Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Trang 3

11 Tháng Ba 201100:00(Xem: 20548)
Trang 3

KINH HOA NGHIÊM 
Hán Dịch: Ðại-Sư Thật-Xoa-Nan-Ðà - Việt Dịch: HT Thích Trí Tịnh
Phật Học Viện quốc Tế Xuất Bản PL 2527 - 1983

PHẨM HIỀN THỦ
THỨ MƯỜI HAI

Bồ-Tát quang-minh cũng như vậy

Người có trí sâu đều chiếu đến

Tà-tín, hiểu-kém, kẻ phàm ngu

Chẳng thể thấy được quang-minh ấy.

Nếu ai nghe quang này sai biệt

Hay sanh lòng tin sâu, thanh-tịnh

Dứt hẳn tất cả các lưới nghi

Mau thành tràng công-đức vô-thượng.

Có thắng tam-muội hay xuất-hiện

Quyến-thuộc trang-nghiêm đều tự-tại

Tất cả mười-phương các quốc-độ

Phật-tử chúng-hội không sánh kịp.

Có diệu liên-hoa, quang trang-nghiêm

Lượng bằng tam-thiên đại-thiên giới

Thân ngài đoan-tọa khắp liên-hoa

Ðây là tam-muội thần-thông-lực.

Lại có mười cõi vi-trần-số

Liên-hoa xinh đẹp bao vòng quanh

Chúng Phật-tử ngồi trên hoa đó

Trụ nơi tam-muội oai-thần-lực.

Ðời trước thành-tựu nhơn-duyên lành

Tu-hành đầy đủ Phật công-đức

Những chúng-sanh này quanh Bồ-Tát

Cùng nhau chấp tay nhìn không chán.

Như mặt nguyệt giữa các tinh-tú

Bồ-Tát trong chúng cũng như thế

Công-hạnh Bồ-Tát pháp như vậy

Vào nơi tam-muội oai-thần-lực.

Như sự thị-hiện ở một phương

Các chúng phật-tử cùng vây quanh

Trong tất cả phương đều như vậy

Trụ nơi tam-muội oai-thần-lực.

Có thắng tam-muội tên phương-võng

Trụ đây Bồ-Tát rộng khai-thị

Trong tất cả phương khắp hiện thân

Hoặc hiện nhập-định hoặc xuất-định,

Hoặc ở phương Ðông nhập chánh-định

Rồi ở phương Tây nhập chánh-định

Rồi ở phương Ðông mà xuất-định,

Hoặc ở phương khác nhập chánh-định

Rồi ở phương khác mà xuất-định,

Nhập xuất như vậy khắp mười-phương

Ðây gọi Bồ-Tát tam-muội-lực.

Cùng tận phương Ðông các quốc-độ

Chư Phật Như-Lai vô-lượng-số

Ðều hiện trước Phật thân-cận cả

Trụ nơi tam-muội tịch bất-động,

Nhưng nơi phương Tây các thế-giới

Chỗ của tất cả chư Phật ngự

Ðều hiện từ nơi tam-muội xuất

Sắm sửa vô-lượng đồ cúng-dường.

Cùng tận phương Tây các quốc-độ

Chư Phật Như-Lai vô-lượng-số

Ðều hiện trước Phật thân-cận cả

Trụ nơi tam-muội tịch bất-động,

Những nơi phương Ðông các thế-giới

Chỗ của tất cả chư Phật ngự

Ðều hiện từ nơi tam-muội xuất

Sắm sửa vô-lượng đồ cúng-dường.

Như vậy mười-phương các thế-giới

Bồ-Tát vào khắp không bỏ sót

Hoặc nhập tam-muội tịch bất-động

Hoặc hiện cung-kính cúng-dường Phật.

Ở trong nhãn-căn nhập chánh-định

Nơi trong sắc-trần từ định xuất,

Thị-hiện sắc-tánh bất-tư-nghị

Tất cả trời người chẳng biết được;

Ở trong sắc-trần nhập chánh-định

Nơi nhãn xuất-định, tâm chẳng loạn

Thuyết nhãn, vô-sanh và vô-khởi

Tánh : không, tịch-diệt và vô-tác.

Ở trong nhĩ-căn nhập chánh-định

Nơi trong thinh-trần từ định xuất

Phân biệt tất cả tiếng ngữ ngôn

Chư Thiên, thế-nhơn chẳng biết được.

Ở trong thinh-trần nhập chánh-định

Nơi nhĩ xuất định, tâm chẳng loạn

Thuyết nhĩ, vô-sanh và vô-khởi

Tánh không, tịch-diệt và vô-tác.

Ở trong tĩ-căn nhập chánh-định

Nơi trong hương-trần từ định xuất

Khắp được tất cả thượng-diệu hương

Chư Thiên, thế-nhơn chẳng biết được.

Ở trong hương-trầm nhập chánh-định

Nơi tỉ, vô-sanh và vô-khởi

Tánh : không, tịch-diệt và vô-tác.

Ở trong thiệt-căn nhập chánh-định

Nơi trong vị-trần từ định xuất

Khắp được tất cả những thượng-vị

Chư Thiên, thế-nhơn chẳng biết được.

Ở trong vị-trần nhập chánh-định

Trong thiệt xuất-định, tâm chẳng loạn

Nói thiệt, vô-sanh và vô-khởi

Tánh : không, tịch-diệt và vô-tác.

Ở trong thân-căn nhập chánh-định

Nơi trong xúc-trần từ định xuất

Khéo hay phân-biệt tất cả xúc

Chư Thiên, thế-nhơn chẳng biết được.

Ở trong xúc-trần nhập chánh-định

Trong thân xuất-định, tâm chẳng loạn

Thuyết thân, vô-sanh và vô-khởi

Tánh : không, tịch-diệt và vô-tác.

Ở trong ý-căn nhập chánh-định

Nơi trong pháp-trần từ định xuất

Phân biệt tất cả các pháp-tướng

Chư Thiên, thế-nhơn chẳng biết được.

Ở trong pháp-trần nhập chánh-định

Nơi ý xuất định, tâm chẳng loạn

Thuyết ý, vô-sanh và vô-khởi

Tánh : không, tịch-diệt và vô-tác.

Trong thân đồng-tử nhập chánh-định

Trong thân tráng-niên từ định xuất

Trong thân tráng-niên nhập chánh-định

Trong thân lão-niên từ định xuất,

Trong thân lão-niên nhập chánh-định

Trong thân thiện-nữ từ định xuất,

Trong thân thiện-nữ nhập chánh-định

Trong thân thiện-nam từ định xuất,

Trong thân thiện-nam nhập chánh-định

Thân tỳ-kheo-ni từ định xuất

Thân tỳ-kheo-ni nhập chánh-định

Trong thân tỳ-kheo từ định xuất,

Trong thân tỳ-kheo nhập chánh-định

Thân học vô-học từ định xuất,

Thân học vô-học nhập chánh-định

Thân Bích-Chi-Phật từ định xuất,

Thân Bích-Chi-Phật nhập chánh-định

Hiện thân Như-Lai từ định xuất,

Nơi thân Như-Lai nhập chánh-định

Trong thân chư Thiên từ định xuất,

Trong thân chư Thiên nhập chánh-định

Trong thân đại-long từ định xuất,

Trong thân đại-long nhập chánh-định

Trong thân Dạ-xoa từ định xuất,

Trong thân Dạ-xoa nhập chánh-định

Trong thân quỷ-thần từ định xuất,

Trong thân quỷ-thần nhập chánh-định

Trong một chưn lông từ định xuất,

Trong một chưn lông nhập chánh-định

Tất cả chưn lông từ định xuất,

Tất cả chưn lông nhập chánh-định

Trên đầu một lông từ định xuất,

Trên đầu một lông nhập chánh-định

Trong một vi-trần từ định xuất,

Trong một vi-trần nhập chánh-định

Tất cả vi-trần từ định xuất,

Trong tất cả trần nhập chánh-định

Trong đất kim-cang từ định xuất,

Trong đất kim-cang nhập chánh-định

Trên cây ma-ni từ định xuất,

Trên cây ma-ni nhập chánh-định

Trong quang-minh Phật từ định xuất,

Trong quang-minh Phật nhập chánh-định

Ở trong sông biển từ định xuất,

Ở trong sông biển nhập chánh-định

Ở trong lửa lớn từ định xuất,

Ở trong lửa lớn nhập chánh-định

Nơi gió xuất định tâm chẳng loạn,

Ở trong phong-đại nhập chánh-định

Ở trong địa-đại từ định xuất,

Ở trong địa-đại nhập chánh-định

Nơi Thiên-cung-điện từ định xuất,

Nơi Thiên-cung-điện nhập chánh-định

Hư-không xd tâm chẳng loạn,

Ðây gọi bực vô-lượng công-đức

Tam-muội tự-tại khó nghĩ bàn.

Mười-phương tất cả chư Như-Lai

Trong vô-lượng kiếp nói chẳng hết,

Tất cả Như-Lai đều cùng nói

Chúng-sanh nghiệp báo khó nghĩ bàn.

Chư long biến-hóa, Phật tự-tại

Bồ-Tát thần-lực cũng khó nghĩ

Muốn dùng ví-dụ để hiển bày

Trọn không có dụ để dụ được;

Nhưng những người trí-huệ thông-đạt

Nhơn thí-dụ để hiểu nghĩa đó.

Hàng Thinh-Văn trụ bát giải-thoát

Những sự biến hiện đều tự-tại :

Có thể một thân hiện nhiều thân

Lại hiệp nhiều thân thành một thân;

Ở giữa không gian nhập hỏa-định

Ði, đứng, nằm, ngồi giữa hư-không

Trên thân phun nước dưới tuôn lửa

Trên thân tuôn lửa dưới tuôn nước

Như thế đều nơi trong một niệm

Các môn tự-tại vô-lượng-biên;

Thinh-Văn chẳng đủ đại từ-bi

Chẳng vì chúng-sanh cầu phật-đạo

Còn hiện được thần-thông vô-lượng

Huống là Phật Bồ-Tát đại-lực !

Như mặt nhựt, nguyệt trên hư-không

Bóng tượng cùng khắp cả mười-phương

Trong nước ao hồ, đầm, chậu, chén

Sông ngòi, biển lớn đều hiện cả.

Bồ-Tát sắc tượng cũng như vậy

Hiện khắp mười-phương bất-tư-nghị;

Ðều do tam-muội sức tự-tại

Chỉ có Như-Lai là chứng biết.

Như trong nước trong, bóng vũ-khí

Các loại sai khác không xen tạp

Kiếm kích, cung tên, loại rất nhiều

Mão giáp xe cộ chẳng phải một,

Tùy kia bao nhiêu tướng sai khác

Nước trong hiện rõ tất cả bóng

Nhưng nước vốn tự không phân biệt

Bồ-Tát tam-muội cũng như vậy.

Trong biển có thần tên Thiện-Âm

Tiếng thần, thuận hết loài trong biển

Bao nhiêu ngôn ngữ đều hiện rõ

Khiến tất cả chúng đều vui đẹp.

Hải-thần có đủ tham, sân, si

Mà còn khéo hiểu tất cả tiếng

Huống là tổng-trì tự-tại-lực

Mà chẳng khiến được chúng vui mừng !

Có một phụ-nữ tên Biện-Tài

Cha mẹ cầu trời mà sanh nàng

Có ai lìa ác, thích chơn-thiệt

Vào trong thân nàng sanh diệu-biện.

Nàng ấy có tham dục, sân, si

Còn cho người theo có biện tài,

Huống là Bồ-Tát đủ trí-huệ

Mà chẳng cho chúng được lợi-ích !

Như nhà aỏ-thuật biết ảo-pháp

Hiện được nhiều loại cùng nhiều vật

Giây lát hiện làm ngày tháng năm

Thành ấp giàu có rất an vui,

Thuật-gia có đủ tham-sân-si

Còn biến hóa được vui thế-gian

Huống là thiền-định, sức giải-thoát

Mà chẳng khiến được chúng vui mừng !

Lúc trời cùng tu-la chiến đãu

Tu-la thua trận đồng chạy trốn

Vũ-khí, xe cộ và quân lữ

Ðồng thời trốn mất không kiếm được,

Tu-la có đủ tham-sân-si

Còn hay biến-hóa bất-tư-nghị

Huống bực thần-thông vô-úy-lực

Biến hiện tự-tại đâu lường được !

Thích-Ðề-Hoàn-Nhơn có tượng-vương

Lúc nó biết Thiên-Ðế muốn đi

Tự hóa đủ ba mươi hai đầu

Mỗi đầu đều đủ sáu ngà trắng,

Trên mỗi ngà đều có bảy ao

Mỗi ao đầy nước, thơm, trong sạch

Trong mỗi ao nước thơm trong ấy

Có bảy hoa sen rất xinh đẹp,

Trên mỗi hoa sen xinh đẹp ấy

Ðều có bảy ngọc-nữ cõi trời

giỏi nghề đờn ca trổi âm-nhạc

Cùng với Thiên-Ðế đồng vui chơi,

Voi ấy hoặc lại bỏ bổn hình

Tự hóa thân nó như chư Thiên

Oai nghi đi đứng như trời thiệt

Nó có sức thần-biến như vậy.

Tượng-vương có đủ tham-sân-si

Còn hiện thần-thông được như vậy

Huống bực đầy đủ trí phương tiện

Mà nơi tam-muội chẳng tự-tại.

Như A-tu-la biến thân hình

Chưn đạp đáy biển kim-cang-tế

Nước biển tột sâu ngập nửa thân

Ðầu cao ngang đỉnh núi Tu-Di;

Tu-la có đủ tham-sân-si

Còn hiện được thần-thông to lớn

Huống bực phục-ma Chiếu-Thế-Ðăng

Mà không tự-tại oai-thần-lực !

Trời cùng Tu-la lúc đánh nhau

Thiên-Ðế thần-lực bất-tư-nghị

Tùy theo số chúng để cùng đấu,

Hiện thân bằng số để cùng đấu,

Các A-tu-la tự nghĩ rằng :

Thích-Ðề-Hoàn-Nhơn đến đánh ta

Tất sẽ bắt tinh-tấn trói tay chơn

Do đây chúng nó đều lo lắng,

Ðế-Thích hiện thân có ngàn mắt

Tay cầm kim-cang tuôn lửa ngọn

Mặc giáp cầm gậy rất oai-nghiêm

Tu-la trông thấy đều sợ chạy.

Thiên-Ðế chỉ do chút phước-đức

Còn dẹp phá được oán-địch lớn

Huống bực đại-bi cứu tất cả

Ðủ công-đức lại chẳng tự-tại !

Trong trời Ðao-Lợi có thiên-cổ

Từ nghiệp báo trời mà cảm ra

Lúc biết chư Thiên ham phóng-dật

Trên không tự-nhiên vang tiếng này :

'Tất cả ngũ-dục đều vô-thường

'Như bọt nước kia, tánh hư giả

'Các cõi như mơ, như ánh nắng

'Như trăng trong nước, như mây nổi,

'Phóng-dật là oán, là khổ não

'Là đường sanh-tử, chẳng mát-mẻ

'Nếu ai ham say việc phóng-dật

'Lọt vào miệng cá lớn sanh-tử;

'Những cội gốc khổ của thế-gian

'Tất cả thánh-nhơn đều nhàm sợ,

'Ngũ-dục hoại diệt các công-đức

'Các ngài phải thích pháp chơn-thật.

Tam-thập tam-thiên nghe tiếng trống

Cùng dắt nhau lên Thiện-Pháp-Ðường,

Thiên-Ðế vì họ giảng diệu-pháp

Ðều khiến thuận đạo, trừ tham ái.

Tiếng trống vô-hình không thấy được

Còn hay lợi-ích chúng chư Thiên

Huống bực Ðại-Từ hiện sắc-thân

Mà chẳng tế-độ loài hàm-thức !

Trời cùng Tu-la lúc đánh nhau

Chư Thiên phước-đức thù-thắng-lực

Thiên-cổ vang tiếng bảo chư Thiên :

Các ngài chẳng nên có kinh sợ !

Chư Thiên được nghe tiếng trống này

Ðều hết lo sợ thêm thế-lực

Lúc đó Tu-la lòng sợ khiếp

Bao nhiêu binh tướng kéo chạy lui.

Cam-lộ diệu định, như thiên-cổ :

Hằng vang tiếng hàng ma, tịch-tịnh

Ðại-bi xót thương cứu tất cả

Khiến khắp chúng-sanh dứt não-phiền.

Thiên-Ðế ứng khắp các thiên-nữ

Chín mươi hai na-do-tha thân

Khiến chư thiên-nữ đều tự bảo

Thiên-Vương chỉ cùng ta riêng vui.

Như khắp ứng với chư thiên-nữ

Trong Thiện-Pháp-Ðường cũng như vậy

Hay trong một niệm hiện thần-thông

Ðều đến trước mặtthuyết pháp.

Thiên-Ðế có đủ tham, sân, si

Hay khiến quyến-thuộc đều hoan-hỷ

Huống bực phương-tiện đại-thần-thông

Mà chẳng khiến được chúng vui-đẹp !

Tha-Hóa-Tự-Tại đại Thiên-Vương

Ở trong cõi dục được tự-tại

Dùng hoặc-nghiệp khổ, làm rọ lưới

Cột trói tất cả hạng phàm-phu.

Thiên-Vương kia có tham, sân, si

Với chúng-sanh còn được tự-tại

Huống bực đủ cả mười trí-lực

Mà chẳng khiến được chúng đồng hành !

Ðại-thiên thế-giới Ðại-Phạm-Vương

Tất cả chỗ ở của Phạm-thiên

Ðều hay hiện thân ngồi ở trước

Diễn thông tiếng phạm-âm vi-diệu.

Ðại-Phạm-Vương kia ở thế-gian

Thiền-định, thần-thông còn như ý

Huống đấng xuất thế-gian vô-thượng

Mà thiền giải-thoát chẳng tự-tại !

Ma-Hê-Thủ-La trí tự-tại

Ðại-hải long-vương lúc làm mưa

Có thể phân-biệt đếm từng giọt

trong một niệm biết rõ-ràng.

Bực vô-lượng kiếp siêng tu học

Ðược trí-giác bồ-đề vô-thượng

Há lại chẳng được trong một niệm

Biết khắp tất cả tâm chúng-sanh !

Chúng-sanh nghiệp-báo bất-tư-nghị

Dùng sức đại-phong, khởi thế-gian

Biển rộng, núi to, thiên cung-điện

Các báu, quang-minh, muôn vật loại,

Cũng hay nổi mây cùng mưa lớn

Cũng hay làm tan những vân-khí

Cũng hay thành-thục loài ngũ-cốc

Cũng hay an-lạc các chúng-sanh;

Ðại-phong chẳng học ba-la-mật

Cũng chẳng học Phật các công-đức

Còn làm thành việc bất-tư-nghị

Huống bực đầy đủ những hạnh-nguyện

Nam-tử nữ-nhơn các thứ tiếng

Âm-thinh của tất cả chim muông

Tiếng biển gào, sông chảy, sấm nổ

Ðều hay vừa đẹp ý chúng-sanh.

Huống bực biết tiếng, tánh như vang

Ðến được biện-tài diệu vô-ngại

Ứng khắp chúng-sanh mà thuyết pháp

Mà chẳng khiến được chúng-sanh mứng !

Biển có pháp hi-kỳ đặc biệt

Bình-đẳng ấn tượng tất cả cảnh

Bửu-vật, thế-gian, và muôn dòng

Dung nạp tất cả không chống đối.

Vô-tận thiền-định, bực giải-thoát

Là bình-đẳng ấn cũng như vậy

Phước-đức, trí-huệ, các diệu-hạnh

Khắp tu tất cả không nhàm đủ.

Ðại-hải Long-vương lúc du-hí

Nơi nơi chốn chốn được tự-tại

Nổi mây trùm khắp cả bốn châu

Mây đó đủ những màu trang-nghiêm,

Ðệ-lục Tha-Hóa-Tự-Tại thiên

Nơi đó màu mây như chơn-kim,

Mây trời Hóa-Lạc màu xích-châu,

Mây trời Ðâu-Suất màu sương tuyết,

Mây trời Dạ-Ma màu lưu-ly,

Mây trời Ðao-Lợi màu mã-não,

Trời Tứ-Vương-Thiên màu pha-lê,

Trên mặt Ðại-Hải màu kim-cang,

Cõi Khẩn-Na-La màu diệu-hương,

Chỗ ở chư Long màu liên-hoa,

Chỗ ở Dạ-Xoa màu bạch-nga,

Trong A-Tu-La màu sơn-thạch,

Châu Uất-Ðơn-Việt màu vàng lửa,

Trong Diêm-Phù-Ðề màu thanh-bửu,

Hai châu kia màu tạp trang-nghiêm,

Tùy chúng sở-thích mà ứng đó.

Và lại Tha-Hóa-Tự-Tại thiên

Trong mây chớp sáng như nhựt-quang,

Trên trời Hóa-Lạc như nguyệt-quang,

Trên Ðâu-Suất thiên vàng diêm-phù,

Trên Dạ-Ma thiên màu kha-tuyết,

Trời Ðao-Lợi sáng màu lửa vàng,

Trên Tứ-Vương-thiên màu các báu,

Trong Ðại-Hải kia màu xích-châu,

Chỗ Khẩn-na-la màu lưu-ly,

Chỗ Long-Vương ở màu bửu-tạng,

Chỗ Dạ-xoa ở màu pha-lê,

Trong A-tu-la màu mã-não,

Châu Uất-Ðơn-Việt màu hỏa-châu,

Trong Diêm-Phù-Ðề màu đế thanh,

Nơi hai châu kia tạp trang-nghiêm

Như màu của mây chớp cũng vậy.

Tha-Hóa sấm nổ như phạm-âm,

Hóa-Lạc Thiên như tiếng đại-cổ,

Ðâu-Suất Thiên như tiếng xướng chánh-pháp,

Dạ-Ma Thiên như tiếng thiên-nữ,

Nơi trên trời tam-thập-tam kia

Như âm-thinh của Khẩn-na-la,

Nơi cõi Tứ-Vương thiên hộ thế

Như tiếng của thần Càn-thác-bà,

Trong biển như tiếng hai núi chạm,

Trong Khẩn-na-la tiếng tiêu địch,

Trong thành Long-Vương tiếng tần-già,

Chỗ Dạ-xoa ở tiếng Long-nữ,

Nơi A-Tu-La tiếng trống trời,

Ở trong nhơn-loại tiếng hải-triều.

Tha-Hóa-Tự-Tại mưa diệu-hương

Các thứ tạp hoa dùng trang-nghiêm

Hóa-Lạc-thiên mưa hoa đa-la

Mạn-đà-la hoa và rưới hương,

Trên Ðâu-Suất thiên mưa ma-ni,

Ðầy đủ các thứ bửu trang-nghiêm,

Bửu-châu trong tóc như nguyệt-quang

Y-phục thượng-diệu màu chơn-kim,

Trời Dạ-Ma mưa tràng phan lọng

Tràng-hoa, hương thoa đồ nghiêm-sức

Y thượng-diệu màu xích chơn-châu

Và cùng các thứ kỹ nhạc tốt,

Ðạo-Lợi thiên mưa châu như-ý

Hương kiên-hắc trầm-thủy, chiên-đàn

Uất-kim, kê-la, đa-ma thảy

Hoa đẹp nước thơm xen nhau rưới,

Trong thành Trí-Vương mưa thức ngon

Ðủ sắc, hương, vị thêm sức khỏe

Cũng mưa vô-lượng các diệu-bửu

Tất cả đều do Long-vương làm.

Và lại nơi trong đại-hải kia

Mưa tuôn chẳng dứt như trục xe

Lại mưa vô-tận tạng đại-bửu

Cũng mưa các thứ đồ trang-nghiêm,

Xứ Khẩn-na-la mưa anh-lạc

Y-phục màu liên-hoa và bửu

Hương mạt-lợi và bà-sư-ca

Các thứ âm-nhạc đều đầy-đủ,

Trong thành chư Long mưa xích-châu,

Thành Dạ-xoa mưa ma-ni quang,

Trong A-Tu-La mưa dao gậy

Dẹp trừ tất cả những oán địch,

Châu Uất-Ðơn-Việt mưa anh-lạc

Cũng mưa vô-lượng hoa thượng-diệu,

Phất-Bà, Cù-Gia hai châu kia

Ðều mưa các món đồ trang-nghiêm,

Diêm-Phù-Ðề mưa nước trong sạch

Thấm nhuần mọi nơi thường phải thời

Nuôi lớn cây hoa quả và thuốc

Thành thục tất cả những lúa mạ.

Như vậy vô-lượng diệu trang-nghiêm

Các thứ mây, chớp và sấm, mưa,

Long-Vương tự-tại đều làm được

Mà thân chẳng động, chẳng phân-biệt.

Long-Vương ở trong biển thế-gian

Còn hay hiện được sức nan-tư

Huống bực vào biển pháp công-đức

Mà chẳng hiện được đại thần-biến !

Môn giải-thoát của chư Bồ-Tát

Tất cả ví-dụ không lệ được

Nay tôi tạm dùng các ví-dụ

Lược nói Bồ-Tát tự-tại-lực.

Trí-huệ đệ-nhứt, huệ quảng-đại,

Trí-huệ chơn-thiệt, huệ vô-biên,

Thắng-huệ và dùng huệ thù-thắng,

Pháp môn như vậy nay đã nói.

Pháp này hi-hữu rất kỳ-đặc

Nếu người nghe xong lãnh thọ được

Hay tin, hay thọ, hay khen nói

Việc làm như vậy rất là khó.

Tất cả phàm-phu ở thế-gian

Người tin pháp này rất là khó

Nếu ai siêng tự-tại phước thanh-tịnh

Do nhơn lành xưa mới tin được.

Quần-sanh trong tất cả thế-giới

Ít ai muốn cầu Thanh-Văn thừa

Người cầu Ðộc-Giác lại càng ít

Người hướng Ðại-Thừa rất khó gặp.

Người hướng Ðại-Thừa còn là dễ

Tin được pháp này lại khó hơn

Huống lại trì tụng vì người nói

Ðúng pháp tu-hành hiểu chơn thật.

Hoặc người đem Ðại-thiên thế-giới

Ðầu đội một kiếp thân chẳng động

Việc người này làm chưa là khó

Người tin pháp này mới là khó.

Hoặc người tay bưng mười quốc-độ

Ðứng giữa không-gian trọn mười kiếp

Việc người này làm chưa là khó

Tin được pháp này mới là khó.

Nơi mười cõi vi-trần số chúng

Cho vật sở-thích trọn một kiếp

Phước-đức người này chưa là thắng

Người tin pháp này mới tối-thắng.

Nơi mười cõi vi-trần số Phật

Ðều kính cúng thờ trọn một kiếp

Nếu tụng trì được phẩm kinh này

Phước này tối-thắng hơn người trước.

Lúc Hiền-Thủ Bồ-Tát nói kệ này rồi, thập phương thế-giới chấn-động sáu cách, cung ma ẩn khuất, ác đạo thôi dứt. Thập phương chư Phật đều hiện ra trước đồng đưa tay hữu xoa đảnh ngài và đồng tiếng khen : 'Lành thay ! Ông khéo nói pháp này. Chúng tinh-tấn tất cả đều tùy-hỷ'.

**********************

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 15662)
Luận Văn Tổng Quát Về Đại Thừa do HT. Thích Trí Quang dịch giải
(Xem: 10973)
Nguyên tánh chân nhưlặng lẽsáng suốt không có gì gọi là chúng sanh (ngã), vũ trụ (pháp)...
(Xem: 53435)
Mông Sơn Thí Thực là một nghi thức đã được sử dụng rất phổ cập trong các ngôi Già lam thuộc hệ phái Phật giáo Bắc tông. Có ba loại nghi thức Mông Sơn: Đại Mông Sơn, Trung Mông Sơn và Tiểu Mông Sơn.
(Xem: 12869)
Bồ-tát Mã Minh tạo luận, Tam tạng pháp sư Chân Đế dịch Hán. HT Thích Trí Quang dịch giải Việt
(Xem: 16387)
Các phương thuốc của thế giới này, đa dạng và nhiều vô kể, thế nhưng chẳng có một phương thuốc nào có thể sánh với Đạo Pháp.
(Xem: 15257)
Tạng Luật được hình thành từ những điều luật được đặt ra để chỉnh đốn đạo đức tác phong của chúng đệ tử Đức Phật...
(Xem: 19047)
"Chỉ vì đại sự nhơn duyên duy nhấtĐức Phật xuất hiện thế gian, đó là muốn mọi người, mọi chúng sanh đều thành Phật đồng như Đức Phật".
(Xem: 19811)
Tại Na-lan-Đà có một phái tu khổ hạnh, vị đứng đầu là Ni-kiền Thân-Tử, ông có cả nghìn đệ-tử, và có người tôn xưng ông là bậc Thánh...
(Xem: 15416)
Được HT Thích Tuệ Sỹ dịch theo bản Sanskrit, do Nhà xuất bản Phương Đông ấn hành năm Quý Mùi.
(Xem: 15235)
Tiếng Phạn “Sa Di”, ở đây dịch là Tức Từ, ý nói: Dứt ác, hành điều từ, dứt nhiễm ô thế giantừ bi cứu giúp chúng sanh. Còn dịch là Cần Sách, hoặc dịch là Cầu Tịch.
(Xem: 15057)
“Sau khi ta diệt độ, nên tôn trọng, kính quý Ba La Đề Mộc Xoa (Giới) như tối tăm gặp ánh sáng, như nghèo khó được của báu."
(Xem: 20179)
Đức Phật dạy rằng, người nào sống không giới luật, tuy ở gần ta mà cũng như cách xa ta muôn dặm; người nào sống có giới luật, tuy ở xa ta muôn dặm mà cũng như ở cạnh bên ta.
(Xem: 23718)
Vào dịp lễ Vu-lan Thắng hội, Phật tử có tục lệ cúng thí người chết. Dưới đây Tập san trích dịch đoạn kinh có liên hệ đến ý nghĩa cúng thí này.
(Xem: 15347)
Trẫm từng nói: Phật pháp chia ra Đại thừa, Tiểu thừa là việc thuộc về bên tiếp dẫn. Kỳ thật mỗi bước Tiểu thừa đều là Đại thừa, mỗi pháp Đại thừa chẳng lìa Tiểu thừa.
(Xem: 12946)
Tất cả nam nữthế gian giàu sang hay nghèo hèn, chịu khổ vô cùng hoặc hưởng phước vô lượng đều do nghiệp nhân gieo tạo đời trước mà cảm thọ quả báo hiện tại.
(Xem: 19842)
“Nhất thiết hữu vi pháp; Như mộng, huyễn, bào, ảnh; Như lộ diệc như điện; Ưng tác như thị quán.”
(Xem: 13163)
Thành thật luận (Satyasiddhi-sastra) do Ha-lê-bat-ma tạo luận, Cưu-ma-la-thập dịch Hán, Nguyên Hồng dịch Việt, thâu lục trong Đại chính, Đại Tạng Kinh số No 1647.
(Xem: 28924)
Chân Như Quan Của Phật Giáo (Ðặc biệt lấy Bát-Nhã làm trung tâm) Nguyên tác: Kimura Taiken; Việt Dịch: HT. Thích Quảng Độ
(Xem: 11601)
Nguyện cầu hồng ân Tam bảo gia hộ cho toàn thể quý học chúng Bồ tát giới tại gia, có đầy đủ bi trí lực để hoàn thành bản nguyện tự lợi, lợi tha, trong khung trời giải thoát tự tại của chánh pháp Như Lai.
(Xem: 18181)
Tôi được Tăng sai phụ trách hướng dẫn Bồ tát Học xứ cho chúng Giới tử tân thọ Bồ tát giới...
(Xem: 16522)
Kinh AN BAN THỦ Ý là một trong những bản kinh được xuất bản sớm nhất ở Viễn Đông và đã góp phần vào việc phổ biến Phật giáo qua việc giảng dạy cách thức thiền tập...
(Xem: 13122)
Bồ tát Long Thọ trước tác Trung luận gồm 27 phẩm (chương) 446 bài kệ, mỗi bài 4 câu, mỗi câu 5 chữ. Ở Ấn Độ các bản luận giải thích như Vô Úy luận...
(Xem: 12688)
Trong Luật tạng, bộ Luật đầu tiên theo trong sử nhắc đến là bộ Bát thập tụng luật do Tôn giả Ưu-ba-li tám mươi lần ngồi tụng thì mới xong bộ Luật của Phật dạy.
(Xem: 13119)
Một thời Đức Thế Tôn ở tại cung điện của chú tể Đại dương, cùng với chúng đại tỳ kheo tám ngàn vị và chúng đại bồ tát ba mươi hai ngàn vị.
(Xem: 12878)
Người giảng: Lão Hòa thượng Tịnh Không; Cẩn dịch: Vọng Tây cư sĩ – Viên Đạt cư sĩ; Biên tập: Phật tử Diệu Hiền
(Xem: 12763)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 215, Hán dịch Pháp Cự; Việt dịch: Thích Bảo An
(Xem: 12897)
Đại Chánh Tân Tu, Kinh số 706, Bộ Kinh Tập, Hán dịch: Thi Hộ; Việt dịch: Thích Thiên Ân
(Xem: 13431)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển thứ 32 số 1648 thuộc Luận Tập Bộ Toàn; Ưu Ba Đề Sa; Tăng Già Bà La; HT Thích Như Điển
(Xem: 11585)
Vãng sinh tập đều ghi chép nhiều truyện có thật đời xưa tu Tịnh độ được vãng sinh Tây phương của đủ các hạng người xuất gia lẫn tại gia, của cả loài vật... Chúc Đức dịch Việt
(Xem: 14130)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Luận Tập, Kinh số 1666; Bồ-tát Mã Minh tạo luận; Hán dịch: Chân Đế; Việt dịch: Nguyên Hồng
(Xem: 17642)
Đây là một quyển kinh Phật Giáo rất phổ thông và đã được dịch ra nhiều thứ tiếng quan trọng trên thế giới... Tâm Minh Ngô Tằng Giao
(Xem: 22262)
Kinh Pháp Hoa ai cũng biết là bộ Kinh Tối Thượng Thừa mà nó không phải Đại Thừa và cũng gọi là Phật Thừa... HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 13340)
Kinh PHÁP-HOA là một bộ kinh lớn mà từ xưa đến nay, sau khi đức Phật diệt-độ, được lưu thông nhứt và được nhiều người tụng-trì nhứt trong các bộ kinh lớn... HT Thích Trí Tịnh
(Xem: 14191)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Hoa Nghiêm, Kinh số 0301, Hán dịch: Thật Xoa Nan Ðà; Việt dịch: HT Thích Minh Lễ
(Xem: 105542)
Sám văn gồm có ba cuốn ngày nay là sám văn ấy. Đem nước từ bi tam muội rửa sạch oan nghiệp nhiều kiếp, lấy ý nghĩa đó để mệnh danh Thủy sám... HT Thích Trí Quang
(Xem: 14497)
Trong đời mạt pháp, các đệ tử của ta chỉ đeo đuổi theo bên ngoài, ít có ai quan niệm đến vấn đề Sanh Tử... HT Thích Thiền Tâm
(Xem: 19630)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0665, Hán dịch: Nghĩa Tịnh, Việt dịch: HT Thích Trí Quang
(Xem: 38291)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0642; Hán dịch: Cưu Ma La Thập; Việt dịch: Định Huệ
(Xem: 15413)
阿 毘 達 磨 俱 舍 論 A Tì Đạt Ma Câu Xá Luận I... dịch theo bản Sanskrit... Tuệ Sỹ
(Xem: 34535)
Tăng đoàn thực hành đúng Pháp và Luật của Phật đã chế định trong sự cùng nhau cộng trú hòa hợpthanh tịnh, cùng nhau giải tán trong sự hòa hợpthanh tịnh.
(Xem: 15939)
Phật Thừa Tôn Yếu luận là một trong nhiều tác phẩm của Đại sư Thái Hư, mang ý nghĩa bao quát nội dung giáo nghĩa Đại thừa Tiểu thừa... Thích Thiện Hạnh Dịch
(Xem: 11263)
Kim Sư Tử Chương là một tác phẩm rất ngắn của thầy Pháp Tạng nhưng bao hàm được giáo lý của Kinh Hoa Nghiêm... HT Thích Nhất Hạnh
(Xem: 15561)
Luận Phật Thừa Tông Yếutùy thuận theo thời cơ lược nói về tông bảncương yếu của Phật pháp... Nguyên tác: Đại sư Thái Hư; Thích Nhật Quang dịch Việt
(Xem: 13901)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0639, Hán dịch: Na Liên Ðề Da Xá, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12736)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0628, Hán dịch: Pháp Thiên, Việt dịch: Thích nữ Tịnh Nguyên
(Xem: 13565)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0626, Hán dịch: Chi Lâu Ca Sấm, Việt dịch: Phật tử Phước Thắng
(Xem: 12392)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0619, Hán dịch: Đàm Ma Mật Đa, Việt dịch: Thích Nguyên Xuân
(Xem: 19285)
Từ Bi Thủy Sám Pháp - Trước thuật: Ngộ Đạt Thiền Sư; Dịch Giả: Thích Huyền Dung
(Xem: 26876)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Sử Truyện, số 2076, Nguyên tác Đạo Nguyên, Việt dịch: Lý Việt Dũng
(Xem: 13047)
Thiết Lập Tịnh Độ là quyển sách của HT Thích Nhất Hạnh giảng giải về Kinh A Di Đà với góc nhìn thiền học
(Xem: 13366)
Việt dịch: Hòa Thượng Thích Trí-Tịnh, Anh dịch: Quảng Định / Quảng Hiếu hiệu đính, Sưu tập: Tuệ Uyển
(Xem: 21471)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0615, Hán dịch: Cưu Ma La Thập, Việt dịch: Thích Nguyên Xuân
(Xem: 17855)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0614, Hán dịch: Cưu Ma La Thập, Việt dịch: Thích Nguyên Xuân
(Xem: 21751)
Quyển "Thập thiện nghiệp đạo kinh giảng yếu" của ngài Thái Hư Pháp sư, thấy tóm tắt dễ hiểu, lời lẽ giản dị mà ý nghĩa đầy đủ, lại rất hợp với căn cơ hiện tại... Thái Hư
(Xem: 14080)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0600, Hán dịch: Thực Soa Nan Đà, Việt dịch: HT Thích Tâm Châu
(Xem: 15960)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0599, Hán dịch: Nghĩa Tịnh, Việt dịch: Nguyên Thuận
(Xem: 15979)
Bản dịch Việt được thực hiện bởi Nhóm Phiên dịch Phạn Tạng, dựa trên bản Hán dịch của Huyền Trang, A-tì-đạt-ma Câu-xá luận... Tuệ Sỹ
(Xem: 18965)
Theo Viên TrừngTrạm Nhiên (1561- 1626), ở trong Kim cang tam muội kinh chú giải tự, thì Đức Phật nói kinh nầy sau Bát nhãtrước Pháp hoa... Thích Thái Hòa
(Xem: 24587)
Thiền Luận - Tác giả: Daisetz Teitaro Suzuki; Quyển Thượng, Dịch giả: Trúc Thiên; Quyển Trung và Hạ, Dịch giả: Tuệ Sỹ
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant