-dường Phật

Do đây được thành quang-minh này.

Lại phóng quang-minh tên nghiêm-khiết

Khiến mặt đại-địa đều bằng phẳng

Trang-nghiêm tháp Phật và chỗ ấy

Do đây được thành quang-minh này.

Lại phóng quang-minh tên đại-vân

Hay khởi mây thơm hay nước thơm

Nước thơm rưới tháp và đình viện

Do đây được thành quang-minh này.

Lại phóng quang-minh tên nghiêm-cụ

Khiến người thiếu áo được thượng-phục

Vật tốt nghiêm thân đem bố-thí

Do đây được thành quang-minh này.

Lại phóng quang-minh tên thượng-vị

Hay khiến kẻ đói được mỹ-thực

Các thứ ăn ngon đem bố-thí

Do đây được thành quang-minh này.

Lại phóng quang-minh tên đại-tài

Khiến kẻ nghèo cùng được của báu

Ðem vật vô-tận cúng Tam-Bảo

Do đây được thành quang-minh này.

Lại phóng quang-minh tên nhãn-thanh-tịnh

Hay khiến kẻ mù được ngó thấy

Ðem đèn cúng Phật và tháp Phật

Do đây được thành quang-minh này.

Lại phóng quang-minh tên nhĩ-thanh-tịnh

Hay khiến kẻ điếc được nghe rõ

Trổi nhạc cúng Phật và tháp Phật

Do đây được thành quang-minh này.

Lại phóng quang-minh tên tỹ-thanh-tịnh

Xưa chưa nghe hương, đều được nghe

Ðem hương cúng Phật và tháp Phật

Do đây được thành quang-minh này.

Lại phóng quang-minh tên thiệt-thanh-tịnh

Hay dùng tiếng tốt ca ngợi Phật

Trừ hẳn lời nói thô và ác

Do đây được thành quang-minh này.

Lại phóng quang-minh tên thân-thanh-tịnh

Kể năm căn thiếu khiến hoàn cụ

Ðem thân lễ Phật và tháp Phật

Do đây được thành quang-minh này.

Lại phóng quang-minh tên ý-thanh-tịnh

Khiến kẻ quên-lãng được chánh-niệm

Tu-hành tam-muội đều tự-tại

Do đây được thành quang-minh này.

Lại phóng quang-minh tên sắc-thanh-tịnh

Khiến thấy Phật-sắc bất-tư-nghị

Ðem những diệu-sắc trang-nghiêm tháp

Do đây được thành quang-minh này.

Lại phóng quang-minh tên thinh-thanh-tịnh

Khiến biết thinh-tánh vốn không tịch

Quán thinh duyên-khởi, như tiếng vang

Do đây được thành quang-minh ấy.

Lại phóng quang-minh tên hương-thanh-tịnh

Khiến vật hôi nhơ đều thơm sạch

Nước thơm rửa tháp, cây bồ-đề

Do đây được thành quang-minh ấy.

Lại phóng quang-minh tên vị-thanh-tịnh

Hay trừ tất cả độc trong vị

Hằng cúng Phật, Tăng cùng cha mẹ

Do đây được thành quang-minh này.

Lại phóng quang-minh tên xúc-thanh-tịnh

Hay khiến thô-nhám đều dịu mềm

Ðao, mâu, kiếm, kích trên rơi xuống

Ðều khiến biến làm tràng hoa đẹp,

Bởi xưa từng ở giữa đường sá

Thoa hương, rải hoa, trải y-phục

Rước đưa chư Phật đi trên đó

Vì thế nay được quang-minh này.

Lại phóng quang-minh tên pháp-thanh-tịnh

Hay khiến tất cả những chưn lông

Ðều diễn diệu-pháp bất-tư-nghị

Ai nghe pháp này đều vui hiểu,

Nhơn duyên sanh ra, vốn vô-sanh

Pháp-thân của Phật, chẳng phải thân

Pháp-tánh, thường-trụ như hư-không

Do thuyết nghĩa trên được quang ấy.

Những môn quang-minh như đã thuật

Hằng-hà sa-số vô-hạn-lượng

Ðều từ chưn lông Ðại-Tiên phóng

Mỗi quang công-dụng đều sai-biệt.

Như một chưn lông phóng quang-minh

Vô-lượng vô-số như hằng-sa

Tất cả chưn lông đều như vậy

Ðây là Ðại-Tiên tam-muội-lực.

Như bổn-hạnh xưa, được quang-minh

Tùy ai, túc duyên, đồng tu-hành

Nay phóng quang-minh nên như vậy

Ðây là Ðại-Tiên trí tự-tại.

Thuở xưa đồng tự-tại nơi phước-nghiệp

Và người mến thích hay tùy-hỉ

Thấy kia thật hành cũng vui theo

Nay nơi quang này đều được thấy.

Nếu ai tự tu các phước-nghiệp

Cúng-dường chư Phật vô-lượng-số

Nơi công-đức Phật thường nguyện cầu

Ðược quang-minh này làm giác-ngộ.

Như kẻ sanh-manh chẳng thấy trời

Chẳng phải mặt trời không mọc lên

Những người mắt tỏ đều thấy rõ

Riêng theo phận mình làm công việc,

Quang-minh Bồ-Tát cũng như vậy

Người có trí-huệ đều thấy cả

Phàm-phu tà-tín, kẻ mê-si

Nơi quang-minh này không thấy được.

Ma-ni cung-điện và xe kiệu

Báu đẹp hương thơm dùng thoa sáng

Người có phước-đức tự nhiên đủ

Người không phước-đức chẳng ở được.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12466)
Ấn là chiếc ấn hay khuôn dấu. Pháp có nghĩa là chánh pháp hay toàn bộ hệ thống tư tưởng trong lời dạy của Đức Phật được ghi lại trong ba tạng thánh điển. Pháp ấn có nghĩa là khuôn dấu của chánh pháp
(Xem: 10333)
Đây là Kinh thứ 16 của Nghĩa Túc Kinh và cũng có chủ đề “Mâu Ni”: Một vị mâu ni thấy như thế nào và hành xử như thế nào khi đứng trước tình trạng bạo động và sợ hãi?
(Xem: 12316)
Các nhà học giả Tây phương cũng như Đông phương đều công nhận hệ thống Bát-nhã là cổng chính yếu dẫn vào Đại thừa.
(Xem: 11612)
Mỗi khi nói về vấn đề niềm tin trong đạo Phật, chúng ta thường hay dẫn chứng những lời Phật dạy trong kinh Kalama.
(Xem: 28768)
Kinh Quán Thế Âm bồ tát cứu khổ nằm trong Vạn tự chánh tục tạng kinh, ta quen gọi là tạng chữ Vạn, quyển1, số 34. Kinh này là một trong những kinh Ấn Độ soạn thuật, thuộc Phương đẳng bộ.
(Xem: 12017)
Trong Kinh Kim Cang có câu, “Nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai.” Nghĩa là, nếu thấy các tướng đều xa lìa tướng, tức là thấy Phật.
(Xem: 12975)
Kinh Kim Cương (hay Kim Cang), tên đầy đủ là Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Đa (Vajracchedika-prajñaparamita), là một trong những bài kinh quan trọng nhất của Phật giáo Đại Thừa
(Xem: 11424)
Trong sách Nhật Tụng Thiền Môn, chúng ta có Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 12339)
Kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật là một bộ kinh hoằng dương rất thịnh, phổ biến rất rộng trong các kinh điển đại thừa.
(Xem: 17415)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 52971)
Phương pháp sám hối Từ bi đạo tràng Mục Liên Sám Pháp - Nghi Thức Tụng Niệm
(Xem: 35453)
Từ bi Đạo Tràng, bốn chữ ấy là danh hiệu của pháp sám hối nầy... Thích Viên Giác dịch
(Xem: 21351)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 10661)
Năm 1984 khi bắt đầu lạy kinh Ngũ Bách Danh bằng âm Hán Việt thuở ấy, tôi không để ý mấy về ngữ nghĩa. Vì lúc đó lạy chỉ để lạy theo lời nguyện của mình.
(Xem: 19203)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 12379)
Một trong những bộ kinh quan trọng nhất của hệ tư tưởng Phật giáo Bắc truyền, không những có ảnh hưởng to lớn đối với tín đồ Phật giáo mà còn lôi cuốn được sự quan tâm của giới nghiên cứu, học giả Đông Tây, là Kinh Diệu Pháp Liên Hoa.
(Xem: 25975)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 13290)
Tác phẩm này có thể là hành trang cần thiết cho những ai muốn thực hành Bồ Tát giới theo đúng lời Phật dạy. Vì vậy, tôi trân trọng giới thiệu đến Tăng, Ni, Phật tử.
(Xem: 14342)
Nguyên tác Phạn ngữ Abhidharmakośa của Thế Thân, Bản dịch Hán A-tỳ-đạt-ma-câu-xá luận của Huyền Trang - Việt dịch: Đạo Sinh
(Xem: 16056)
Vào khoảng thời gian Phật ngự tại nước Tỳ Xá Ly, gần đến giờ thọ trai Ngài mới vào thành khất thực. Bấy giờ trong thành Tỳ Xá Ly có một chàng ly xa tên là Tỳ La Tứ Na (Dõng Quân).
(Xem: 13705)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp, Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ, Ngã kim kiến văn đắc thọ trì, Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa.
(Xem: 16810)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ Ngã kim kiến văn đắc thọ trì Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa
(Xem: 17523)
Vào khoảng 150 năm sau khi Bụt nhập Niết bàn, đạo Bụt chia thành nhiều bộ phái, kéo dài mấy trăm năm. Thời kỳ này gọi là thời kỳ Đạo Bụt Bộ Phái.
(Xem: 13103)
Nói đến kinh Pháp Hoa, các vị danh Tăng đều hết lòng ca ngợi. Riêng tôi, từ sơ phát tâm đã có nhân duyên đặc biệt đối với bộ kinh này.
(Xem: 12506)
A-hàm có thể đẩy tan những dục vọng phiền não đang thiêu đốt chúng ta và nuôi lớn giới thân tuệ mạng thánh hiền của chúng ta...
(Xem: 11576)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni sanh ở Ấn Độ, nên thuyết pháp đều dùng Phạn ngữ, Kinh điển do người sau kiết tập cũng bằng Phạn văn. Những bổn Kinh Phật bằng Trung văn đều từ Phạn văn mà dịch lại.
(Xem: 11570)
Có rất nhiều công trình thâm cứu có tính cách học giả về tác phẩm nầy dưới dạng Anh ngữ, Nhật ngữ và Hoa ngữ liên quan đến đời sống, khái niệm nồng cốt của tư tưởng Trí Khải Đại Sư trong mối tương quan với Phật giáo Trung Quán
(Xem: 14469)
Luật học hay giới luật học là môn học thuộc về hành môn, nhằm nghiên cứuthực hành về giới luật do đức Phật chế định cho các đệ tử
(Xem: 20389)
Quyển sách “Giáo Trình Phật Học” quý độc giả đang cầm trên tay là được biên dịch ra tiếng Việt từ quyển “Buddhism Course” của tác giả Chan Khoon San.
(Xem: 18930)
Tam Tạng Thánh Điển là bộ sưu tập Văn Chương Pali lớn trong đó tàng chứa toàn bộ Giáo Pháp của Đức Phật Gotama đã tuyên thuyết trong suốt bốn mươi lăm năm từ lúc ngài Giác Ngộ đến khi nhập Niết Bàn.
(Xem: 19513)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18590)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 12155)
Kinh này dịch từ kinh Pháp Ấn của tạng Hán (kinh 104 của tạng kinh Đại Chính) do thầy Thi Hộ dịch vào đầu thế kỷ thứ mười.
(Xem: 12279)
Đại Chánh Tân Tu số 0158 - 8 Quyển: Hán dịch: Mất tên người dịch - Phụ vào dịch phẩm đời Tần; Việt dịch: Linh-Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
(Xem: 13819)
Là Bộ Luật trong hệ thống Luật-Tạng do Bộ Phái Nhất Thiết Hữu thuộc hệ Thượng Tọa Bộ Ấn Độ kiết tập...Đại Tạng No. 1451
(Xem: 14947)
“Triệu Luận” là một bộ luận Phật Giáo do Tăng Triệu, vị học giả Bát nhã học, bậc cao tăng nổi tiếng đời Hậu Tần Trung Quốc, chủ yếu xiển thuật giáo nghĩa Bát nhã Phật Giáo.
(Xem: 15017)
Bộ chú giải này là một trong năm bộ luận giải thích về luật trong Luật bộ thuộc Hán dịch Bắc truyền Đại tạng kinh lưu hành tại Trung quốc và được đưa vào Đại chính tân tu Đại tạng kinh N.1462, tập 24 do Nhật bản biên tập.
(Xem: 13957)
Dịch theo bản in lần thứ nhất của Hoa Tạng Phật Giáo Đồ Thư Quán, Đài Bắc, tháng 2, năm Dân Quốc 81 - 1992
(Xem: 15496)
Hữu Bộ là một trường phái Phật Giáo quan trọng. Nếu không kể Thượng Toạ Bộ (Theravada, Sthaviravada) thì Hữu Bộbộ phái Phật Giáo duy nhất có được một hệ thống giáo lý gần như nguyên thuỷ...
(Xem: 11370)
Tôi nghe như vầy vào khoảng thời gian đức Phật ngự tại tinh xá Kỳ Hoàn thuộc nước Xá Vệ có ngàn vị tỳ theo tăng và mười ngàn đại Bồ tát theo nghe pháp.
(Xem: 17129)
Biện chứng Phá mê Trừ khổ - Prajnaparamita Hrdaya Sutra (Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm kinh); Thi Vũ dịch và chú giải
(Xem: 14932)
Là 2 bản Kinh: Kinh Phật Thuyết A Di Đà No. 366 và Kinh Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ No. 367
(Xem: 20159)
Bát-nhã tâm kinh (prajñāpāramitāhṛdayasūtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát-nhã ba-la-mật (prajñā-pāramitā). Trong bản Hán dịch của Huyền Trang, kinh gồm 262 chữ.
(Xem: 14589)
Như thật tôi nghe một thuở nọ Phật cùng các Tỳ kheo vân tập tại vườn cây của Trưởng giả Cấp cô ĐộcThái tử Kỳ Đà ở nước Xá Vệ.
(Xem: 13803)
Kinh này dịch từ kinh số 301 trong bộ Tạp A Hàm của tạng Hán. Tạp A Hàm là kinh số 99 của tạng kinh Đại Chính.
(Xem: 11673)
Đây là những điều tôi đã được nghe: Hồi ấy, có những vị thượng tọa khất sĩ cùng cư trú tại vườn Lộc Uyển ở Isipatana thành Vārānasi. Đức Thế tôn vừa mới nhập diệt không lâu.
(Xem: 15020)
Kinh Mục Kiền Liên hỏi năm trăm tội khinh trọng trong Giới Luật; Mất tên người dịch sang Hán văn, Thích Nguyên Lộc dịch Việt
(Xem: 12966)
Hán dịch: Hậu Hán, Tam tạng An Thế Cao người nước An Tức; Việt dịch: Tì-kheo Thích Nguyên Chơn.
(Xem: 22830)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434;, dịch Phạn sang Hán: Nguyên Ngụy Thiên Trúc Tam Tạng Cát-ca-dạ; Dịch Hán sang Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ...
(Xem: 14529)
Người giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không. Giảng tại: Tịnh Tông Học Hội Singapore. Người dịch: Vọng Tây cư sĩ. Biên tập: Phật tử Diệu Hương, Phật tử Diệu Hiền
(Xem: 11613)
Kinh này là kinh thứ mười trong Nghĩa Túc Kinh, nhưng lại là kinh thứ mười một trong Atthaka Vagga, kinh tương đương trong tạng Pali.
(Xem: 13142)
Có thể xem đây là "tập sách đầu giường" hay "đôi tay tỳ-kheo"; rất cần thiết cho mỗi vị Tỳ-kheo mang theo bên mình để mỗi ngày mở ra học tụng cho nhuần luật nghi căn bản.
(Xem: 16847)
Không Sát Sanh là giới thứ nhất trong Ngũ Giới. Chúng ta đang sống trong một thế giới bất toàn, mạnh hiếp yếu, lớn hiếp nhỏ, giết chóc tràn lan khắp nơi.
(Xem: 18310)
Kể từ khi đạo Phật truyền vào nước ta, hàng Phật tử tại gia trong bất cứ thời đại nào và hoàn cảnh nào cũng đã có những đóng góp thiết thực trong sứ mạng hộ trìhoằng dương chánh pháp.
(Xem: 11922)
Tạng Luật (Vinayapiṭaka) thuộc về Tam Tạng (Tipiṭaka) là những lời dạy và quy định của đức Phật về các vấn đềliên quan đến cuộc sống...
(Xem: 11480)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, Trưởng lão Māhakassapa (Ma-ha Ca-diếp) triệu tập 500 vị Tỳ-khưu A-la-hán để trùng tụng Pháp và Luật.
(Xem: 15816)
Bồ Tát Long Thọ - Cưu Ma La Thập Hán dịch; Chân Hiền Tâm Việt dịch & Giải thích; Xuất Bản 2007
(Xem: 12846)
Ngài Long Thọ, tác giả Trung Quán Luận và những kinh sách khác, được chư thiền đức xưng tán là Đệ nhị Thích Ca, đã vạch ra thời kỳ chuyển pháp lần thứ hai.
(Xem: 18873)
Vị Tăng, lấy Phật làm tính, lấy Như-Lai làm nhà, lấy Pháp làm thân, lấy Tuệ làm mệnh, lấy Thiền-duyệt làm thức ăn.
(Xem: 18379)
Trong Vi Diệu Pháp cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant