Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

15. Phẩm Thập-trụ

11 Tháng Ba 201100:00(Xem: 20326)
15. Phẩm Thập-trụ

KINH HOA NGHIÊM 
Hán Dịch: Ðại-Sư Thật-Xoa-Nan-Ðà - Việt Dịch: HT Thích Trí Tịnh
Phật Học Viện quốc Tế Xuất Bản PL 2527 - 1983

PHẨM THẬP TRỤ
THỨ MƯỜI LĂM

Lúc bấy giờ Pháp-Huệ Bồ-Tát thừa oai-lực của Phật, nhập Bồ-Tát vô-lượng phương tiện tam-muội. Do sức tam-muội, ngoài ngàn phật-sát vi-trần-số thế-giới ở mười-phương, có ngàn phật-sát vi-trần-số Phật đều đồng hiệu là Pháp-Huệ và đồng hiện đến bảo Pháp-Huệ Bồ-Tát rằng :

'Lành thay ! lành thay ! Thiện-nam-tử ! Ông hay nhập Bồ-Tát Vô-Lượng phương-tiện tam-muội này.

Thiện-nam-tử ! Trong mười-phương, ở mỗi phương đều có ngàn phật-sát vi-trần-số chư Phật đều dùng thần-lực đồng gia-hộ ông.

Lại nguyện-lực và thần-lực của đức Tỳ-Lô-Giá-Na Như-Lai đây, cùng năng-lực thiện-căn của ông đã tu, nhập tam-muội này, khiến ông thuyết pháp, vì để tăng-trưởng phật-trí, vì thâm nhập pháp-giới, vì khéo rõ chúng-sanh-giới, vì sở nhập vô-ngại, vì sở hành vô-chướng, vì được vô-đẳng phương-tiện, vì nhập nhứt-thiết-trí-tánh, vì giác tất cả pháp, vì biết tất cả căn, vì hay thọ-trì diễn-thuyết tất cả pháp : chính là phát khởi mười bực trụ của Bồ-Tát.

Thiện-nam-tử ! Ông nên thừa thần-lực của Phật mà diễn-thuyết pháp thập trụ ấy !'

Lúc đó chư Phật liền ban cho Pháp-Huệ Bồ-Tát trí vô-ngại, trí vô-trước, trí vô-đoạn, trí vô-si, trí vô-dị, trí vô-thất, trí vô-lượng, trí vô-thắng, trí vô-giải-đãi, trí vô-đoạt. Tại sao vậy ? Vì năng-lực của tam-muội này pháp-nhĩ như vậy.

Chư Phật đều đưa tay hữu xoa đảnh của Pháp-Huệ Bồ-Tát.

Pháp-Huệ Bồ-Tát liền xuất định nói với chư Bồ-Tát rằng :

'Chư Phật-tử ! Trụ-xứ của Bồ-Tát rộng lớn đồng với hư-không-giới.

Phật-tử ! Bồ-Tát trụ nơi nhà tam-thế chư Phật.

Nay tôi sẽ nói về chỗ trụ của Bồ-Tát ấy.

Chư Phật-tử ! Chỗ trụ của Bồ-Tát có mười bực mà tam-thế chư Phật đã nói, sẽ nói và hiện đương nói.

Ðây là mười bực trụ :

Sơ-phát-tâm-trụ, Trị-địa-trụ, Tu-hành-trụ, Sanh-quý-trụ, Cụ-túc phương-tiện-trụ, Chánh-tâm-trụ, Bất-thối-trụ, Ðồng-chơn-trụ, Pháp-vương-tử-trụ, Quán-đảnh-trụ.

Chư Phật-tử ! Thế nào là Bồ-Tát phát-tâm-trụ ?

Vị Bồ-Tát này thấy Phật hình dung đoan-nghiêm xinh đẹp có oai-lực lớn, hoặc thấy thần-túc, hoặc nghe thọ-ký, hoặc nghe giảng dạy, hoặc thấy chúng-sanh chịu những sự quá khổ, hoặc nghe phật-pháp rộng lớn của Như-Lai mà phát bồ-đề-tâm, cầu nhứt-thiết-trí.

Vị Bồ-Tát này duyên mười pháp khó được mà phát tâm. Ðây là mười pháp khó được :

Trí biết rõ thị-xứ phi-xứ, trí biết rõ thiện-ác nghiệp báo, trí biết rõ căn tánh thắng-liệt, trí biết rõ các loại tri giải sai-biệt, trí biết rõ các cảnh-giới sai-biệt, trí biết rõ tất cả chí-xứ-đạo, trí biết rõ các thiền giải-thoát tam-muội, trí túc-mạng vô-ngại, trí thiên-nhãn vô-ngại, trí tam-thế lậu-tận.

Chư Phật-tử ! Vị Bồ-Tát này nên khuyên học mười pháp. Ðây là mười pháp :

Siêng cúng-dường Phật, thích ở sanh-tử, chủ-trương dìu dắt thế-gian khiến trừ ác nghiệp, thường đem pháp thắng-diệu dạy bảo, ca ngợI pháp vô-thượng, học công-đức của Phật, sanh ở trước Phật luôn được nhiếp thọ, phương-tiện diễn nói tam-muội tịch-tịnh, ngợi khen xa lìa sanh-tử luân-hồi, làm chỗ quy-y cho chúng-sanh đang bị khổ.

Vì sao phải khuyên học mười pháp này. Vì muốn vị Bồ-Tát này, ở trong phật-pháp, tâm thêm rộng lớn, có nghe được pháp liền tự hiểu, chẳng do người khác dạy.

Chư Phật-tử ! Thế nào là bực Bồ-Tát trị-địa-trụ ?

Vị Bồ-Tát này đối với chúng-sanh phát mười thứ tâm :

Tâm-lợi-ích, tâm đại-bi, tâm an-lạc, tâm an-trụ, tâm lân-mẫn, tâm nhiếp-thọ, tâm thủ-hộ, tâm đồng với mình, tâm là thầy, tâm làm đạo-sư.

Chư Phật-tử ! nên khuyên vị Bồ-Tát này học mười thứ pháp :

Tụng tập học rộng, rảnh rang tịch-tịnh, gần thiện tri-thức, nói lời hòa vui, nói tất biết-thời, lòng không khiếp sợ, rõ thấu các nghĩa, tu hành đúng pháp, xa lìa ngu-mê, an-trụ bất-động.

Do học mười pháp trên đây, vị Bồ-Tát này đối với chúng-sanh, thêm lớn đại-bi, có được nghe pháp liền tự hiểu chẳng do người khác dạy.

Chư Phật-tử ! Thế nào là Bồ-Tát tự-tại hành-trụ ?

Vị Bồ-Tát này dùng mười hạnh để quan-sát tất cả pháp :

Quán tất cả pháp vô-thường, tất cả pháp khổ, tất cả pháp không, tất cả pháp vô-ngã, tất cả pháp vô-tác, tất cả pháp vô-vị, tất cả pháp bất-như-danh, tất cả pháp vô-xứ-sở, tất cả pháp rời phân-biệt, tất cả pháp không kiên thiệt.

Chư Phật-tử ! Vị Bồ-Tát này nên khuyên học mười pháp :

Quan-sát chúng-sanh giới, pháp-giới, thế-giới, quan-sát địa-giới, thủy-giới, hỏa-giới, phong-giới, quan-sát dục-giới, sắc-giới, vô-sắc-giới. Vì muốn vị Bồ-Tát này được trí huệ sáng tỏ, có được nghe pháp liền tự hiểu, chẳng do người khác dạy.

Chư Phật-tử ! Thế nào là Bồ-Tát sanh-quý-trụ ?

Vị Bồ-Tát này từ thánh-giáo sanh, thành-tựu mười pháp :

Trọn chẳng thối chuyển nơi Phật-đạo, sanh lòng tin sâu thanh-tịnh, khéo quan-sát pháp, rõ biết chúng-sanh, quốc-độ, thế-giới, nghiệp-hạnh, quả-báo, sanh-tử, niết-bàn.

Chư Phật-tử ! Vị Bồ-Tát này nên khuyên học mười pháp :

Rõ biết tất cả phật-pháp thời quá-khứ, thời vị-lai, thời hiện-tại; tu tập tất cả phật-pháp thời quá-khứ, vị-lai, hiện-tại; viên-mãn tất cả phật-pháp quá-khứ, vị-lai, hiện tại; biết rõ tất cả Phật bình-đẳng. Ðây là vì muốn cho vị Bồ-Tát này được thăng tiến, nơi trong tam-thế tâm được bình-đẳng, có được nghe pháp liền tự hiểu, chẳng do người khác dạy.

Chư Phật-tử ! Thế nào là Bồ-Tát cụ-túc phương-tiện-trụ ?

Vị Bồ-Tát này trọn đủ mười pháp :

Căn lành tu tập đều vì cứu hộ tất cả chúng-sanh, lợi ích tất cả chúng-sanh, an-lạc tất cả chúng-sanh, ai-mẫn tất cả chúng-sanh, độ-thoát tất cả chúng-sanh, khiến tất cả chúng-sanh lìa những tai nạn, khiến tất cả chúng-sanh thoát khổ sanh-tử, khiến tất cả chúng-sanh phát-sanh tịnh-tín, khiến tất cả chúng-sanh đều được điều-phục, khiến tất cả chúng-sanh đều chứng niết-bàn.

Chư Phật-tử ! Vị Bồ-Tát này nên khuyên học mười pháp :

Biết chúng-sanh vô-biên, vô-lượng, vô-số, biết chúng-sanh bất-tư-nghị, vô-lượng-sắc, bất-khả-lượng, biết chúng-sanh không, vô-sở-tác, vô-sở-hữu, vô-tự-tánh.

Vì muốn vị Bồ-Tát này, tâm lại càng tăng-thắng hơn không bị nhiễm trước, có được nghe pháp liền tự hiểu, chẳng do người khác dạy.

Chư Phật-tử ! Thế nào là Bồ-Tát chánh-tâm-trụ ?

Vị Bồ-Tát này nghe mười pháp tâm định chẳng động :

Nghe khen Phật hay chê Phật, đối với phật-pháp tâm định chẳng động. Nghe khen pháp hay chê pháp, đối với phật-pháp tâm định chẳng động. Nghe khen Bồ-Tát hay chê Bồ-Tát, đối với phật-pháp tâm định chẳng động. Nghe khen hay chê công-hạnh của vị Bồ-Tát, đối với phật-pháp tâm định chẳng động. Nghe nói chúng-sanh hữu-lượng hay vô-lượng, đối với phật-pháp tâm định chẳng động. Nghe nói chúng-sanh hữu-cấu hay vô-cấu, đối với phật-pháp tâm định chẳng động. Nghe nói chúng-sanh dễ độ hay khó độ, đối với phật-pháp tâm định chẳng động. Nghe nói pháp-giới hữu-lượng hay vô-lượng, đối với phật-pháp tâm định chẳng động. Nghe nói pháp-giới có thành có hoại, đối với phật-pháp tâm định chẳng động. Nghe nói phật-pháp hoặc có hoặc không, đối với phật-pháp tâm định chẳng động.

Chư Phật-tử ! Vị Bồ-Tát này nên khuyên học mười pháp :

Tất cả pháp vô-tướng, tất cả pháp vô-thể, tất cả pháp chẳng thể tự-tại, tất cả pháp vô-sở-hữu, tất cả pháp không chơn-thiệt, tất cả pháp không, tất cả pháp vô-tánh, tất cả pháp như huyễn, tất cả pháp như mộng, tất cả pháp vô-phân-biệt.

Vì muốn vị Bồ-Tát này tâm lại càng thêm tăng-tiến được chẳng thối chuyển vô-sanh-pháp-nhãn. Có được nghe pháp liền tự hiểu chẳng do người khác dạy.

Chư Phật-tử ! Thế nào là Bồ-Tát bất thối-trụ ?

Vị Bồ-Tát này nghe mười pháp kiên-cố bất-thối :

Nghe có Phật hay không có Phật, nghe có pháp hay không pháp, nghe có Bồ-Tát hay không Bồ-Tát, nghe có Bồ-Tát hạnh hay không Bồ-Tát hạnh, nghe có Bồ-Tát tu hành được xuất-ly hay chẳng xuất-ly, nghe quá-khứ có Phật hay không Phật, nghe vị-lai có Phật hay không Phật, nghe hiện-tại có Phật hay không Phật, nghe Phật trí hữu-tận hay vô-tận, nghe tam-thế là một tướng hay chẳng phải một tướng, đối với trong phật-pháp tâm đều chẳng thối chuyển cả.

Chư Phật-tử ! Vị Bồ-Tát này nên khuyên học mười pháp quảng đại :

Nói một chính là nhiều, nói nhiều chính là một; văn tùy nơi nghĩa, nghĩa tùy nơi văn, chẳng có chính là có, có chính là chẳng phải có, vô-tướng chính là tướng, tướng chính là vô-tướng, vô-tánh chính là tánh, tánh chính là vô-tánh.

Vì muốn khiến vị Bồ-Tát này tăng-tiến, nơi tất cả pháp khéo hay xuất-ly, có được nghe pháp liền tự hiểu chẳng do người khác dạy.

Chư Phật-tử ! Thế nào là Bồ-Tát đồng-chơn-trụ ?

Vị Bồ-Tát này trụ mười hạnh nghiệp :

Thân-hạnh không lỗi, ngữ-hạnh không lỗi, ý-hạnh không lỗi, tùy ý thọ sanh, biết chúng-sanh các thứ dục, biết chúng-sanh các thứ tri-giải, biết chúng-sanh các thứ cảnh-giới, biết chúng-sanh các thứ nghiệp, biết thế-giới thành hoại, thần-túc tự-tại vô-ngại.

Chư Phật-tử ! Vị Bồ-Tát này nên khuyên học mười pháp :

Biết tất cả phật-sát, động tất cả phật-sát, trì tất cả phật-sát, quán tất cả phật-sát, đến tất cả phật-sát, du-hành vô-số thế-giới, lãnh-thọ vô-số phật-pháp, hiện thân biến-hóa tự-tại, nói ra tiếng quảng-đại biến mãn, trong một sát-na thừa sự cúng-dường vô-số Phật.

Vì muốn vị Bồ-Tát này tăng-tiến, hay được thiện-xảo đối với tất cả pháp, có được nghe pháp liền tự hiểu hẳng do người khác dạy.

Chư Phật-tử ! Thế nào là Bồ-Tát pháp-vương-tử-trụ ?

Vị Bồ-Tát này khéo biết mười pháp :

Khéo biết chúng-sanh thọ sanh, khéo biết phiền-não hiện khởi, khéo biết tập-khí tương-tục, khéo biết chỗ làm phương-tiện, khéo biết vô-lượng-pháp, khéo biết các oai-nghi, khéo biết thế-giới sai biệt, khéo biết những việc của thế-gian trước thế-gian sau, khéo biết diễn thuyết đệ-nhứt-nghĩa.

Chư Phật-tử ! Vị Bồ-Tát này nên khuyên học mười pháp :

Pháp-Vương xứ thiện-xảo, Pháp-Vương xứ quỷ-độ, Pháp-Vương xứ cung-điện, Pháp-Vương xứ thu-nhập, Pháp-Vương xứ quan-sát, Pháp-Vương xứ quán-đảnh, Pháp-Vương lực-trì, Pháp-Vương vô-úy, Pháp-Vương minh-tẩm, Pháp-Vương tán thán.

Vì muốn khiến vị Bồ-Tát này tăng tiến tâm không chướng-ngại, có được nghe pháp liền tự hiểu chẳng do người khác dạy.

Chư Phật-tử ! Thế nào là Bồ-Tát quán-đảnh-trụ ?

Vị Bồ-Tát này được thành-tựu mười thứ trí :

Chấn-động vô-số thế-giới, chiếu diệu vô-số thế-giới trụ-trì vô-số thế-giới, qua đến vô-số thế-giới, nghiêm-tịnh vô-số thế-giới, khai-thị vô-số chúng-sanh, quan-sát vô-số chúng-sanh, biết căn-tánh của vô-số chúng-sanh, khiến vô-số chúng-sanh thu nhập, khiến vô-số chúng-sanh điều-phục.

Vị Bồ-Tát này thân và thân-nghiệp, thần-thông biến hiện, quá-khứ trí, vị-lai trí, hiện-tại trí, thành-tựu phật-độ tâm cảnh-giới, trí cảnh-giới, tất cả đều chẳng thể biết được, nhẫn đến Pháp-Vương-Tử Bồ-Tát cũng chẳng biết được.

Vị Bồ-Tát này nên khuyên học mười thứ trí của Như-Lai :

Tam-thế-trí, phật-pháp-trí, pháp-giới vô-ngại-trí, phật-giới vô-biên-trí, sung-mãn nhứt-thiết thế-giới-trí, phổ-chiếu nhứt-thiết thế-giới-trí, trụ-trì nhứt-thiết thế-giới-trí, tri nhứt-thiết chúng-sanh-trí, tri nhứt-thiết pháp trí tri vô-biên chư Phật trí.

Vì muốn khiến vị Bồ-Tát này tăng trưởng nhứt-thiết chủng-trí, có được nghe pháp liền tự hiểu, chẳng do người khác dạy.

Lúc bấy giờ, do thần-lực của đức Phật trong mười phương, mỗi phương đều một vạn phật-sát vi-trần-số thế-giới sáu thứ chấn-động. Mưa thiên-hoa, tràng-hoa, thiên mạt-hương, thiên tạp-hương, thiên bửu-y, thiên bửu-vân, thiên trang-nghiêm cụ. Những kỹ-nhạc trời tự-nhiên hòa tấu. Phóng thiên quang-minh và âm thinh vi-diệu.

Như ở thế-giới này, thập-phương thế-giới, nơi điện Thiên-Ðế-Thích nói pháp thập-trụ và hiện thần-biến cũng như vậy cả.

Lại do thần lực của Phật, mười phương đều có một vạn phật-sát vi-trần-số Bồ-Tát đến nơi đây và đồng nói rằng : 'Lành thay ! Lành thay ! Này Phật-tử ! Ngài khéo nói pháp này.

Chúng tôi đồng tên Pháp-Huệ, quốc-độ đồng hiệu Pháp-Vân, Như-Lai ở các cõi đó đều hiệu Diệu-Pháp, Nơi pháp-hội của Thế-Tôn chúng tôi cũng giảng thuyết thập-trụ, câu văn nghĩa lý và chúng-hội quyến-thuộc cũng đồng như nơi đây, không có tăng giảm.

Chúng tôi thừa thần-lực của đức Phật mà đến nơi pháp-hội này để chứng-minh.

Lúc đó Pháp-Huệ Bồ-Tát, thừa oai-lực của Phật, quan-sát mười phương khắp cùng pháp-giới, rồi nói kệ rằng :

Thấy thân vi-diệu đấng Thắng-Trí

Tướng-hảo đoan-nghiêm đều đầy đủ

Tôn trọng như vậy rất khó gặp

Bồ-Tát dũng-mãnh sơ-phát-tâm.

Thấy đại thần-thông không ai bằng

Nghe lời thọ kýdạy bảo

Các loài chúng-sanh khổ vô-lượng

Do đây Bồ-Tát sơ-phág-tâm.

Nghe chư Như-Lai đấng Phổ-Thắng

Tất cả công-đức đều thành-tựu

Ví như hư-không chẳng phân biệt

Bồ-Tát do đây sơ-phát-tâm

Tam-thế nhơn-quả gọi là xứ

Tự-tánh chúng ta là phi-xứ

Muốn đều rõ biết nghĩa chơn thật

Bồ-Tát do đây sơ-phát-tâm.

Tất cả hữu-vi các hạnh-đạo

Mỗi mỗi đều có chỗ nơi đến

Ðều muốn rõ biết thể-tánh đó

Bồ-Tát do đây sơ-phát-tâm.

Tất cả thế-giới các chúng-sanh

Tùy nghiệp trôi lăn không tạm dứt

Muốn được thiên-nhãn đều thấy rõ

Bồ-Tát do đây sơ-phát-tâm.

Trong đời quá-khứ đã từng có

Thể-tánh như vậy, tướng như vậy

Muốn đều rõ biết túc-trụ kia

Bồ-Tát do đây sơ-phát-tâm.

Tất cả chúng-sanh những phiền-não

Tương-tục, hiện khởi, và tập-khí

Muốn đều rõ biết rốt ráo hết

Bồ-Tát do đây sơ-phát-tâm.

Tùy những chúng-sanh chỗ an-lập

Các môn đàm luận đường ngữ ngôn

Như thế-đế đó đều muốn biết

Bồ-Tát do đây sơ-phát-tâm.

Tất cả các pháp lìa ngôn thuyết

Tánh không tịch-diệt vốn vô-tác

Muốn đều rõ thấu chơn-nghĩa này

Bồ-Tát do đây sơ-phát-tâm.

Muốn đều chấn-động mười phương cõi

Nghiên úp tất cả những đại-hải

Ðầy đủ chư Phật đại thần-thông

Bồ-Tát do đây sơ-phát-tâm.

Muốn một chưn lông phóng quang-minh

Chiếu khắp mười phương vô-lượng cõi

Trong mỗi quang-minh giác tất cả

Bồ-Tát do đây sơ-phát-tâm.

Muốn đem nan-tư vô-lượng cõi

Ðể trong bàn tay mà chẳng động

Rõ biết tất cả như huyễn hóa

Bồ-Tát do đây sơ-phát-tâm.

Muốn dùng một lông chấm nước biển

Tất cả đại-hải đều làm cạn

Mà đều phân-biệt biết số kia

Bồ-Tát do đây sơ-phát-tâm.

Quá-khứ vị-lai vô-lượng kiếp

Tất cả thế-gian tướng thành hoại

Ðều muốn thấu rõ cùng biên-tế

Bồ-Tát do đây sơ-phát-tâm.

Tam thế tất cả chư Như-Lai

Tất cả Ðộc-Giác và Thanh-Văn

Muốn biết hết cả những pháp đó

Bồ-Tát do đây sơ-phát-tâm.

Vô-lượng vô-biên các thế-giới

Muốn dùng một lông đều cân nổI

Như thể tướng kia đều biết rõ

Bồ-Tát do đây sơ-phát-tâm.

Vô-lượng vô-số Luân-Vi-sơn

Muốn khiến đều vào trong chơn lông

Lớn nhỏ của kia đều biết rõ

Bồ-Tát do đây sơ-phát-tâm.

Muốn dùng một diệu-âm tịch-tịnh

Khắp ứng mười phương tùy loại diễn

Như vậy đều khiến sáng sạch rõ

Bồ-Tát do đây sơ-phát-tâm.

Ngôn ngữ của tất cả chúng-sanh

Một lời diễn nói đều hết cả

Ðều muốn rõ biết tự-tánh kia

Bồ-Tát do đây sơ-phát-tâm.

Ngôn âm thế-gian đều nói cả

Khiến họ đều hiểu chứng tịch-diệt

Muốn được như vậy diệu-thiệt-căn

Bồ-Tát do đây sơ-phát-tâm.

Muốn khiến mườI phương những thế-giới

Có tướng thành hoại đều được thấy

Mà đều biết từ phận-biệt sanh

Bồ-Tát do đây sơ-phát-tâm.

Tất cả mười phương những thế-giới

Vô-lượng Như-Lai đều sung-mãn

Ðều muốn rõ biết Phật-pháp kia

Bồ-Tát do đây sơ-phát-tâm.

Các loại biến-hóa vô-lượng thân

Tất cả thế-giới vi-trần thảy

Ðều muốn rõ thấu từ tâm khởi

Bồ-Tát do đây sơ-phát-tâm.

Quá-khứ, vị-lai và hiện-tại

Vô-lượng vô-số chư Như-Lai

Muốn nơi một niệm đều rõ biết

Bồ-Tát do đây sơ-phát-tâm.

Muốn diễn thuyết đủ một câu pháp

A-tăng-kỳ kiếp không cùng tận

Mà khiến văn nghĩa đều chẳng đồng

Bồ-Tát do đây sơ-phát-tâm.

Mười phương tất cả các chúng-sanh

Tùy tướng họ lưu-chuyển sanh diệt

Muốn nơi một niệm đều rõ thấu

Bồ-Tát do đây sơ-phát-tâm.

Muốn dùng thân, ngữ và ý-nghiệp

Ðến khắp mười phương không chướng ngại

Rõ biết tam-thế đều không-tịch

Bồ-Tát do đây sơ-phát-tâm.

Bồ-Tát phát tâm như vậy rồi

Khiến nên qua đến mười phương cõi

Cung-kính cúng-dường chư Như-Lai

Do đây khiến được không thối chuyển.

Bồ-Tát dũng mãnh cầu Phật-đạo

Ở nơi sanh-tử chẳng mỏi-nhàm

Vì kia ca ngợi khiến thuận lành

Như vậy khiến kia không thối chuyển.

Mười phương thế-giới vô-lượng cõi

Ðều ở trong đó làm Tôn-Chủ

Vì chư Bồ-Tát nói như vậy

Do đây khiến kia không thối chuyển.

Tói-thắng, tối-thượng, tối-đệ-nhứt

Pháp thậm-thâm, vi-diệu, thanh-tịnh

Khuyên chư Bồ-Tát nói cùng người

Dạy như vậy khiến lìa phiền-não,

Tất cả thế-gian không bằng được

Nơi chẳng thể khuynh-động dẹp phục

Vì Bồ-Tát kia thường ca ngợi

Dạy như vậy khiến chẳng thối-chuyển.

Phật là thế-gian Ðại-Lực-Chủ

Ðầy đủ tất cả những công-đức

Khiến các Bồ-Tát trụ trong đó

Dùng đây dạy làm Thắng-Trượng-Phu,

Nơi vô-lượng vô-biên chư Phật

Ðều được qua đến để gần gũi

Thường được chư Phật luôn nhiếp thọ

Dạy như vậy khiến chẳng thối chuyển.

Bao nhiêu những tam-muội tịch-tịnh

Thảy đều diễn đạt không còn thừa

Vì Bồ-Tát kia nói như vậy

Do đây khiến kia chẳng thối-chuyển.

Dẹp trừ vòng sanh-tử các cõi

Mà chuyển diệu-pháp thanh-tịnh luân

Tất cả thế-gian không chỗ chấp

Vì các Bồ-Tát nói như vậy.

Tất cả chúng-sanh đọa ác-đạo

Vô-lượng khổ nặng làm bức ngặt

Làm chỗ quy-y cứu hộ họ

Vì các Bồ-Tát nói như vậy.

Ðây là 'Bồ-Tát phát-tâm-trụ'

Nhứt hướng chí cầu vô-thượng-đạo,

Như tôi đã nói pháp dạy bảo

Tất cả chư Phật cũng như vậy.

Thứ hai : 'Bồ-Tát trị-đĩa-trụ'

Phải nên phát khởi tâm như vầy :

Mười phương tất cả những chúng-sanh

Nguyện đều thuận theo lời Phật dạy,

Tâm đại-bi, lợi-ích, an-lạc,

Tâm an-trụ, xót-thương, nhiếp-thọ,

Tâm thủ-hộ chúng-sanh đồng mình,

Tâm làm thầy và tâm đạo-sư,

Ðã trụ tâm thắng-diệu như vậy

Kế khiến tụng tập cầu học rộng

Thường thích tịch-tịnh, chánh tư-duy

Gần-gũi tất cả thiện-tri-thức.

Nói lời hòa vui, lìa thô cứng

Nói tất cả biết thời, không e sợ

Rõ thấu nghĩa lý làm đúng pháp

Xa lìa ngu mê tâm bất động :

Ðây là sơ-học bồ-đề hạnh

Làm được hạnh này : Chơn-Phật-tử

Nay tôi nói chỗ kia nên làm

Như vậy Phật-tử phải siêng học.

Thứ ba : 'Bồ-Tát tu-hành-trụ'

Thường y phật-giáo siêng quan-sát

Các pháp vô-thường, khổ, và không

Cũng không ngã nhơn, không động-tác.

Tất cả các pháp chẳng đáng ưa

Không đúng danh-tự, không xứ-sở

Không chỗ phân-biệt, không chơn thiệt

Người quán như vậy gọi Bồ-Tát.

Kế, khiến quan-sát chúng-sanh giớI

Và cũng quan-sát nơi pháp-giới

Thế-giới sai biệt trọn không thừa

Nơi kia đều nên khuyên quan-sát.

Thập phương thế-giới và hư-không

Bao nhiêu địa, thủy, cùng hỏa, phong

Dục-giới, sắc-giới, vô-sắc-giới

Ðều khuyên quán-sát đến cùng tận.

Quán-sát cõi kia đều sai khác

Và thể-tánh nó, đều rốt ráo

Dạy siêng tu hành được như vậy

Ðây thời gọi là chơn Phật-tử.

thứ tư : 'Bồ-Tát sanh-quý-trụ'

Từ các thánh-giáo mà xuất sanh

Rõ thấu các cõi không chỗ có

Vượt qua pháp kia sanh pháp-giới.

Tin Phật kiên-cố, chẳng thể hoại

Quán pháp tịch-diệt, tâm an-trụ

Tùy những chúng-sanh đều rõ biết

Thể-tánh hư-vọng không chơn thiệt.

Thế-gian, sát-độ, nghiệp và báo

Sanh-tử, niết-bàn đều như vậy

Phật-tử nơi pháp quán như vậy

Từ Phật thân sanh, gọi Phật-tử.

Quá-khứ vị-lai và hiện-tại

Trong đó bao nhiêu những phật-pháp

Rõ biết chứa họp và viên-mãn

Tu học như vậy khiến rốt ráo.

Tam-thế tất cả chư Như-Lai

Hay tùy quán-sát đều bình-đẳng

Các thứ sai biệt bất-khả-đắc

Người quán như vậy đạt tam-thế.

Như tôi tán dương ca ngợi đó

Là những công-đức đệ-tứ-trụ

Nếu hay y pháp siêng tu hành

Mau thành Phật bồ-đề vô-thượng.

Ðây đến Bồ-Tát trụ thứ năm

Hiệu là 'cụ-túc-phương-tiện-trụ'

Vào sâu vô-lượng phương-tiện khéo

Phát-sanh nghiệp công-đức rốt ráo.

Bồ-Tát chỗ tu các phước-đức

Ðều vì cứu hộ các quần-sanh

Chuyên tâm làm lợi-ích an-lạc

Một mặt xót thương khiến độ thoát.

Vì tất cả đời trừ các nạn

Dẫn thoát sanh-tử, khiến vui mừng

Mỗi mỗi điều-phục không để sót

Ðều khiến đủ đức hướng niết-bàn.

Tất cả chúng-sanh vô-lượng-biên

Vô-lượng, vô-số, bất-tư-nghị

Nhẫn đến bất-khả-xưng-lượng thảy

Nghe lãnh Như-Lai pháp như vậy.

Ðây là Phật-tử đệ-ngũ-trụ

Thành-tựu phương-tiện độ chúng-sanh

Ðấng đại-trí viên-mãn công-đức

Ðem pháp như vậy để khai-thị.

Thứ sáu : 'chánh-tâm-viên-mãn-trụ'

Nơi pháp tự-tánh không mê hoặc

Chánh-niệm tư-duy, rời phân-biệt

Tất cả trời người chẳng động được.

Nghe khen chê Phật, cùng Phật-pháp

Bồ-Tát và cùng Bồ-Tát hạnh

Chúng-sanh hữu-lượng hoặc vô-lượng

Hữu-cấu vô-cấu, độ khó dễ,

Pháp-giới lớn nhỏ và thành hoại

Hoặc có hoặc không, lòng chẳng động

Quá-khứ, vị-lai và hiện-tại

Nhớ kỹ tư-duy hằng quyết-định.

Tất cả các pháp đều vô-tướng

Vô-thể, vô-tánh, không, vô-thiệt

Như ảo, như mộng, rời phân-biệt

Thường thích được nghe nghĩa như vậy.

Thứ bảy : 'Bất-thối-chuyển Bồ-Tát'

Nơi Phật, phật-pháp, bồ-tát-hạnh

Hoặc có, hoặc không, xuất, chẳng xuất

Dầu nghe thuyết ấy không thối-chuyển.

Quá-khứ, vị-lai và hiện-tại

Tất cả chư Phật có cùng không

Phật-trí hữu-tận hoặc vô-tận

Tam-thế một tướng các thứ tướng.

Một tức là nhiều, nhiều là một

Văn tùy nơi nghĩa, nghĩa tùy văn

Như vậy tất cả xoay vần thành

Bực bất-thối nên vì chúng nói.

Hoặc pháp có tướng và vô-tướng

Hoặc pháp có tánh và vô-tánh

Các thứ sai biệt thuộc lẫn nhau

Người này nghe được rồi rốt ráo.

Thứ tám : 'Bồ-Tát đồng-chơn-trụ'

Thân ngữ ý hạnh đều đầy đủ

Tất cả thanh-tịnh không có lỗi

Tùy ý thọ sanh được tự-tại.

Biết những chúng-sanh lòng sở-thích

Các thứ ý-giải đều sai khác

Và kia chỗ có tất cả pháp

Thập-phương quốc-độ tướng thành hoại,

Ðến được diệu thần-thông mau chóng

Trong tất cả chỗ tùy niệm qua

Nơi chư Phật được nghe diệu-pháp

Khen ngợi tu hành không lười mỏi,

Rõ biết tất cả các phật-độ

Chấn-động, gia-trì và quán-sát

Vượt qua phật-độ vô-lượng-số

Du hành thế-giới vô-biên-số.

Vô-số diệu-pháp đều hỏi han

Chỗ muốn thọ thân đều tự-tại

Ngôn âm thiện-xảo đều sung mãn

Chư Phật vô-số đều thờ kính.

Thứ chín : 'Bồ-Tát vương-tử-trụ'

Hay thấy chúng-sanh thọ sanh khác

Phiền-não hiện, tập, đều biết cả

Chỗ làm phương tiện đều khéo rõ,

Các pháp đều khác, oai-nghi khác

Thế-giới chẳng đồng, thuở trước sau

Như kia thế-tục, đệ-nhứt-nghĩa

Ðều khéo biết rõ không có thừa,

Chỗ Pháp-Vương thiện-xảo an lập

Tùy nơi chỗ kia có diệu-pháp

Pháp-Vương cung-điện hoặc thu nhập

Và trong nơi đó quan-sát thấy,

Pháp-Vương chỗ có pháp quán-đảnh

Thần-lực, gia-trì, không khiếp sợ

Yên nghỉ cung thất, và ngợi khen

Ðem đây dạy bảo Pháp-Vương-Tử.

Như vậy vì nói đều hết cả

Mà khiến tâm kia không chấp trước

Nơi đây rõ biết tu chánh-niệm

Tất cả chư Phật hiện ra trước.

Thứ mười : 'Quán-đảnh chơn-phật-tử'

Thành mãn pháp tối-thượng đệ-nhứt

Thập phương vô-số các thế-giới

Ðều hay chấn-động quang chiếu khắp,

Trụ trì, qua đến, cũng không thừa

Thanh-tịnh trang-nghiêm đều đầy đủ

Khai thị chúng-sanh vô-hạn số

Quan-sát căn-tánh đều biết cả.

Phát tâm điều-phục cũng vô-biên

Ðều khiến thu-hướng đại bồ-đề

Tất cả pháp-giới đều quan-sát

Thập phương quốc-độ đều khiến đến.

Nơi đó, thân và thân hành-động

Thần-thông biến hiện khó lường được

Tam-thế phật-độ các cảnh-giới

Nhẫn đến Vương-Tử không rõ được.

Pháp-giới vô-ngại vô-biên trí

Sung mãn nhất-thiết thế-giới-trí

Chiếu-diệu thế-giới trụ-trì trí

Rõ biết chúng-sanh chư pháp-trí

Và biết chánh-giác vô-biên trí

Như-Lai vì nói đều đủ cả.

Thập-trụ Bồ-Tát như vậy thảy

Ðều từ Như-Lai pháp hóa-sanh

Tùy kia chỗ có công-đức hạnh

Tất cả trời người chẳng lường được.

Quá-khứ, vị-lai và hiện-tại

Phát tâm cầu Phật số vô-biên

Thập-phương quốc-độ đều sung-mãn

Ðều sẽ được thành nhứt-thiết-trí.

Tất cả quốc-độ không ngằn mé

Thế-giới chúng-sanh pháp cũng vậy

Hoặc, nghiệp, sở-thích đều khác biệt

Nương đó mà phát bồ-đề tâm.

Ban đầu một niệm cầu Phật-đạo

Chúng-sanh thế-gian và nhị-thừa

Hết sức suy gẫm còn chẳng biết

Huống là bao nhiêu công-đức khác.

Thập-phương tất cả các thế-giới

Dùng một lông đều cân nhắc được,

Người đó biết được phật-tử này

Công-hạnh hướng đến Phật đại-trí.

Thập phương chỗ có những biển lớn

Ðều dùng sợi lông chấm khiến cạn,

Người đó biết được phật-tử này

Công-đức tu hành trong một niệm.

Tất cả thế-giới nghiền làm bụi

Ðều phân-biệt được biết rõ số,

Người như vậy mới có thể thấy

Ðạo tu hành của Bồ-Tát này.

Thập phương chư Phật trong tam-thế

Tất cả Ðộc-Giác và Thinh-Văn

Ðều dùng tất cả diệu biệt-tài

Khai thị sơ phát bồ-đề tâm.

Phát tâm công-đức chẳng lường được

Sung-mãn tất cả cõi chúng-sanh

Chúng trí cùng nói không hết được

Huống là bao nhiêu diệu-hạnh khác.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 32574)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(Xem: 6434)
Phật Đà Thập Đại Đệ Tử Tán - Hòa thượng Tuyên Hóa giảng thuật, Nguyễn Minh Tiến Việt dịch
(Xem: 11091)
Các tác phẩm của Thầy phần lớn được dịch từ Hán tạng, gồm giới kinh và các nguồn văn học Phật giáo Đại thừa với tư tưởng uyên thâm về triết họctâm lý học.
(Xem: 30224)
Đã phát khởi chí nguyện Đại thừa, lại kiên quyết thực hiện chí nguyện ấy, đó thực sự là cung cách hùng dũng của con sư tử đang vươn mình, và do đó phải được nhìn đến bằng cung cách của con voi chúa.
(Xem: 30308)
Vua và phu nhân gởi thơ cho Thắng Man, đại lược ca ngợi công đức vô lượng của Như Lai, rồi sai kẻ nội thị tên Chiên Đề La đem thư đến nước A Du Xà... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 7883)
Tất cả các nhà đạo học và thế học muốn thành tựu kết quả tốt đẹp trong cuộc đời, thì trước hết, họ phải trải qua quá trình kham nhẫn, nỗ lực, tu, học, rèn luyện tự thân, giúp đỡ, và đem lại lợi ích cho tha nhân.
(Xem: 12030)
Bảy Đức Thế Tôn quá khứ từ Thế Tôn Tỳ Bà Thi, Thế Tôn Thích Ca, và chư Thế Tôn vị lai đều chứng ngộ Vô Thượng Bồ Đề từ sự chứng ngộ sự thật Duyên khởi.
(Xem: 12155)
Trong các bản Kinh Pháp Cú, phổ biến nhất hiện nay là Kinh Pháp Cú Nam Truyền, tức là Kinh Pháp Cú dịch theo Tạng Pali.
(Xem: 11492)
Có lần Đức Phật sống tại Rajagaha (Vương Xá) trong Khu Rừng Tre gần Nơi Nuôi Những Con Sóc. Lúc bấy giờ, vị Bà La Môn tên là Akkosa Bharadvaja đã nghe người ta đồn đãi như sau:
(Xem: 12570)
Tôi nghe như vầy. Có lần Đức Phật, trong khi đi hoằng pháp ở nước Kosala nơi có một cộng đồng rất đông Tỳ Kheo, ngài đi vào một tỉnh nhỏ nơi cư trú của người Kalama
(Xem: 34442)
Quy Sơn Cảnh Sách Học Giải - Tác Giả: Thiền Sư Quy Sơn Linh Hựu; Thích Thiện Trí (Thánh Tri) Phỏng Việt Dịch và Viết Bài Học Giải
(Xem: 9721)
Kinh này khởi đầu bằng lời người Bà La Môn hỏi rằng làm thế nào người ta có thể tự thanh tịnh hóa khi nhìn thấy một vị Thượng nhân đã Thanh tịnh,
(Xem: 52110)
Nguyên xưa ngài Quán Nguyệt Pháp sư đem hai thời kinh khóa tụng: Mai đóng chung và chiều nhập chung lại làm một đại thể làm một tập lớn. - Chú giải: Ngài Quán Nguyệt; Dịch giả: HT Thích Khánh Anh
(Xem: 10620)
Tôi nghe như vậy: Một thời, đức Thế Tôn trú tại thành phố Śrāvastī (Xá-vệ), nơi rừng cây Jeta (Kì-đà), vườn của Ông Anāthapiṇḍada (Cấp-cô-độc),
(Xem: 10382)
Bài kinh này trong đoạn cuối (bài kệ 787), câu “không nắm giữ gì, cũng không bác bỏ gì” được Thanissaro Bhikkhu ghi chú rằng ...
(Xem: 10584)
Lúc bấy giờ, Bồ tát Đại sĩ Akṣayamatir[1] từ chỗ ngồ đứng dậy, vắt thượng y[2] qua một bên vai, chắp hai tay[3] hướng về đức Thế Tôn và thưa rằng:
(Xem: 10338)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào?
(Xem: 12972)
Đại ý bài kinh này Đức Phật dạy chúng đệ tử không nên truy tìm quá khứ, không nên ước vọng tương lai vì quá khứ đã đoạn tận.
(Xem: 16074)
Evaṃ me sutaṃ, “như vầy tôi nghe”, là lời Ngài Ananda bắt đầu mỗi bài kinh mà có lẽ không Phật tử nào là không biết.
(Xem: 21643)
Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538), thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm.
(Xem: 9517)
Phật dạy giới này áp dụng chung cho tất cả các Phật tử tại gia, không phân biệt Phật tử này thuộc thành phần hay đẳng cấp xã hội nào.
(Xem: 7003)
Sa-môn Thích Đàm Cảnh dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, vào thời Tiêu-Tề (479-502). Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn, tại Canada, năm 2018.
(Xem: 10296)
Đức Phật A Di Đà tự thân có ánh sáng vô lượng, chiếu khắp cả mười phương mà không có vật gì có thể ngăn che. Vì vậy nên Phật A Di Đà có nghĩa là Vô Lượng Quang Phật.
(Xem: 12519)
Nguyên tác Hán văn: Tì-kheo Linh Diệu, tông Thiên Thai soạn - Dịch sang tiếng Việt: Thích Thọ Phước
(Xem: 12648)
Ngài Buddhaghosa sanh ra và lớn lên nước Magadha, thuộc Trung Ấn Độ, vào thế kỷ thứ V trong ngôi làng Ghosa, gần địa danh nơi đức Phật thành đạo Bodhigaya
(Xem: 16112)
Nghiên Cứu Về Kinh A Hàm (Ãgama, Sanscrist)
(Xem: 16393)
Ai nói như sau, này các Tỷ-kheo: "Người này làm nghiệp như thế nào, như thế nào, người ấy cảm thọ như vậy, như vậy".
(Xem: 13732)
Đây là những điều tôi nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Cấp Cô Độc trong vườn cây Kỳ Đà ở thành Vương Xá.
(Xem: 16404)
Vào thời Đức Thích-ca-mâu-ni, không có hệ thống chữ viết được phổ biếnẤn Độ. Do đó, những thuyết giảng của Ngài được ghi nhớ và ...
(Xem: 11953)
"Lại nữa, lúc bấy giờ Mahāmati thưa rằng: “Bạch Thế Tôn, ngài đã từng dạy rằng: từ lúc Như Lai chứng nghiệm giác ngộ cho đến...
(Xem: 13693)
Kinh Địa Tạng là một trong các kinh Đại thừa được phổ biến rộng rãi trong quần chúng Việt Nam từ hơn nửa thế kỷ nay song song với các kinh Kim Cương, Di Đà, Phổ Môn...
(Xem: 14227)
Nguyên tác: Tôn giả Thế Thân (Acarya Vasubandhu) - Hán dịch: Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng; Việt dịch: Tỳ khưu Tâm Hạnh
(Xem: 9116)
No. 1613 - Nguyên tác: Tôn giả An Huệ; Dịch Hán: Tam Tạng Pháp sư Địa-bà-ha-la; Dịch Việt: Tâm Hạnh
(Xem: 11663)
Duy thức nhị thập luận, do bồ tát Thế Thân soạn, ngài Huyền trang dịch vào đời Đường... được thu vào Đại chính tạng, tập 31, No.1590.
(Xem: 11186)
Bồ-tát Trần Na tạo luận. Tam tạng Pháp sư Huyền Trang phụng chiếu dịch. Việt dịch: Quảng Minh
(Xem: 16125)
Nghe như vầy, một thời Đức Phật ở nước Xá Vệ ở vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc cùng chúng đại Tỳ Kheo năm trăm vị. Bấy giờ các thầy Tỳ Kheo...
(Xem: 14258)
No. 699; Hán dịch: Đời Đại Đường, Trung Thiên Trúc, Tam tạng Pháp sư Địa bà ha la, Đường dịch là Nhật Chiếu
(Xem: 16103)
Đức Phật Thích-Ca Mưu-Ni, bắt đầu chuyển pháp-luân, độ cho năm vị Tỳ-Khưu là Tôn-giả Kiều-Trần-Như v.v... Sau cùng, Ngài thuyết pháp độ cho ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 12613)
Kinh Phạm Võng nằm trong Đại Chánh Tạng, tập 24, ký hiệu 1484, gọi đủ là Phạm võng kinh Lô xá na Phật thuyết bồ tát tâm địa giới phẩm đệ thập
(Xem: 11936)
Phật thuyết-giảng Kinh Phạm-Võng để dạy về giới-luật, và các pháp cao-siêu vượt thoát được sáu mươi hai kiến-chấp vốn là các tà-kiến đã...
(Xem: 11683)
Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi, tại Jetavana, vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Độc). Ở đây,,,
(Xem: 15546)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434; Dịch Phạn - Hán: Tam Tạng Cát-ca-dạ, Dịch Hán - Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ; Hiệu đính: HT Thích Như Điển
(Xem: 11403)
Đời Đường, Thận Thủy Sa Môn Huyền Giác Soạn; Thánh Tri dịch nghĩa Việt và viết bài học giải...
(Xem: 13927)
Phật giáo được khai sáng ở Ấn-độ vào năm 589 trước kỉ nguyên tây lịch (năm đức Thích Ca Mâu Ni thành đạo), và đã tồn tại liên tục, phát triển không ngừng trên ...
(Xem: 11907)
Trong truyền thống Phật giáo Bắc truyền, Dược Sư là một bản kinh thường được trì tụng nhằm mục đích giải trừ tật bệnh, cầu nguyện bình an...
(Xem: 12511)
Thích-ca là phiên âm của tiếng Phạn. Phiên âm Hán Việt là Năng Nhân. Tức là họ của đấng hóa Phật ở cõi Ta-bà...
(Xem: 14853)
Kinh chuyển Pháp luân là bài thuyết Pháp đầu tiên của Đức Phật Thích-ca sau khi Ngài đã đắc đạo.
(Xem: 11878)
Ba Ngàn Oai Nghi Của Vị Đại Tỳ Kheo - Được xếp vào tập T24 - Kinh số 1470 - Tổng cộng kinh này có 2 quyển
(Xem: 13022)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 14382)
Satipatthana Sutta là một bản kinh quan trọng làm nền tảng cho một phép thiền định chủ yếu trong Phật giáo là Vipassana...
(Xem: 20530)
Kinh Tứ Thập Nhị Chương là một bài Kinh được truyền bá khá rộng rải ở các Tồng Lâm Tự Viện của Trung QuốcViệt Nam từ xưa đến nay.
(Xem: 13101)
Bản dịch này được trích ra từ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh Vol. 48, No. 2010. Bởi vì lời dạy của Tổ Tăng Xán quá sâu sắc, súc tích, và bao hàm trong 584 chữ Hán,
(Xem: 10853)
Dịch từ Phạn sang Tạng: Kluḥi dbaṅ-po, Lhaḥi zla-ba; Dịch Tạng sang Việt: Phước Nguyên
(Xem: 20561)
Trí Phật là trí Kim – cang, Thân Phật là thân Kim – Sắc, cõi Phật là cõi Hoàng – kim, lời Phật tất nhiên là lời vàng.
(Xem: 14227)
Bấy giờ Hòa Thượng Vakkali nhìn thấy Đức Phật đang đi đến từ xa, và ông đã cố gắng ngồi dậy.
(Xem: 20150)
Xin dâng hết lên Tam Bảo chứng minh và xin Quý Ngài cũng như Quý Vị tùy nghi xử dụng in ấn tiếp tục hay trì tụng cũng như cho dịch ra những ngôn ngữ khác...
(Xem: 17462)
Niệm Phật Tâm Muội do HT Hư Vân soạn, Sa môn Hiển Chơn dịch; Tọa Thiền Dụng Tâm Ký do Viên Minh Quốc Sư soạn, HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 13851)
Khi Bồ-tát Quán Tự Tại hành sâu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, ngài soi thấy năm uẩn đều KHÔNG, liền qua hết thảy khổ ách.
(Xem: 31738)
Viết ra các bài Phật học thường thức này, chúng tôi không có tham vọng giới thiệu toàn bộ Phật pháp và chỉ cốt giúp cho các bạn sơ cơ hiểu được một cách đúng đắn, đạo lý năm thừa trong Phật giáo mà thôi.
(Xem: 11906)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, Kinh văn số 1675. Tác giả: Long Thọ Bồ Tát; Sa Môn Sắc Tử dịch Phạn sang Hán; HT Thích Như Điển dịch Việt
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant