Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

23. Phẩm Thăng Ðâu-Suất Thiên-cung

11 Tháng Ba 201100:00(Xem: 20578)
23. Phẩm Thăng Ðâu-Suất Thiên-cung

KINH HOA NGHIÊM 
Hán Dịch: Ðại-Sư Thật-Xoa-Nan-Ðà - Việt Dịch: HT Thích Trí Tịnh
Phật Học Viện quốc Tế Xuất Bản PL 2527 - 1983

PHẨM THĂNG ÐÂU-SUẤT THIÊN-CUNG
Thứ hai mươi ba. 

Hán bộ quyển thứ hai mươi hai

 
Lúc bây giờ, do thần-lực của đức phật, thập phương tất cả thế-giới, trong mỗi Diêm-Phù-Ðề đều thấy đức Phật ngự dưới cây bồ-đề, đều có Bồ-Tát thừa oai-lực của Phật mà thuyết pháp, không ai chẳng cho rằng đức Phật luôn ở trước mình.

Ðức Thế-Tôn lại dùng thần-lực chăng rời các chỗ: cây bồ-đề, đảnh Tu-Di-Sơn, Dạ-Ma thiên-cung, mà qua đến Ðâu-Suất-Ðà thiên nơi điện Diệu-Bửu-Trang-Nghiêm.

Ðâu-Suất Thiên-Vương vọng thấy đức Phật đến, liền dọn tòa Ma-Ni-Tạng Sư-Tử tại giữa điện. Tòa ấy do những diệu-bửu cõi trời họp thành, từ những thiện-căn công-đức mà có, không ai quan-sát trọn hết được sự tốt đẹp của nó. Có trăm vạn ức từng cấp vòng quanh tòa. Có trăm vạn ức lưới vàng, lưới ma-ni, lưới báu, trăm vạn ức trướng hoa, trướng báu, trướng tràng-hoa, trướng hương giăng che phía trên tòa. Tràng-hoa thòng xuống, hơi thơm lan khắp nơi. Có trăm vạn ức lọng hoa, lọng tràng-hoa, lọng báu, do chư thiên cầm bày hàng bốn phía. Trăm vạn ức bửu-y trải trên tòa. Trăm vạn ức lâu các chói sáng trang-nghiêm. Trăm vạn ức lưới chuỗi ngọc báu rủ bốn phía. Có trăm vạn ức màn linh báu, những linh ấy hơi động vang ra tiếng hòa nhã. Cửa sổ bằng trăm vạn ức báu kiên-cố ma-ni. Cửa chính bằng trăm vạn ức báu thanh-tịnh diệu tạng. Rưới trăm vạn ức mây thiên hoa, mây thiên-hương, mây thiên-y, mây thiên- bửu, mây thiên cái, mây thiên-trang-nghiêm-cụ, mây thiên-bửu-man, mây thiên anh-lạc. Trăm vạn ức bửu-thọ che mát xung quanh. Trăm vạn ức thiên-nhạc đồng hòa tấu ra tiếng vi-diệu diệt các phiền não, tán thán sự cúng-dường, sự thờ phụng, sự tu hành, cũng tán thán phật quả, thiệt-lý, phật bổn-hạnh, cũng tán than sự cúng-dường chư Phật thời quá-khứ, ca ngợi chư Phật tối thắng vô-úy, ca ngợi công-đức vô-tận của Bồ-Tát, ca ngợi hạnh tương-ưng của tất cả bực Bồ-Tát, ca ngợi công-đức bất tuyệt của Phật, ca ngợi công-hạnh thấy Phật, ca ngợitương ưng với vô-ngại. Tiếng thiên-nhạc vang khắp tất cả phật-sát.

Có trăm vạn ức sơ-phát-tâm Bồ-Tát vừa thấy bửu-tòa nầy lại càng thêm lớn tâm nhứt-thiết-trí. Trăm vạn ức Trị-Ðịa Bồ-Tát tâm-tịnh hoan hỷ. Trăm vạn ức Tu-Hành Bồ-Tát ngộ-giải thanh-tịnh. Trăm vạn ức Sanh-Quý Bồ-Tát trụ thắng-chí-lạc. Trăm vạn ức Phương-Tiện-Cụ-Túc Bồ-Tát khởi đại-thừa-hạnh. Trăm vạn ức Chánh-Tâm-Trụ Bồ-Tát siêng tu tất cả đạo Bồ-Tát. Trăm vạn ức Bất-Thối Bồ-Tát tịnh tu tất cả Bồ-Tát-địa. Trăm vạn ức Ðồng-Chơn Bồ-Tát được quang-minh tam-muội của tất cả Bồ-Tát. Trăm vạn ức Pháp-Vương-Tử Bồ-Tát nhập bất-tư nghì chư Phật cảnh-giới. Trăm vạn ức Quán-Ðảng Bồ-Tát hay hiện thập lực của vô-lượng Như-Lai. Trăm ức Bồ-Tát được tri-giải thanh-tịnh. Trăm vạn ức Bồ-Tát sanh long ưa thích. Trăm vạn ức Bồ-Tát thâm tín chẳng hư hoại. Trăm vạn ức Bồ-Tát thế-lực rộng lớn. Trăm vạn ức Bồ-Tát thêm lớn danh tiếng. Trăm vạn ức Bồ-Tát diễn thuyết pháp nghĩa khiến trí quyết-định. Trăm vạn ức Bồ-Tát chánh-niệm chẳng loạn. Trăm vạn ức Bồ-Tát sanh trí quyết định. Trăm vạn ức Bồ-Tát được sức văn trì, trì tất cả phật-pháp. Trăm vạn ức Bồ-Tát xuất-sanh vô-lượng tri-giải rộng lớn. Trăm vạn ức Bồ-Tát an trụ tín-căn. Trăm vạn ức Bồ-Tát được đàn ba-la-mật có thể thí tất cả. Trăm vạn ức Bồ-Tát được thi-ba-la-mật, trì toàn vẹn các giới-hạnh. Trăm vạn ức Bồ-Tát được nhẫn ba-la-mật tâm chẳng vọng động, trọn nhẫn thọ được tất cả phật-pháp. Trăm vạn ức Bồ-Tát được tinh-tấn ba-la-mật, có thể thật hành vô-lượng xuất-ly tinh-tấn. Trăm vạn ức Bồ-Tát được thiền ba-la-mật, đủ vô-lượng thiền-định quang-minh. Trăm vạn ức Bồ-Tát được bác-nhã ba-la mật, trí-huệ quang minh có thể soi sáng khắp nơi. Trăm vạn ức Bồ-Tát thành-tựu đại-nguyện trọn đều thanh-tịnh. Trăm vạn ức Bồ-Tát được đèn trí-huệ soi sáng pháp môn. Trăm vạn ức Bồ-Tát được pháp-quang của thập phương chư Phật chiếu đến. Trăm vạn ức Bồ-Tát diễn pháp ly-si cùng khắp mười phương. Trăm vạn ức Bồ-Tát vào khắp tất cả quốc-độ chư Phật. Trăm vạn ức Bồ-Tát pháp-thân đến tất cả phật-độ. Trăm vạn ức Bồ-Tát được Phật âm-thinh hay rộng khai ngộ chúng-sanh. Trăm vạn ức Bồ-Tát được phương-tiện xuất-sanh nhứt-thiết-trí. Trăm vạn ức Bồ-Tát được thành-tựu tất cả pháp-môn. Trăm vạn ức Bồ-Tát thành-tựu pháp-trí như bửu-tràng có thể hiển-thị tất cả phật-pháp. Trăm vạn ức Bồ-Tát có thể trọn thị-hiện cảnh-giới Như-Lai. Trăm vạn ức Thiên-Vương cung kính lễ bái. Trăm vạn ức Long-Vương nhìn ngắm không nhàm. Trăm vạn ức Dạ-Xoa-Vương chấp tay trên đầu. Trăm vạn ức Càn-Thác-Bà Vương khởi lòng tịnh-tín. Trăm vạn ức A-Tu-La Vương dứt lòng kiêu-mạn. Trăm vạn ức Ca-Lâu-La Vương miệng ngậm dải lụa màu. Trăm vạn ức Khẩn-Na-La Vương vui mừng hớn hở. Trăm vạn ức Ma-Hầu-La-Già-Vương hoan-hỷ chiêm-ngưỡng. Trăm vạn ức thế-chúa cúi đầu đảnh lễ. Trăm vạn ức Ðao-lợi Thiên-Vương chiêm-ngưỡng chẳng nháy mắt. Trăm vạn ức Da-Ma Thiên-Vương hoan-hỷ ca ngợi. Trăm vạn ức Ðâu-Suất Thiên-Vương mọp thân làm lễ. Trăm vạn ức Hóa-Lạc Thiên-Vương cung kính đảnh lễ. Trăm vạn ức Tha-Hóa Thiên-Vương chấp tay cung-kính. Trăm vạn ức Phạm-Vương nhứt tâm quan-sát. Trăm vạn ức Ðại-Tự-Tại Thiên-Vương cung kính cúng-dường. Trăm vạn ức Bồ-Tát lên tiếng tán thán. Trăm vạn ức thiên-nữ chuyên tâm cúng-dường. Trăm vạn ức Ðồng-Nguyện-Thiên hớn hở vui mừng. Trăm vạn ức Ðồng-Trụ-Thiên ca ngợi. Trăm vạn ức Phạm-Thân-Thiên trải thân kính lễ. Trăm vạn ức Phạm-Phụ-Thiên chấp tay trên đầu. Trăm vạn ức Phạm-Chúng-Thiên hầu hạ xung quanh. Trăm vạn ức Ðại-Phạm-Thiên ca ngợi vô-lượng công-đức. Trăm vạn ức Quang-Thiên năm vóc gieo xuống đất. Trăm vạn ức Thiểu-Quang-Thiên ca ngợi khó gặp Phật xuất-thế. Trăm vạn ức Vô-Lượng-Quang-Thiên vọng lễ Phật. Trăm vạn ức Quang-Âm Thiên tán thán rất khó được thấy Phật. Trăm vạn ức Tịnh-Thiên cùng cung-điện đồng đến đây. Trăm vạn ức Thiểu-Tịnh-Thiên dùng tâm thanh-tịnh cúi đầu làm lễ. Trăm vạn ức Vô-Lượng-Tịnh Thiên nguyện muốn thấy Phật. Trăm vạn ức Biến-Tịnh-Thiên thân-cận tôn-trọng cúng-dường. Trăm vạn ức Quảng-Thiên nhớ căn lành đời trước. Trăm vạn ức Thiểu-Quang-Thiên sanh quan-niệm hi-hữu đôí với Như-Lai. Trăm vạn ức Vô-Lượng-Quảng Thiên quyết định tôn trọng sanh các nghiệp lành. Trăm vạn ức Quảng-Quả-Thiên cúi mình cung kính. Trăm vạn ức Vô-Phiền-Thiên tín-căn kiên-cố kính lễ. Trăm vạn ức Vô-Nhiệt-Thiên chấp tay niệm Phật không lòng mỏi nhàm. Trăm vạn ức Thiện-Kiến Thiên đảnh lễ. Trăm vạn ức Thiện-Hiện Thiên mãi nhớ cúng-dường Phật. Trăm vạn ức Sắc-Cứu-Cánh Thiên kính lễ. Trăm vạn ức chư Thiên đều rất hoan-hỷ lên tiếng tán thán. Trăm vạn ức chư Thiên đều khéo tư-duy để trang-nghiêm. Trăm vạn ức Bồ-Tát Thiên hộ-trì phật-tòa không ngớt trang-nghiêm. Trăm vạn ức hoa-Thủ Bồ-Tát rải tất cả thứ hoa. Trăm vạn ức Hương-Thủ Bồ-Tát rải tất cả thứ hương. Trăm vạn ức Man-Thủ Bồ-Tát rải tất cả tràng-hoa. Trăm vạn ức Y-Thủ Bồ-Tát rải tất cả thứ y-phục. Trăm vạn ức Cái-Thủ Bồ-Tát rải tất cả thứ lọng. Trăm vạn ức Tràng-Thủ Bồ-Tát rải tất cả thứ tràng. Trăm vạn ức Phan-Thủ Bồ-Tát rải tất cả thứ phan. Trăm vạn ức Bửu-Thủ Bồ-Tát rải tất cả thứ bửu. Trăm vạn ức Trang-Nghiêm-Thủ Bồ-Tát rải tất cả đồ trang-nghiêm. Trăm vạn ức Thiên-Tử đến dưới bửu-tòa. Trăm vạn ức Thiên-Tử cùng cung-điện đồng đến đây với tâm tịnh-tín. Trăm vạn ức Sanh-Quý Thiên-Tử dùng thân gìn bửu-tòa. Trăm vạn ức Quán-Ðảnh Thiên-Tử cả thân gìn bửu-tòa. Trăm vạn ức Tu-Duy Bồ-Tát cung-kính tư-duy. Trăm vạn ức Sanh-Quý Bồ-Tát phát tâm thanh-tịnh. Trăm vạn ức Bồ-Tát sáu căn vui đẹp. Trăm vạn ức Bồ-Tát thâm-tâm thanh-tịnh. Trăm vạn ức Bồ-Tát tín-giải thanh-tịnh. Trăm vạn ức Bồ-Tát ba nghiệp thanh-tịnh. Trăm vạn ức Bồ-Tát thọ sanh tự-tại. Trăm vạn ức Bồ-Tát pháp-quang chiếu sáng. Trăm vạn ức Bồ-Tát thành-tựu các bực. Trăm vạn ức Bồ-Tát khéo giáo-hóa tất cả chúng-sanh. Trăm vạn ức thiện-căn sanh ra. Trăm vạn ức Phật hộ-trì. Trăm vạn ức phứơc-đức viên mãn. Trăm vạn ức đại-nguyện nghiêm-khiết. Trăm vạn ức hạnh lành sanh khởi. Trăm vạn ức tâm thù-thắng làm thanh-tịnh. Trăm vạn ức pháp lành làm kiên-cố. Trăm vạn ức thần-lực thị-hiện ra. Trăm vạn ức công-đức làm thành. Trăm vạn ức pháp tán thán để ca ngợi.

Như ở thế-giới nầy, Ðâu-Suất Thiên-Vương phụng vì đức Như-Lai mà trần-thiết bửu-tòa, trong tất cả thế-giới, các Ðâu-Suất Thiên-Vương cũng vì đức Như-Lai mà trần-thiết bửu-tòa đều đồng sự trang-nghiêm, đồng nghi-tắc, đồng tin ưa, đồng tâm-tịnh, đồng vui thích, đồng mừng rỡ, đồng tôn trọng, đồng quan-niệm hi-hữu, đồng hớn-hở, đồng khát-ngưỡng như thế cả.

Trần-thiết bửu-tòa xong, Ðâu-Suất Thiên-Vương với lòng tôn-trọng cùng mười vạn ức vô-số Ðâu-Suất Thiên-Tử phụng nghinh đức Như-Lai.

Thiên-Vương và chư Thiên dùng tâm thanh-tịnh rưới vô-số mây màu hoa, mây màu hương, mây màu tràng-hoa, mây bửu-cái, mây thiên-y, mây diệu-bửu, mây trang-nghiêm-cụ.

Lúc Chư Thiên từ nơi thân mình tuôn ra vô-số thứ mây màu báu đẹp nầy, trăm ngàn ức vô-số Ðâu-Suất Thiên-tử cùng chúng Thiên-tử hiện diện trong hội lòng rất hoan hỷ kính lễ. Vô-số Thiên-nữ hớn-hở kính mộ chiêm-ngưỡng đức Như-Lai. Bất-khả-thuyết Bồ-Tát trụ giữa hư-không tinh-tấn nhứt tâm cúng-dường đức Phật nhiều hơn chư Thiên và cung-kính đảnh lễ. Vô-số âm nhạc đồng thời hòa tấu.

Bấy giờ, do thần-lực của đức Phật, do căn lành ngày trước, do sức tự-tại bất-tư-nghì, nên trong Ðâu-Suất Thiên-cung, tất cả Thiên-Tử và Thiên-nữ đều vọng thấy đức Phật đối trước mình. Họ đồng tự nghĩ rằng : Ðức Như-Lai xuất-thế khó gặp-gỡ được, nay tôi được thấy đấng vô-thượng chánh-giác. 

Họ cùng chúng-hội đồng phụng nghinh đức Như-lai. Tất cả đều dùng thiên-y dựng tất cả thứ hoa Trời, hương trời rải lên cúng-dường đức Phật.

Trăm ngàn ức na-do-tha vô-số Ðâu-Suất Thiên-tử trụ giữa hư-không đều khởi tâm cảnh-giới trí-huệ, đối với đức Phật, mà đốt những thứ thiên-hương, khói hương kết thành mây đẹp thơm trang-nghiêm trên hư không. Lại với đức Phật, họ khởi tâm hoan-hỷ mà rưới những mây hoa trời trang-nghiêm hư-không. Lại với đức Phật, họ khởi tâm tôn-trọng rưới những mây lọng Trời trang-nghiêm hư-không. Họ lại khởi tâm cúng dường Phật mà rải mây tràng-hoa Trời trang-nghiêm hư-không. Họ lại khởi tâm tín-giải bủa vô-số lưới vàng che trùm hư-không, có những bửu-linh luôn vang tiếng hòa-dịu. Họ lại khởi tâm tối-thắng phước-điền dùng vô-số màn báu trang-nghiêm hư-không và rưới mây chuỗi ngọc báu không ngớt. Họ lại sanh tâm thâm tín dùng vô-số cung-điện Trời trang nghiêm hư-không, tất cả thiên-nhạc vang tiếng vi-diệu. Họ lại sanh tâm tối-thắng khó gặp đối với đức Phật, dùng vô-số mây thiên-y nhiều màu trang-nghiêm hư-không và rưới vô-tỉ những y-phục vi-diệu. Họ lại sanh vô-lượng tâm hoan-hỷ hớn-hở dùng vô-số thiên bửu-quan trang-nghiêm hư-không và rưới vô-lượng thiên-quan kết thành mây. Họ lại khởi tâm hoan-hỷ dùng vô-số báu nhiều màu trang-nghiêm hư-không và rưới những mây chuỗi ngọc không ngớt. 

Trăm ngàn ức na-do-tha vô-số Thiên-tử, đối với đức Phật, đều sanh tâm tịnh-tín rải vô-số thiên-hoa nhiều màu, đốt vô-số thiên-hương để cúng dường Như-Lai. Họ lại khởi tâm đại-trang-nghiêm biến-hóa cầm vô-số thiên-mạt-hương nhiều màu phụng rải cúng dường đức Phật. Họ lại khởi tâm hoan-hỷ cầm vô-số lọng nhiều màu theo bên Như-Lai. Họ lại khởi tâm tăng-thượng cầm vô-số y báu nhiều màu trải trên đường để cúng-dường Như-Lai. Họ lại khởi tâm thanh-tịnh cầm vô-số bửu-tràng nhiều màu phụng nghinh Như-Lai. Họ lại khởi tâm tăng-thượng hoan-hỷ cầm vô-số đồ trang-nghiêm báu cúng-dường Như-Lai. Họ lại sanh tâm bất-hoại-tín cầm vô-số tràng-hoa báu cúng-dường Như-Lai. Họ lại sanh tâm hoan-hỷ vô-tỉ cầm vô-số bửu-phan cúng-dường Như-Lai.

Trăm ngàn ức na-do-tha vô-số Thiên-tử dùng tâm điều-thuận tịch-tịnh không phóng-dật đem vô-số thiên-nhạc vang tiếng vi-diệu cúng dừng Như-Lai.

Bất-khả-thuyết Bồt-Tát ở trước nơi trời Ðâu-Suất, sanh ra từ pháp siêu thế-gian, từ hạnh ly phiền-não, từ tâm vô-ngại, từ pháp thậm-thâm phương-tiện, từ trí quảng-đại, từ tín-tâm thanh-tịnh kiên-cố, từ thiện-căn bầt-tư-nghì, từ vô-số thiện-xảo biến-hóa, từ tâm cúng-dường Phật, từ pháp-môn vô-tác.

Chư Bồ-Tát nầy đem đồ cúng-dường hơn cả chư Thiên để dưng lên Phật : những bửu-cái từ ba-la-mật sanh ra, những hoa-trướng từ tri-giải thanh tịnh sanh ra, những bửu-y từ vô-sanh-pháp nhẫn sanh ra, những lưới bửu-linh từ tâm vô-ngại sanh ra, những hương báu từ tâm hiểu pháp như huyễn sanh ra, những bửu-tòa từ tâm cùng khắp Phật cảnh giới Như-Lai tòa sanh ra, những bửu-tràng từ tâm cúng-dường Phật chẳng lười trễ sanh ra, những bửu-điện từ tâm hoa-hỷ hiểu pháp như giấc mơ sanh ra, những mây bửu liên-hoa từ thiên-căn vô-trước vô-sanh sanh ra, cùng những mây hương, mây hoa, mây bửu-y, mây đồ trang-nghiêm hơn cả chư Thiên dưng lên cúng-dường đức Phật.

Mỗi thân của chư Bồ-Tát nầy đều hiện ra bất-khả-thuyết trăm ngàn ức na-do-tha Bồ-Tát đầy khắp pháp-giới hư-không-giới. Tâm của chư Bồ-Tát nầy đồng với tam-thế chư Phật, bởi từ pháp không điên-đảo khởi lên, vô-lượng Như-Lai gia-hộ, khai thị đạo an-ổn cho chúng-sanh, đầy đủ bất-khả-thuyết danh-vị-cú, vào khắp vô-lượng pháp trong tất cả môn đà-la-ni, sanh tạng biện-tài chẳng cùng tận, lòng không e sợ, rất hoan-hỷ, dùng bất-khả-thuyết vô-lương vô-tận pháp tán thán như thật để ca ngợi đức Phật không mỏi nhàm.

Lúc đó tất cả chư Thiên, và tất cả Bồ-Tát thấy đức Như-Lai vô thượng chánh-giác thân vô-lượng không thể đếm lường, hiện bất-tư nghì thần-biến, khiến vô-số chúng-sanh lòng rất vui mừng, dùng Phật trang-nghiêm mà trang-nghiêm cả pháp-giới hư-không-giới, khiến các chúng-sanh an-trụ thiện-căn, thị-hiện vô-lượng Phật thần-lực, vượt khỏi tất cả đường ngữ ngôn, chư Ðại Bồ-Tát đồng khâm kính, tùy chỗ đáng được độ đều khiến hoan-hỷ trụ nơi thân rộng lớn của chư Phật, công-đức thiện-căn đều đã thanh-tịnh, sắc tướng đệ nhứt, trí-huệ cảnh-giới không thể cùng tận, từ vô-tỉ tam-muội sanh ra, thân Phật không ngằn mé trụ khắp trong thân của tất cả chúng-sanh, khiến vô-lượng chúng-sanh đều vui mừng, khiến phật-chủng-tánh chẳng dứt, trụ nơi chỗ trụ rốt ráo của đức Phật, sanh nơi nhà tam-thế chư Phật, khiến vô-số chúng-sanh tín giải thanh-tịnh, khiến tất cả Bồ-Tát trí-huệ thành-tựu, căn thân vui thích, pháp-vân trùm khắp pháp-giới hư-không-giới giáo-hóa điều-phục không thừa sót, tùy tâm chúng-sanh đều khiến đầy đủ, khiến họ an-trụ trí vô-phân-biệt, được nhứt-thiết-trí, phóng đại quang-minh, thiện-căn đời trước đều khiến hiển hiện, khiến khắp tất cả phát tâm rộng lớn, khiến tắt cả chúng-sanh an-trụ trí Phổ-Hiền, trụ khắp các quốc-độ, từ trong chánh-pháp bất-thối mà sanh, trụ nơi pháp-giới bình-đẳng, hiểu rõ cơ nghi của tâm chúng-sanh, hiện bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết thân Như-Lai sai biệt, có thể khiến tất cả chúng thường nghĩ đến sự niệm Phật, đầy khắp pháp-giới rộng độ quần-sanh, tùy người sơ-phát-tâm chỗ muốn lợi ích mà đem pháp dạy cho, khiến họ điều-phục tín-giải thanh-tịnh, thị-hiện sắc-thân bất-tư-nghì, bình-đẳng xem chúng- sanh không lòng chấp trước, trụ bực vô-ngại, được Phật thập-lực, tâm thường tịch-định không tán loạn, trụ nhứt-thiết-trí, khéo có thể khai diễn những nghĩa chơn thật của văn cú, có thể nhập trọn trong biển sâu trí-huệ, xuất sanh vô-lượng huệ-tạng công-đức, luôn dùng huệ-nhựt chiếu khắp pháp-giới, tùy bổn-nguyện-lực hiện luôn không ẩn mất, luôn trụ nơi pháp-giới, trụ nơi chỗ trụ của Phật không đổi khác, trọn không chấp ngã ngã-sở, trụ pháp xuất-thế không nhiễm thế-pháp, nơi tất cả thế-gian dựng tràng trí-huệ, trí đó rộng lớn không nhiễm-trước vượt hơn thế-gian, cứu các chúng-sanh khiến ra khỏi bùn lầy để nơi chỗ trí-huệ vô-lượng, có bao nhiêu phước-đức đều đem lợi ích chúng-sanh mà vẫn vô-tận, rõ biết trí-huệ của tất cả Bồ-Tát, tin và xu-hướng quyết định sẽ thành chánh-giác, dùng đại từ-bi hiện vô-lượng thân Phật đủ sự trang-nghiêm, dùng âm thinh vi-diệu diễn vô-lượng pháp, tùy theo ý của chúng-sanh đều khiến đầy đủ, với ba thời lòng luôn thanh-tịnh, khiến các chúng-sanh chẳng tham chấp cảnh-giới, hằng thọ-ký cho chư Bồ-Tát khiến đều nhập chủng-tánh Phật và sanh nhà Phật, được Phật quán-đảnh, thường du thập phương không thôi ngớt mà đối với tất cả không nhiễm trước, đều có thể qua khắp các Phật-độ trong các pháp-giới, biết tất cả tâm chúng-sanh, chẳng trụ sanh tử mà như bóng hiện khắp trong thế-gian, dùng trí-huệ chiếu khắp pháp-giới, rõ thấu tất cả đều vô-sở-đắc, hằng dùng trí-huệ biết các thế-gian như huyễn, như mộng, như bóng, như hóa, tất cả đều dùng tâm làm tự-tánh mà trụ như vậy, tùy các chúng-sanh nghiệp báo không đồng, sở-thích sai biệt, các căn đều khác, mà hiện Phật-thân. Ðức Như-Lai luôn dùng vô-số chúng-sanh làm sở-duyên mà vì họ nói thế-gian đều từ duyên mà khởi, biết các pháp-tướng thảy đều vô-tướng, chỉ là tướng duy nhứt, gốc của trí-huệ. Muốn khiến chúng-sanh lìa sự chấp tướng nên thị-hiện tất cả tánh tướng thế-gian mà đi trong đời vì họ khai-thị vô-thượng bồ-đề. Vì muốn cứu hộ tất cả chúng-sanh nên xuất-hiện thế-gian khai-thị Phật-đạo khiến họ được thấy thân-tướng của Như-Lai, để ghi nhớ siêng tu tập trừ diệt tướng phiền-não thế gian, tu hạnh bồ-đề tâm chẳng tán động, nơi môn đại-thừa đều được viên-mãn, thành-tựu sự lợi ích của chư Phật, đều có thể quan-sát thiện-căn của chúng-sanh mà chẳng hoại diệt nghiệp báo thanh-tịnh, trí-huệ sang rõ vào khắp ba thời, lìa hẳn tất cả sự phân-biệt của thế-gian, phóng quang-minh chiếu khắp mười phương, tất cả thế-giới đều đầy khắp, sắc-thân tốt đẹp không nhàm. Dùng công-đức trí-huệ thần-thông lớn hiện ra cảnh-giới các căn các hạnh của chư Bồ-Tát, làm những phật-sự tự-tại viên-mãn, làm xong liền ẩn. Khéo hay khai-thị đạo nhứt-thiết-trí trong ba thời. Vì các Bồ-Tát khắp rưới vô-lượng đà-la-ni, khiến phát khởi chí nguyện quảng-đại, thọ-trì tu tập thành-tựu tất cả công-đức của chư Phật. Vô-biên diệu-sắc trang-nghiêm nơi thân, tất cả thế-gian đều hiện thấy, lìa hẳn tất cả sự chướng ngại. Nơi nghĩa chơn-thiệt của tất cả pháp đã được thanh-tịnh. Nơi pháp công-đức đã được tự-tại. Làm Ðại Pháp-Vương chiếu khắp như mặt nhựt. Ðủ oai-đức lớn làm phước-điền thế-gian. Hiện hóa-thân khắp trong tất cả thế-gian. Phóng ánh sáng trí-huệ đều khiến khai ngộ, muốn cho chúng-sanh biết đức Phật đầy đủ vô-biên công-đức. Dùng trí vô-ngại thọ ngôi. Tùy thuận thế-gian mà phương-tiện khai-thị dắt-dìu. Dùng cánh tay trí-huệ an-ủi chúng-sanh. Làm đại Y-Vương khéo trị lành bịnh chúng-sanh. Có thể qua khắp vô-lượng quốc-độ chưa từng thôi nghỉ. Huệ-nhãn thanh-tịnh rời những chướng lòa đều có thể thấy rõ cả. Với những chúng-sanh làm nghiệp ác thời nhiều cách điều-phục khiến họ nhập đạo, khéo nắm lấy thời nghi không thôi nghỉ. Nếu các chúng-sanh khởi tâm bình-đẳng, liền vì họ hóa hiện nghiệp-báo bình-đẳng. Tùy sở-thích của họ, tùy nghiệp quả của họ mà vì họ hiện Phật-thân các thứ thần-biến để thuyết pháp cho họ được tỏ ngộ, được pháp-trí-huệ, lòng rất hoan-hỷ, các căn hớn hở, thấy vô-lượng Phật khởi lòng tin sâu, sanh các thiện-căn trọn không thối-chuyển.

Tất cả chúng-sanh theo nghiệp ràng buộc, mãi ngủ trong sanh-tử, đức Như-Lai xuất-thế có thể giác-ngộ họ, an ủi tâm họ khiến không lo sợ. Người được thấy Phật thời đều khiến chứng nhập nghĩa-trí vô-y, trí-huệ thiện-xảo rõ thấu cảnh-giới, trang-nghiêm tốt đẹp không gì chói lấn được, pháp-trí đều đã thanh-tịnh.

Hoặc hiện thân Phật, hoặc hiện thân Bồ-Tát, khiến các chúng-sanh đến chỗ không khổ hoạn, trang-nghiêm với vô-số công-đức, công-hạnh thành-tựu hiện nơi thế-gian.

Tất cả chư Phật trang-nghiêm thanh-tịnh đều do công-hạnh nhứt-thiệt-trí mà thành-tựu. Luôn gìn bổn-nguyện chẳng bỏ rời thế-gian, làm bạn lành bền chắc của cacù chúng-sanh. Quang-minh vô-cấu thanh-tịnh đệ nhứt, khiến tất cả chúng-sanh đều được hiện thấy.

Sáu loài chúng-sanh vô-lượng vô-biên, đức Phật dùng thần-lực luôn theo họ không rời. Nếu có ai thuở trước đồng Phật gieo trồng căn lành thời đều khiến được thanh-tịnh. Ðối với lục-đạo chúng-sanh chẳng bỏ bổn-nguyện, không khi dối, đều dùng pháp-lành phương-tiện nhiếp-thủ khiến ho tu tập hạnh thanh-tịnh, xô phá tất cả ma đấu tranh.

Từ vô-ngại-tế sanh ra sức quảng-đại, nhựt-tạng tối-thắng không chướng-ngại, nơi tịnh-tâm-giới hiện ra ảnh-tượng, tất cả thế-gian đều được thấy, đem nhiều pháp-môn ban cho khắp chúng-sanh.

Ðức Phật là tạng quang-minh vô-biên, những trí-lực đều viên-mãn, luôn dùng quang-minh lớn chiếu khắp chúng-sanh, tùy sở-nguyện của họ đều khiến đầy đủ, lìa các oán-địch, là phước-điền vô-thượng, chỗ nương tựa chung của tất cả chúng-sanh, phàm có cúng-dường đều khiến thanh-tịnh, tu chút ít hạnh lành thọ hưởng vô-lượng phước, đều khiến được vào bực trí vô-tận. Là ông chủ những thiện-căn thanh-tịnh của tất cả chúng-sanh. Là ruộng tốt tối-thượng phát sanh phước-đức cho tất cả chúng-sanh. Trí huệ Phật rất sâu, phương-tiện thiện-xảo có thể cứu tất cả khổ ác-đạo. 

Tin hiểu như vậy, quan-sát như vậy, và biển trí-huệ như vậy, đi trong biển công-đức như vậy, khắp đến trí-huệ quảng-đại như vậy, biết phước-điền của chúng-sanh như vậy, chánh-niệm hiện-tiền quán-sát như vậy, quán những nghiệp tướng-hảo của Phật như vậy, quán Phật hiện khắp thế-gian như vậy, quán Phật thần-thông tự-tại như vậy.

Lúc đó, cả đại-chúng thấy thân Như-Lai: mỗi chưn lông tuôn ra trăm ngàn ức na-do-tha vô-số quang-minh, mỗi quang-minh có vô-số màu, vô-số thanh-tịnh, vô-số chiếu sáng. Làm cho vô-số chúng nhìn xem, vô-số chúng hoan-hỷ, vô-số chúng khoái-lạc, vô-số chúng thêm lớn lòng thâm-tín, vô-số chúng chí nguyện thanh-tịnh, vô-số chúng các căn mát-mẻ, vô-số chúng cung-kính tôn trọng.

Lúc đó, cả đại-chúng đều thấy thân Phật phóng ra trăm ngàn ức na-do-tha bất-tư-nghì đại quang-minh. Mỗi quang-minh đều có bất-tư-nghì màu, bất-tư-nghì ánh-sáng chiếu bất-tư-nghì vô-biên pháp-giới.

Do thần-lực của Phật vang ra tiếng lớn vi-diệu. Tiếng đó diễn xướng trăm ngàn ức na-do-tha bất-tư-nghì lời tán tụng, vượt hơn tất cả ngôn từ thế-gian, đây là thiện-căn xuất-thế làm thành.

Lại hiện trăm ngàn ức na-do-tha bất-tư-nghì sự trang-nghiêm vi-diệu, ca ngợi trong trăm ngàn ức na-do-tha bất-tư-nghì kiếp cũng không hết được, đây là đức Như-Lai vô-tận tự-tại xuất hiện ra.

Lại hiện bất-khả-thuyết chư Phật Như-Lai xuất-thế khiến các chúng-sanh vào môn trí-huệ hiểu nghĩa thậm thâm.

Lại hiện tất cả sự biến-hóa của bất-khả-thuyết Như-Lai khắp pháp giới hư-không-giới khiến tất cả thế-gian bình-đẳng thanh-tịnh. Ðây đều từ trí vô-ngại của Như-Lai sanh ra, cũng từ bất-tư-nghì thắng-đức của Như-Lai tu hành sanh ra.

Lại hiện trăm ngàn ức na-do-tha bất-tư-nghì diệu-bửu quang-diệm, do từ thiện-căn đại-nguyện thuở trước khởi ra, vì đã từng cúng-dường vô-lượng Như-Lai, vì tu tập hạnh thanh-tịnh không phóng-dật, vì tâm đại-bi vô-ngại sanh ra thiện căn, vì hiển bày phật-lực rộng khắp, vì dứt nghi của tất cả chúng-sanh, vì khiến đều được thấy Như-Lai, vì khiến vô-lượng chúng-sanh trụ nơi thiện-căn, vì hiển bày thần-lực tự-tại của Như-Lai, vì muốn khiến chúng-sanh được vào khắp nơi biển rốt ráo, vì khiến tất cả Bồ-Tát đại chúng trong các phật-độ đều đến họp, vì muốn khai thị phật-pháp bất-tư-nghì.

Lúc đó, đức Như-Lai vì lòng đại bi rộng khắp hiển bày tất cả sự trang-nghiêm của nhứt-thiết-trí, muốn cho những chúng-sanh trong bất-khả-thuyết vô-số thế-giới, kẻ chưa tin thời được tin, đã tin thời thêm lớn, đã thêm lớn thời được thanh-tịnh, đã thanh-tịnh thời được thuần-thục, đã thuần-thục thời khiến điều-phục, quán sát pháp thậm-thâm, đủ vô lượng trí-huệ, phát sanh vô-lượng tâm quảng-đại, tâm từ-bi không thối-chuyển, chẳng trái pháp-tánh, chẳng sợ thiệt-tế, chứng lý chơn-thiệt, đủ tất cả ba-la-mật, thật hành thiện-căn xuất-thế đều thanh-tịnh như Phổ-Hiền, được Phật tự-tại rời lìa cảnh-giới ma vào cảnh-giới Phật, rõ biết thâm-pháp, được trí bất-tư-nghì, trọn không thối-chuyển thệ nguyện đại-thừa, thường thấy chư Phật chưa từng bỏ rời, thành-tựu chứng-trí chứng vô-lượng pháp, đủ vô-biên tạng phước đức, phát tâm hoan-hỷ vào bực vô-nghi, thanh-tịnh lìa ác, nương nhứt-thiết-trí thấy pháp bất-động, được vào Bồ-Tát hội, thường sanh nhà Như-Lai.

Ðức Thế-Tôn hiện sự trang-nghiêm như vậy đều do những thiện-căn nhóm họp từ thời quá-khứ làm thành, vì muốn điều-phục chúng-sanh, vì khai thị oai-đức lớn của Như-Lai, vì chiếu sang tạng trí-huệ vô-ngại, vì thị-hiện vô-biên thắng-đức rất hùng mãnh của Như-Lai, vì hiển-thị bất-tư-nghì thần-biến lớn của Như-Lai, vì dùng thần-lực hiện phật-thân trong tất cả loài, vì thị-hiện thần-thông biến-hóa vô-biên của Như-Lai, vì bổn-nguyện đều thành-tựu viên-mãn, vì hiển-thị trí-huệ dũng-mãnh có thể đến khắp nơi của Như-Lai, vì tự-tại với tất cả pháp mà thành Pháp-Vương, vì xuất-sanh tất cả môn trí-huệ, vì thị-hiện thân Như-Lai thanh-tịnh, vì hiện thân Phật rất vi-diệu, vì hiển-thị chứng được pháp bình-đẳng của tam-thế Phật, vì khai-thị tạng thiện-căn thanh-thịnh, vì hiển bày sắc thân vi-diệu tuyệt thế-gian, vì hiển bày tướng đầy đủ thập-lực khiến ngườ thấy không nhàm, là mặt nhựt của thế-gian vì chiếu suốt ba đời.

Ðấng Pháp-Vương tự-tại tất cả công-đức đều từ thiện-căn thuở trước hiện ra. Dầu tất cả Bồ-Tát ca ngợi tuyên dương trải qua tất cả kiếp cũng chẳng cùng tận được.

Lúc bấy giờ Ðâu-Suất Thiên-Vương cùng trăm ngàn ức na-do-tha vô-số Ðâu-Suất Thiên-Tử chấp tay hướng Phật bạch rằng: ‘‘Lành thay đấng Thế-Tôn, đấng Thiện-Thệ, đấng Như-Lai Ứng-Cúng Ðẳng-Chánh-Giác! Xin đấng đại-từ thương xót chúng tôi mà ngự nơi cung-điện nầy’’.

Ðức Thế-Tôn vì muốn cho tất cả chúng-sanh được hoan-hỷ, tất cả Bồ-Tát được tỏ ngộ thâm pháp, tất cả Ðâu-Suất Thiên-Tử thêm lớn chí nguyện, Thiên-Vương cúng-dường không nhàm, chúng-sanh vì nhớ đến Phật mà phất-tâm, mà chủng thiện-căn phước-đức thấy Phật, thường phát-khởi lòng tin thanh-tịnh, thấy Phật cúng-dường không lòng mong cầu, tất cả chí nguyện đều thanh-tịnh, siêng tu tập thiện-căn không lười nghỉ, phát đại-nguyện cầu nhứt-thiết-trí, nên thọ lời thỉnh của Thiên-Vương mà vào ngự trong điện Bửu-Trang-Nghiêm. 

Tất cả thế-giới ở mười phương cũng đều như vậy cả.

Liền lúc Ðức Như-Lai ngự trên bửu-tòa, điện Bửu-Trang-Nghiêm tự-nhiên trang-nghiêm vượt hẳn trên sự trang-nghiêm của chư Thiên. Vô-số bửu-võng giăng khắp bốn phía, khắp nơi rưới mây báu vi-diệu vô-lượng: mây đồ trang-nghiêm, mây bửu-y, mây hương chiên-đàn, mây hương kiên-cố, mây lọng báu, mây hoa báu. Khắp nơi vang bất-tư-nghì tiếng kỹ nhạc ca ngợi nhứt-thiết-chủng-trí của Như-Lai. Tiếng nhạc nầy đều tương-ưng với diệu-pháp.

Do thần-lực của đức Phật khiến tâm của Ðâu-Suất Thiên-Vương không động loạn, thiện-căn thuở trước đều được viên-mãn, vô-lượng thiện-pháp càng thêm kiên-cố, tăng trưởng lòng tin thanh-tịnh, khởi đại tinh-tấn, sanh đại hoan-hỷ, chí nguyện thanh-tịnh phát bồ-đề-tâm, niệm pháp không dứt, tổng-trì chẳng quên.

Ðâu-Suất Thiên-Vương thừa oai-lực của đức Phật, liền tự nhớ căn lành đã gieo trồng nơi chư Phật quá-khứ, nên nói kệ rằng :

Xưa có Phật hiệu Vô-Ngại-Nguyệt 

Trong những cát-tường là bực nhứt

Phật từng vào điện Trang-Nghiêm nầy 

Thế nên chốn nầy rất cát-tường.

Xưa có Như-Lai hiệu Quảng-Trí

Trong những cát-tường là bực nhứt 

Phật từng vào điện Kim-Sắc nầy 

Thế nên chốn nầy rất cát-tường. 

Xưa có Như-Lai hiệu Phổ-Nhãn

Trong những cát-tường là bực nhứt 

Phật từng vào điện Liên-Hoa nầy 

Thế nên chốn nầy rất cát-tường.

Xưa có Như-Lai hiệu San-Hô

Trong những cát-tường là bực nhứt 

Phật từng vào điện Bửu-Tạng nầy 

Thế nên chốn nầy rất cát-tường.

Xưa có Phật hiệu Luận-Sư-Tử

Trong những cát-tường là bực nhứt

Phật từng vào điện Sơn-Vương nầy

Thế nên chốn nầy rất cát-tường.

Xưa có Như-Lai hiệu Nhựt-Chiếu

Trong những cát-tường là bực nhứt 

Phật từng vào điện Chúng-Hoa nầy 

Vì thế chốn này rất cát-tường.

Xưa có Phật hiệu Vô-Biên-Quang

Trong những cát-tường là bực nhứt

Phật từng vào điện Thọ-Nghiêm nầy

Thế nên chốn nầy rất cát-tường.

Xưa có Như-Lai hiệu Pháp-Tràng 

Trong những cát-tường là bực nhứt 

Phật từng vào điện Bửu-Cung nầy

Thế nên chốn nầy rất cát tường.

Xưa có Như-Lai hiệu Trí-Ðăng

Trong những cát-tường là bực nhứt 

Phật từng vào điện Hương-Sơn nầy

Thế nên chốn nầy rất cát-tường.

Xưa có Phật hiệu Công-Ðức-Quang

Trong những cát-tường là bực nhứt

Phật từng vào điện Ma-Ni nầy

Thế nên chốn nầy rất cát-tường.

Trong tất cả thế-giới ở mười phương các Ðâu-Suất Thiên-Vương cũng đều thừa thần-lực của Phật mà nói kệ tán thán chư Phật quá-khứ như vậy.

Lúc đó đức Thế-Tôn ngồi kiết-già trên tòa sư-tử Ma-Ni-Bửu-Tạng trong điện Bửu-Trang-Nghiêm, pháp-thân thanh-tịnh diệu-dụng tự-tại, đồng một cảnh-giới cùng tam-thế chư Phật, trụ nhứt-thiết-trí đồng vào một tánh với tất cả Phật, phật-nhãn sáng rõ thấy tất cả pháp đều vô-ngạt, có oai-lực lớn đi khắp pháp-giới chưa từng thôi nghỉ, đủ đại thần-thông tùy chỗ có chúng-sanh có thể hóa-độ thời đều qua đến, dùng tất cả sự trang-nghiêm vô-ngại của tất cả chư Phật để tự trang-nghiêm, khéo biết thời cơ mà vì chúng-sanh thuyết pháp.

Bất-khả-thuyết chúng Bồ-Tát đều từ những quốc-độ phương khác cùng đến nhóm họp.

Chúng-hội thanh-tịnh, pháp-thân không hai, không sở-y mà có thể tự-tại khởi thân-hạnh của Phật. Khi chúng-hội an-tọa xong, trong điện Bửu-Trang-Nghiêm tự-nhiên có vô-lượng vô-số đồ đẹp lạ hơn những đồ cúng-dường của chư Thiên, những là tràng-hoa, y-phục hương thoa, hương bột, lọng báu, tràng phan, kỹ nhạc, ca tán, tất cả đều chẳng thể đếm kể được, dùng tâm quảng-đại cung-kính cúng-dường đức Phật.

Tất cả Ðâu-Suất thiên-cung ở mười phương đều như thế cả.  

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 33122)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(Xem: 6517)
Phật Đà Thập Đại Đệ Tử Tán - Hòa thượng Tuyên Hóa giảng thuật, Nguyễn Minh Tiến Việt dịch
(Xem: 11238)
Các tác phẩm của Thầy phần lớn được dịch từ Hán tạng, gồm giới kinh và các nguồn văn học Phật giáo Đại thừa với tư tưởng uyên thâm về triết họctâm lý học.
(Xem: 30387)
Đã phát khởi chí nguyện Đại thừa, lại kiên quyết thực hiện chí nguyện ấy, đó thực sự là cung cách hùng dũng của con sư tử đang vươn mình, và do đó phải được nhìn đến bằng cung cách của con voi chúa.
(Xem: 30424)
Vua và phu nhân gởi thơ cho Thắng Man, đại lược ca ngợi công đức vô lượng của Như Lai, rồi sai kẻ nội thị tên Chiên Đề La đem thư đến nước A Du Xà... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 7961)
Tất cả các nhà đạo học và thế học muốn thành tựu kết quả tốt đẹp trong cuộc đời, thì trước hết, họ phải trải qua quá trình kham nhẫn, nỗ lực, tu, học, rèn luyện tự thân, giúp đỡ, và đem lại lợi ích cho tha nhân.
(Xem: 12157)
Bảy Đức Thế Tôn quá khứ từ Thế Tôn Tỳ Bà Thi, Thế Tôn Thích Ca, và chư Thế Tôn vị lai đều chứng ngộ Vô Thượng Bồ Đề từ sự chứng ngộ sự thật Duyên khởi.
(Xem: 12227)
Trong các bản Kinh Pháp Cú, phổ biến nhất hiện nay là Kinh Pháp Cú Nam Truyền, tức là Kinh Pháp Cú dịch theo Tạng Pali.
(Xem: 11577)
Có lần Đức Phật sống tại Rajagaha (Vương Xá) trong Khu Rừng Tre gần Nơi Nuôi Những Con Sóc. Lúc bấy giờ, vị Bà La Môn tên là Akkosa Bharadvaja đã nghe người ta đồn đãi như sau:
(Xem: 12777)
Tôi nghe như vầy. Có lần Đức Phật, trong khi đi hoằng pháp ở nước Kosala nơi có một cộng đồng rất đông Tỳ Kheo, ngài đi vào một tỉnh nhỏ nơi cư trú của người Kalama
(Xem: 34706)
Quy Sơn Cảnh Sách Học Giải - Tác Giả: Thiền Sư Quy Sơn Linh Hựu; Thích Thiện Trí (Thánh Tri) Phỏng Việt Dịch và Viết Bài Học Giải
(Xem: 9824)
Kinh này khởi đầu bằng lời người Bà La Môn hỏi rằng làm thế nào người ta có thể tự thanh tịnh hóa khi nhìn thấy một vị Thượng nhân đã Thanh tịnh,
(Xem: 52233)
Nguyên xưa ngài Quán Nguyệt Pháp sư đem hai thời kinh khóa tụng: Mai đóng chung và chiều nhập chung lại làm một đại thể làm một tập lớn. - Chú giải: Ngài Quán Nguyệt; Dịch giả: HT Thích Khánh Anh
(Xem: 10721)
Tôi nghe như vậy: Một thời, đức Thế Tôn trú tại thành phố Śrāvastī (Xá-vệ), nơi rừng cây Jeta (Kì-đà), vườn của Ông Anāthapiṇḍada (Cấp-cô-độc),
(Xem: 10489)
Bài kinh này trong đoạn cuối (bài kệ 787), câu “không nắm giữ gì, cũng không bác bỏ gì” được Thanissaro Bhikkhu ghi chú rằng ...
(Xem: 10693)
Lúc bấy giờ, Bồ tát Đại sĩ Akṣayamatir[1] từ chỗ ngồ đứng dậy, vắt thượng y[2] qua một bên vai, chắp hai tay[3] hướng về đức Thế Tôn và thưa rằng:
(Xem: 10443)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào?
(Xem: 13050)
Đại ý bài kinh này Đức Phật dạy chúng đệ tử không nên truy tìm quá khứ, không nên ước vọng tương lai vì quá khứ đã đoạn tận.
(Xem: 16225)
Evaṃ me sutaṃ, “như vầy tôi nghe”, là lời Ngài Ananda bắt đầu mỗi bài kinh mà có lẽ không Phật tử nào là không biết.
(Xem: 21803)
Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538), thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm.
(Xem: 9590)
Phật dạy giới này áp dụng chung cho tất cả các Phật tử tại gia, không phân biệt Phật tử này thuộc thành phần hay đẳng cấp xã hội nào.
(Xem: 7098)
Sa-môn Thích Đàm Cảnh dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, vào thời Tiêu-Tề (479-502). Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn, tại Canada, năm 2018.
(Xem: 10369)
Đức Phật A Di Đà tự thân có ánh sáng vô lượng, chiếu khắp cả mười phương mà không có vật gì có thể ngăn che. Vì vậy nên Phật A Di Đà có nghĩa là Vô Lượng Quang Phật.
(Xem: 12709)
Nguyên tác Hán văn: Tì-kheo Linh Diệu, tông Thiên Thai soạn - Dịch sang tiếng Việt: Thích Thọ Phước
(Xem: 12759)
Ngài Buddhaghosa sanh ra và lớn lên nước Magadha, thuộc Trung Ấn Độ, vào thế kỷ thứ V trong ngôi làng Ghosa, gần địa danh nơi đức Phật thành đạo Bodhigaya
(Xem: 16203)
Nghiên Cứu Về Kinh A Hàm (Ãgama, Sanscrist)
(Xem: 16505)
Ai nói như sau, này các Tỷ-kheo: "Người này làm nghiệp như thế nào, như thế nào, người ấy cảm thọ như vậy, như vậy".
(Xem: 13834)
Đây là những điều tôi nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Cấp Cô Độc trong vườn cây Kỳ Đà ở thành Vương Xá.
(Xem: 16557)
Vào thời Đức Thích-ca-mâu-ni, không có hệ thống chữ viết được phổ biếnẤn Độ. Do đó, những thuyết giảng của Ngài được ghi nhớ và ...
(Xem: 12094)
"Lại nữa, lúc bấy giờ Mahāmati thưa rằng: “Bạch Thế Tôn, ngài đã từng dạy rằng: từ lúc Như Lai chứng nghiệm giác ngộ cho đến...
(Xem: 13783)
Kinh Địa Tạng là một trong các kinh Đại thừa được phổ biến rộng rãi trong quần chúng Việt Nam từ hơn nửa thế kỷ nay song song với các kinh Kim Cương, Di Đà, Phổ Môn...
(Xem: 14300)
Nguyên tác: Tôn giả Thế Thân (Acarya Vasubandhu) - Hán dịch: Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng; Việt dịch: Tỳ khưu Tâm Hạnh
(Xem: 9176)
No. 1613 - Nguyên tác: Tôn giả An Huệ; Dịch Hán: Tam Tạng Pháp sư Địa-bà-ha-la; Dịch Việt: Tâm Hạnh
(Xem: 11727)
Duy thức nhị thập luận, do bồ tát Thế Thân soạn, ngài Huyền trang dịch vào đời Đường... được thu vào Đại chính tạng, tập 31, No.1590.
(Xem: 11248)
Bồ-tát Trần Na tạo luận. Tam tạng Pháp sư Huyền Trang phụng chiếu dịch. Việt dịch: Quảng Minh
(Xem: 16276)
Nghe như vầy, một thời Đức Phật ở nước Xá Vệ ở vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc cùng chúng đại Tỳ Kheo năm trăm vị. Bấy giờ các thầy Tỳ Kheo...
(Xem: 14325)
No. 699; Hán dịch: Đời Đại Đường, Trung Thiên Trúc, Tam tạng Pháp sư Địa bà ha la, Đường dịch là Nhật Chiếu
(Xem: 16183)
Đức Phật Thích-Ca Mưu-Ni, bắt đầu chuyển pháp-luân, độ cho năm vị Tỳ-Khưu là Tôn-giả Kiều-Trần-Như v.v... Sau cùng, Ngài thuyết pháp độ cho ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 12680)
Kinh Phạm Võng nằm trong Đại Chánh Tạng, tập 24, ký hiệu 1484, gọi đủ là Phạm võng kinh Lô xá na Phật thuyết bồ tát tâm địa giới phẩm đệ thập
(Xem: 12059)
Phật thuyết-giảng Kinh Phạm-Võng để dạy về giới-luật, và các pháp cao-siêu vượt thoát được sáu mươi hai kiến-chấp vốn là các tà-kiến đã...
(Xem: 11778)
Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi, tại Jetavana, vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Độc). Ở đây,,,
(Xem: 15639)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434; Dịch Phạn - Hán: Tam Tạng Cát-ca-dạ, Dịch Hán - Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ; Hiệu đính: HT Thích Như Điển
(Xem: 11494)
Đời Đường, Thận Thủy Sa Môn Huyền Giác Soạn; Thánh Tri dịch nghĩa Việt và viết bài học giải...
(Xem: 14010)
Phật giáo được khai sáng ở Ấn-độ vào năm 589 trước kỉ nguyên tây lịch (năm đức Thích Ca Mâu Ni thành đạo), và đã tồn tại liên tục, phát triển không ngừng trên ...
(Xem: 11994)
Trong truyền thống Phật giáo Bắc truyền, Dược Sư là một bản kinh thường được trì tụng nhằm mục đích giải trừ tật bệnh, cầu nguyện bình an...
(Xem: 12605)
Thích-ca là phiên âm của tiếng Phạn. Phiên âm Hán Việt là Năng Nhân. Tức là họ của đấng hóa Phật ở cõi Ta-bà...
(Xem: 14971)
Kinh chuyển Pháp luân là bài thuyết Pháp đầu tiên của Đức Phật Thích-ca sau khi Ngài đã đắc đạo.
(Xem: 11942)
Ba Ngàn Oai Nghi Của Vị Đại Tỳ Kheo - Được xếp vào tập T24 - Kinh số 1470 - Tổng cộng kinh này có 2 quyển
(Xem: 13104)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 14507)
Satipatthana Sutta là một bản kinh quan trọng làm nền tảng cho một phép thiền định chủ yếu trong Phật giáo là Vipassana...
(Xem: 20652)
Kinh Tứ Thập Nhị Chương là một bài Kinh được truyền bá khá rộng rải ở các Tồng Lâm Tự Viện của Trung QuốcViệt Nam từ xưa đến nay.
(Xem: 13186)
Bản dịch này được trích ra từ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh Vol. 48, No. 2010. Bởi vì lời dạy của Tổ Tăng Xán quá sâu sắc, súc tích, và bao hàm trong 584 chữ Hán,
(Xem: 10922)
Dịch từ Phạn sang Tạng: Kluḥi dbaṅ-po, Lhaḥi zla-ba; Dịch Tạng sang Việt: Phước Nguyên
(Xem: 20666)
Trí Phật là trí Kim – cang, Thân Phật là thân Kim – Sắc, cõi Phật là cõi Hoàng – kim, lời Phật tất nhiên là lời vàng.
(Xem: 14329)
Bấy giờ Hòa Thượng Vakkali nhìn thấy Đức Phật đang đi đến từ xa, và ông đã cố gắng ngồi dậy.
(Xem: 20335)
Xin dâng hết lên Tam Bảo chứng minh và xin Quý Ngài cũng như Quý Vị tùy nghi xử dụng in ấn tiếp tục hay trì tụng cũng như cho dịch ra những ngôn ngữ khác...
(Xem: 17616)
Niệm Phật Tâm Muội do HT Hư Vân soạn, Sa môn Hiển Chơn dịch; Tọa Thiền Dụng Tâm Ký do Viên Minh Quốc Sư soạn, HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 13997)
Khi Bồ-tát Quán Tự Tại hành sâu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, ngài soi thấy năm uẩn đều KHÔNG, liền qua hết thảy khổ ách.
(Xem: 31840)
Viết ra các bài Phật học thường thức này, chúng tôi không có tham vọng giới thiệu toàn bộ Phật pháp và chỉ cốt giúp cho các bạn sơ cơ hiểu được một cách đúng đắn, đạo lý năm thừa trong Phật giáo mà thôi.
(Xem: 11998)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, Kinh văn số 1675. Tác giả: Long Thọ Bồ Tát; Sa Môn Sắc Tử dịch Phạn sang Hán; HT Thích Như Điển dịch Việt
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant