Hán Dịch: Ðại-Sư Thật-Xoa-Nan-Ðà - Việt Dịch: HT Thích Trí Tịnh
Phật Học Viện quốc Tế Xuất Bản PL 2527 - 1983
PHẨM THẬP ĐỊA
THỨ HAI MƯƠI SÁU
(Hán Bộ Từ quyển 34 Đến Hết Quyển 39)
(Hán bộ quyển 35)
Chúng Bồ Tát đã nghe
Ðịa tối thắng vi diệu
Tâm các Ngài thanh
tịnh
Tất cả đều vui mừng
Ðồng rời tòa đứng dậy
Vọt bay dừng trên
không
Khắp rải hoa báu đẹp
Ðồng thời chung khen
ngợi :
Lành thay Kim Cang
Tạng
Bực đại trí vô úy
Khéo nói những pháp
lành
Của Sơ địa Bồ Tát.
Bồ Tát Giải Thoát
Nguyệt
Biết lòng chúng thanh
tịnh
Thích nghe những hành
tướng
Của đệ nhị "Ly
Cấu"
Liền thỉnh Kim Cang
Tạng :
Ðại trí xin diễn
thuyết
Phật tử đều thích nghe
Ðệ nhị Ly Cấu Ðịa.
Bấy giờ Kim Cang Tạng
Bồ Tát bảo Giải Thoát Nguyệt Bồ Tát rằng : Thưa Phật Tử ! Ðại Bồ Tát đã tu Sơ
địa muốn vào đệ nhị địa thời phải phát khởi mười thứ thâm tâm.
Ðây là mười thứ thâm
tâm :
Tâm chánh trực, tâm
nhu nhuyến, tâm kham năng, tâm điều phục, tâm tịch tịnh, tâm thuần thiện, tâm
chẳng tạp, tâm không cố luyến, tâm rộng, tâm lớn.
Bồ Tát dùng mười thâm
tâm này thời được vào bực Ly Cấu Ðịa thứ hai.
Chư Phật tử ! Bồ tát
trụ Ly Cấu Ðịa thời tánh tự xa rời tất cả sát sanh, chẳng chứa dao gậy, chẳng
có lòng oán hận, có tàm có quý, đầy đủ lòng nhơn thứ. Với tất cả chúng sanh có
mạng sống thời thương, sanh lòng từ làm lợi ích.
Bồ Tát này còn chẳng
có lòng ác não hại chúng sanh, huống là với họ mà có chúng sanh tưởng cố ý làm
việc giết hại.
Tánh tự chẳng trộm
cắp. Với của cải mình Bồ Tát thường biết vừa đủ, với người thời thương yêu tha
thứ chẳng hề xâm tổn. Nếu đồ vật thuộc người khác thời tưởng là của người khác,
trọn không sanh lòng trộm cắp, nhẫn đến lá cây của người không cho thời không
lấy, huống là đồ vật dụng khác. Tánh tự chẳng tà dâm. Với tự thê, Bồ Tát tri
túc chẳng mong vợ người. Với thê thiếp của người cùng con gái của người, trọn
không móng lòng tham nhiễm, huống là tùng sự dâm dục, huống là nơi phi đạo.
Tánh tự chẳng vọng
ngữ. Bồ Tát luôn thật ngữ, chơn ngữ, thời ngữ, nhẫn đến trong chiêm bao cũng
còn chẳng nói lời phú tàng, vô tâm, vọng ngữ, huống là cố ý nói dối.
Tánh tự chẳng lưỡng
thiệt. Bồ Tát đối với chúng sanh không tâm ly gián, không tâm não hại, chẳng
đem lời người này đến nói với người kia để pháp người kia, chẳng đem lời người
kia đến nói với người này để phá người này, người chưa ly phá thời chẳng cho ly
phá, người đã ly phá thời chẳng cho thêm hơn. Chẳng mừng sự ly gián, chẳng ưa
sự ly gián, chẳng nói lời ly gián. Chẳng cho lời ly gián là thiệt hay chẳng
thiệt.
Tánh tự chẳng ác khẩu,
như là lời độc hại, lời thô tục, lời làm khổ người khác, lời làm người khác sân
hận, lời hiện tiền, lời chẳng hiện tiền, lời xấu ác, lời dung tiện, lời bất
nhã, lời làm người nghe không ưa, không vui, lời giận dữ, lời như lửa đốt lòng,
lời oán kết, lời nhiệt não, lời có thể làm hại mình và người. Những ác khẩu như
vậy đều bỏ lìa cả. Thường nói lời lợi ích, lời mềm mỏng, lời đẹp dạ, lời thích
nghe, lời làm người nghe vui mừng, lời khéo vào tâm người, lời phong nhã điển
tắc, lời nhiều người mến thích, lời nhiều người vui đẹp, lời thân tâm hớn hở.
Tánh tự chẳng ỷ ngữ.
Bồ Tát thường thích nói lời chín chắn, lời phải thời, lời thiệt, lời đúng
nghĩa, lời đúng pháp, lời thuận đạo lý, lời khéo điều phục, lời tùy thời tính
lường quyết định. Bồ Tát này nhẫn đến chơi cười còn luôn suy nghĩ kỹ, huống là
cố ý nói ra lời tán loạn.
Tánh tự chẳng tham
lam. Bồ Tát này đối với tài vật đồ dùng của kẻ khác chẳng móng tâm tham, chẳng
mong cầu.
Tánh tự rời giận hờn.
Bồ Tát này đối với tất cả chúng sanh luôn khởi tâm từ mẫn, tâm lợi ích, tâm đau
xót, tâm hoan hỷ, tâm hoà thuận, tâm nhiếp thọ, bỏ hẳn sân hận oán hại nhiệt
não, thường nghĩ đến thật hành nhơn từ lợi ích.
Tánh tự lìa tà khiến.
Bồ Tát trụ nơi chánh đạo, chẳng coi bói, chẳng thọ lấy cấm giới tà ác, tâm kiến
chánh trực, không dua dối, quyết định tin nơi Phật, Pháp, Tăng.
Chư Phật tử ! Ðại Bồ
tát hộ trì mười nghiệp đạo lành như vậy không hề gián đoạn. Lại tự nghĩ rằng :
tất cả chúng sanh sa đọa nơi ác đạo đều do mười nghiệp ác. Vì thế nên tôi phải
tự tu chánh hạnh, cũng khuyên người khác tự tu chánh hạnh. Vì mình không tự tu
thời không thể bảo kẻ khác tu.
Chư Phật tử ! Ðại Bồ
tát này lại nghĩ rằng : Mười nghiệp đạo ác là nhơn thọ sanh nơi địa ngục, súc
sanh và ngạ quỷ. Mười nghiệp đạo lành là nhơn thọ sanh nơi loài người cõi Trời.
Lại thượng phẩm mười nghiệp đạo lành này dùng trí huệ để tu tập, vì tâm hẹp
kém, vì sợ sanh tử, vì thiếu đại bị, vì theo người Thanh Văn khác mà tỏ ngộ
thời thành Thanh Văn thừa. Lại thượng phẩm mười nghiệp đạo lành này tu tập
thanh tịnh, chẳng do người khác dạy mà tự giác ngộ, vì chẳng đủ đại bi phương
tiện, mà tỏ ngộ pháp nhơn duyên thậm thâm thời thành Ðộc Giác thừa. Lại thượng
phẩm mười nghiệp đạo lành này tu tập thanh tịnh, vì tâm rộng vô lượng, vì đầy
đủ bi mẫn, vì phương tiện nhiếp thọ, vì phát sanh đại nguyện, vì chẳng bỏ chúng
sanh, vì mong cầu Phật trí, vì tu tập trí địa của Bồ Tát, vì tịnh tu tất cả Ba
la mật, mà thành hạnh quảng đại của Bồ Tát. Lại thượng thượng phẩm mười nghiệp
đạo lành này, vì Nhứt thiết chủng thanh tịnh nhẫn đến chứng Thập lực, Tứ vô úy
nên tất cả Phật pháp đều được thành tựu. Vì những lẽ trên đây nên tôi bình đẳng
thật hành mười nghiệp lành làm cho tất cả đều thanh tịnh đầy đủ.
Những phương tiện như
vậy Bồ Tát phải học.
Chư Phật tử ! Ðại Bồ
tát này lại nghĩ rằng : Mười nghiệp đạo ác : Thượng phẩm là nhơn địa ngục,
trung phẩm là nhơn súc sanh, hạ phẩm là nhơn ngạ quỷ.
Trong đây về tội sát
sanh có thể làm cho chúng sanh đọa địa ngục, súc sanh, ngạ qủy. Nếu sanh trong
loài người thời mắc hai quả báo : Mạng vắn và nhiều bịnh.
Tội trộm cấp cũng làm
cho chúng sanh đọa ba ác đạo. Nếu sanh trong loài người thời mắc hai quả báo :
Nghèo cùng và tài sản chung không được tự do dùng.
Tội tà dâm cũng làm
cho chúng sanh đọa ba ác đạo. Nếu sanh trong loài người thời mắc hai quả báo :
Vợ không trinh lương và quyến thuộc không được tùy ý.
Tội vọng ngữ cũng làm
cho chúng sanh đọa ba ác đạo. Nếu sanh trong loài người thời mắc hai quả báo :
Bị phỉ báng và bị khi dối.
Tội lưỡng thiệt cũng
làm cho chúng sanh đọa ba ác đạo. Nếu sanh trong loài người thời mắc hai quả
báo : Quyến thuộc trái lìa và thân tộc tệ ác.
Tội ác khẩu cũng làm
cho chúng sanh đọa ba ác đạo. Nếu sanh trong loài người thời mắc hai quả báo :
Thường nghe tiếng ác và lời nói nhiều tranh cãi.
Tội ỷ ngữ cũng làm cho
chúng sanh đọa ba ác đạo. Nếu sanh trong loài người thời mắc hai quả báo : Lời
nói người không lãnh thọ và lời không rõ ràng.
Tội tham dục cũng làm
cho chúng sanh đọa ba ác đạo. Nếu sanh trong loài người thời mắc hai quả báo :
Lòng không biết đủ và quá tham muốn không nhàm.
Tội sân hận cũng làm
cho chúng sanh đọa ba ác đạo. Nếu sanh trong loài người thời mắc hai quả báo :
Thường bị người khác tìm chỗ hay dở và luôn bị người khác não hại.
Tội tà kiến cũng làm
cho chúng sanh đọa ba ác đạo. Nếu sanh trong loài người thời mắc hai quả báo :
sanh nhà tà kiến và tâm dua vạy.
Chư Phật tử ! Mười
nghiệp đạo ác có thể sanh vô lượng vô biên những quả khổ. Do đây Bồ Tát nghĩ
rằng : Tôi phải xa rời mười nghiệp ác. Làm vườn pháp an ổn thích thú tự ở trong
đó, cũng khuyên người khác cùng ở trong đó.
Chư Phật tử ! Ðại Bồ
tát này với tất cả chúng sanh phát sanh tâm lợi ích, tâm an lạc, tâm từ, tâm
bi, tâm lân mẫn, tâm nhiếp thọ, tâm thủ hộ, tâm tự kỷ, tâm Sư, tâm Ðại Sư.
Bồ Tát nghĩ rằng :
chúng sanh đáng thương đọa nơi rừng rậm tà kiến, trí ác, muốn ác, đạo ác. Tôi
phải làm cho họ trụ nơi chánh kiến tu hành đạo hành đạo chơn thiệt.
Bồ Tát lại nghĩ rằng :
tất cả chúng sanh phân biệt bỉ ngã phá hoại lẫn nhau, đấu tranh sân hận hẩy
hừng không ngớt, tôi phải làm cho họ an trụ trong vô thượng đại từ.
Bồ Tát lại nghĩ rằng :
Tất cả chúng sanh tham lấy không biết nhàm, chỉ cầu của cải tự sống bằng cách
tà mạng. Tôi phải làm cho họ an trụ trong chánh pháp thân, ngữ, ý thanh tịnh
chánh mạng.
Bồ Tát lại nghĩ rằng :
tất cả chúng sanh thường theo tham, sân, si, các thứ phiền não nhơn đó mà hẩy
hừng, họ chẳng biết lập chí cầu phương tiện giải thoát. Tôi phải làm cho họ dứt
trừ tất cả lửa lớn phiền não, đặt họ vào chỗ Niết Bàn thanh lương.
Bồ Tát lại nghĩ rằng :
tất cả chúng sanh bị màn đầy ngu si vọng kiến tối tăm che đậy mà phải vào trong
rừng rậm tối lòa, mất ánh sáng trí huệ, đi đường hiểm đồng hoang sanh ác kiến.
Tôi phải làm cho họ được trí nhãn thanh tịnh không chướng ngại, biết tường như
thật của các pháp, chẳng theo người khác dạy.
Bồ Tát lại nghĩ rằng :
tất cả chúng sanh ở trong đường hiểm sanh tử, sắp đọa địa ngục, súc sanh, ngạ
quỷ, vào trong lưới ác khiến, bị rừng tậm ngu si làm mê, theo dõi đạo tà, làm
hạnh điên đảo, ví như người mù không kẻ dắt đường. Chẳng phải đạo giải thoát mà
cho là đạo giải thoát. Vào cảnh giới ma, bị bọn giặc ác nhiếp lấy, thuận theo
tâm mà, xa lìa ý Phật. Tôi phải cứu họ ra khỏi nạn hiểm như vậy, cho họ an trụ
nơi thành Nhứt thiết trí vô úy.
Bồ Tát lại nghĩ rằng :
Tất cả chúng sanh bị dòng nước chảy xiết sóng lớn nhận chìm vào dòng dục, dòng
sanh tử, dòng vô minh, dòng tà kiến, xoay lăn trong sanh tử, trôi nổi trong sông
ái nhiễm, mãi bị dồi giập không rảnh để quan sát, rồi bị quan niệm tham dục,
sân hận, độc hại không rời tâm họ, nên họ bị quỷ La sát thân kiến bắt đem nhốt
hẳn trong rừng rậm ái dục. Họ lại quá nhiễm trước nơi chỗ tham ái, ở nơi gò ngã
mạn, ngụ trong tụ lạc sáu căn. Nếu không người cứu giỏi, thời không thể độ họ
được.
Tôi phải phát khởi tâm
đại bi đối với họ, dùng những thiện căn để cứu tế họ, cho họ khỏi tai hoạn lìa
nhiễm ô được thanh tịnh, mà ở an nơi thành báu Nhứt thiết trí.
Bồ Tát lại nghĩ rằng :
Tất cả chúng sanh ở trong lao ngục thế gian bị nhiều khổ não, thường ôm lòng
yêu ghét, tự mang lấy gông xiềng lo sợ tham dục, rừng rậm vô minh che chướng
họ, không thể thoát khỏi ba cõi. Tôi phải làm cho họ ra khỏi hẳn ba cõi mà ở an
nơi đại Niết Bàn vô ngại.
Bồ Tát lại nghĩ rằng :
Tất cả chúng sanh chấp trước nơi ngã và ngã sở, chẳng có ý muốn ra khỏi nhà tù
ngũ uẩn, nương nơi tụ lạc trống rỗng, sáu căn phát khởi bốn hạnh điên đảo, bị
bốn rắn độc tứ đại cắn mổ, bị giặc thù ngũ uẩn giết hại chịu vô lượng đau khổ.
Tôi phải làm cho họ ở
an nơi chỗ tối thắng vô trước, chính là Vô thượng Niết Bàn dứt hết mọi chướng
ngại.
Bồ Tát lại nghĩ rằng :
Tâm của chúng sanh hèn kém, chẳng chịu thật hành đạo có thể Nhứt thiết trí. Dầu
họ muốn giải thoát, nhưng họ chỉ thích hai thừa Thanh Văn và Bích Chi Phật. Tôi
phải làm cho họ an trụ nơi Phật pháp quảng đại, nơi trí huệ quảng đại.
Bồ Tát này hộ trì giới
cấm như vậy khéo có thể thêm lớn tâm từ bi.
Chư Phật tử ! Bồ tát ở
bực Ly Cấu Ðịa này, do nguyện lực mà được thấy nhiều Phật. Như là thấy trăm Ðức
Phật, ngàn đức Phật, trăm ngàn Ðức Phật, nhẫn đến thấy trăm ngàn ức na do tha
đức Phật.
Ở chỗ Chư Phật, Bồ Tát
này dùng tâm quảng đại thâm tâm cung kính tôn trọng phụng thờ, cúng dường những
thứ y phục, ăn uống, thuốc men, ngọa cụ, tất cả đồ dùng. Và cũng cúng dường tất
cả chúng Tăng. Ðem công đức này hồi hướng Vô thượng Bồ đề.
Ở chỗ Chư Phật, do tâm
tôn trọng, Bồ Tát này lại thọ hành mười đạo pháp lành, tùy chỗ đã thọ nhẫn đến
Bồ đề trọn không quên mất.
Bồ Tát này từ vô lượng
trăm ngàn ức na do tha kiếp vì đã xa rời tội tham giận phá giới nên hạnh bố
thí, trì giới được thanh tịnh toàn vẹn.
Ví như chơn kim để
trong phàn thạch, đúng theo cách thức luyện xong thời lìa tất cả cấu nhơ càng
sáng sạch hơn.
Bồ Tát trụ bực Ly Cấu
Ðịa này cũng như vậy. Trải qua vô lượng trăm ngàn ức na do tha kiếp, vì xa lìa
bợn nhơ tham sân phá giới, nên hạnh bố thí, trì giới được thanh tịnh đầy đủ.
Chư Phật tử ! Trong
bốn nhiếp pháp, Bồ tát này thiên về ái ngữ nhiều. Trong mười môn Ba la mật Bồ
Tát này thiên nhiều về trì giới. Với các pháp khác thời tùy phần tùy sức.
Chư Phật tử ! Ðây là
lược nói về bực Ly Cấu Ðịa.
Ðại Bồ Tát trụ bực
này, phần nhiều hiện thân làm Chuyển Luân Thánh Vương, làm Ðại pháp chủ, đầy đủ
thất bửu, có sức tự tại, có thể trừ cấu nhiễm tham, sân, phá giới của tất cả
chúng sanh. Dùng phương tiện khéo làm cho họ an trụ trong mười nghiệp đạo lành.
Làm vị đại thí chủ châu ấp vô tận. Bao nhiêu công hạnh như bố thí, ái ngữ, lợi
hành, đồng sự đều không rời niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, nhẫn đến chẳng rời
niệm Nhứt thiết chủng trí.
Bồ Tát này lại nghĩ
rằng : Nơi tất cả chúng sanh tôi sẽ là thượng thủ, là thắng, là tối thắng, là
diệu, là vi diệu, là thượng, là vô thượng, nhẫn đến là chỗ y chỉ của Nhứt thiết
chủng trí.
Bồ Tát này lúc muốn bỏ
nhà để ở trong Phật pháp tinh tấn tu hành. Liền có thể rời nhà vợ con, quyến
thuộc, ngũ dục. Khi đã xuất gia thời siêng năng tu tập, khoảng một niệm được
ngàn tam muội, được thấy ngàn Ðức Phật, biết thần lực của ngàn Ðức Phật, có thể
chấn động ngàn thế giới, nhẫn đến có thể thị hiện ngàn thân, mỗi thân thị hiện
ngàn Bồ Tát làm quyến thuộc. Nếu dùng nguyện lực thù thắng tự tại để thị hiện
thời hơn số này, trong trăm ngàn ức na do tha kiếp cũng chẳng đếm biết được.
Kim Cang Tạng Bồ Tát
muốn tuyên lại nghĩa này bèn nói kệ rằng :
Chất trực, nhu nhuyến
và kham năng
Ðiều phục, tịch tịnh
và thuần thiện
Ý rộng lớn mau thoát
sanh tử
Do mười tâm vào đệ Nhị
địa.
Ở đây thành tựu giới
công đức
Xa lìa sát sanh chẳng
não hại
Cũng lìa trộm cắp và
tà dâm
Lìa hẳn vọng, ác, ly,
ỷ ngữ.
Chẳng tham của cải
thường xót thương
Chánh đạo, trực tâm
không siểm ngụy
Rời hiểm, bỏ mạn, rất
điều nhu
Y giáo thật hành chẳng
phóng dật.
Ðịa ngục, súc sanh
chịu khốn khổ
Ngạ quỷ đói khát miệng
tuôn lửa
Tất cả đều do tội ác
gây
Tôi phải lìa xa trụ
thật pháp
Nhơn gian tùy ý được
thọ sanh
Nhẫn đến thiền định
Sắc, Vô sắc
Thanh Văn, Ðộc Giác
đến thành tựu.
Tư duy như vậy chẳng
phóng dật
Tự gìn tịnh giới dạy
người trì
Lại thấy quần sanh
chịu đau khổ
Lại càng thêm lớn tâm
đại bi.
Phàm phu tà kiến hiểu
bất chánh
Thường giận hay hờn
nhiều tranh cãi.
Tham cầu nhiễm trước
không nhàm đủ
Tôi phải độ họ trừ ba
độc
Ngu si đen tối che
trùm lấp
Vào đường hiểm lớn
lưới tà kiến
Nhà giam sanh tử bị
nhốt bắt
Tôi phải khiến họ dẹp
giặc ma.
Bốn dòng đẩy trôi tâm
chìm đắm
Ba cõi đốt thui vô
lượng khổ
Chấp uẩn làm nhà : ngã
ở trong
Vì muốn độ họ siêng
hành đạo.
Dầu muốn giải thoát
tâm lại kém
Bỏ xa vô thượng Phật
trí huệ
Tôi muốn khiến họ trụ
Ðại thừa
Chuyên cần tinh tấn
không nhàm đủ.
Bồ Tát ở đây chứa công
đức
Thấy vô lượng Phật đều
cúng dường
Ức kiếp tu hành thêm
sáng sạch
Như dùng thuốc tốt
luyện chơn kim,
Bồ Tát ở đây hiện Luân
Vương
Ðộ khắp chúng sanh tu
thập thiện
Bao nhiêu pháp lành
đều tu tập
Ðể thành Thập lực cứu
thế gian
Muốn bỏ Vương vị và
tài bửu
Liền lìa nhà tục nương
Phật giáo
Dũng mãnh tinh tấn
trong một niệm
Ðược ngàn tam muội,
thấy ngàn Phật.
Bao nhiêu tất cả sức
thần thông
Bồ Tát Nhị địa đều
hiện được
Nguyện lực đã làm lại
hơn đây
Vô lượng tự tại độ
quần sanh.
Người làm lợi ích khắp
thế gian
Ðã tu Bồ Tát hạnh tối
thắng
Công đức đệ nhị địa
như vậy
Vì các Phật tử đã khai
diễn.
Phật tử được nghe công
hạnh này
Cảnh giới Bồ Tát khó
nghĩ bàn
Thảy đều cung kính
lòng hoan hỷ
Rải hoa hư không để
cúng dường.
Khen rằng : lành thay
đấng Ðại Sĩ
Lòng từ thương xót các
chúng sanh
Khéo nói luật nghi của
trí giả
Và hành tướng trong đệ
Nhị địa.
Ðây diệu hạnh của chư
Bồ Tát
Chơn thiệt không lạ
không sai biệt.
Vì muốn lợi ích các
quần sanh
Diễn nói như vậy rất
thanh tịnh.
Tất cả Nhơn, Thiên đến
cúng dường
Mong được nghe giảng
đệ Tam địa
Những trí hạnh cùng
pháp tương ưng
Cảnh giới như vậy mong
nói đủ.
Phật có tất cả pháp :
thí, giới,
Nhẫn nhục, tinh tấn,
thiền, trí huệ.
Cùng với phương tiện
đạo từ bi
Phật hạnh thanh tịnh
xin nói hết.
Giải Thoát Nguyệt Bồ
Tát lại thưa :
Mong Kim Cang Tạng đại
Bồ Tát
Giảng nói tiến vào đệ
Tam địa
Tất cả công đức của
bực này.
Kim Cang Tạng Bồ Tát
nói với Giải Thoát Nguyệt Bồ Tát : "Thưa Phật tử ! Ðại Bồ Tát đã thanh
tịnh đệ Nhị địa muốn vào đệ Tam địa, phải phát khởi mười thâm tâm".
Ðây là mười thâm tâm :
Tâm thanh tịnh, tâm an
trụ, tâm nhàm bỏ, tâm lìa tham, tâm bất thối, tâm kiên cố, tâm minh thạnh, tâm
dũng mãnh, tâm rộng, tâm lớn. Bồ Tát do mười tâm này mà được vào đệ Tam địa.
Chư Phật tử ! Ðại Bồ
tát đã an trụ nơi đệ Tam địa quán sát tất cả pháp hữu vi đúng với tướng chơn
thật của nó. Chính là : Vô thường, khổ, bất tịnh, chẳng an ổn, bại hoại, chẳng
ở lâu, sát na sanh diệt, chẳng phải từ thuở trước sanh, cũng chẳng phải theo
thuở sau diệt, và chẳng phải trụ ở hiện tại.
Bồ Tát lại quan sát
những pháp này không được cứu, không chỗ tựa, mà đồng ở với lo, buốn, khổ, não,
ràng buộc bởi yêu ghét, sầu thảm càng nhiều không hề dừng, tham, sân, si hẩy
hừng chẳng hề dứt, những họa hoạn vấn vít ngày đêm thêm lớn, toàn là như huyễn
hóa không thiệt.
Bồ Tát quan sát thấy
như thế rồi, đối với pháp hữu vi càng thêm nhàm lìa mà hướng đến Phật trí huệ.
Thấy Phật trí chẳng thể nghĩ bàn, vô đẳng vô lượng khó được, không tạp, không
não, không lo, đến thành trì vô úy không còn lui lại, có thể cứu thoát vô lượng
chúng sanh khổ nạn.
Bồ Tát thấy Phật trí
vô lượng lợi ích, thấy tất cả pháp hữu vi vô lượng tội lỗi, thời đối với tất cả
chúng sanh phát sanh mười tâm xót thương.
Ðây là mười tâm xót
thương :
Thấy chúng sanh cô độc
không chỗ tựa nương mà sanh lòng thương. Thấy chúng sanh nghèo cùng khốn thiếu
mà sanh lòng thương. Thấy chúng sanh bị lửa tam độc đốt cháy mà sanh lòng
thương. Thấy chúng sanh bị lao tù mà sanh lòng thương. Thấy chúng sanh bị rừng
rậm phiền não luôn che chướng mà sanh lòng thương. Thấy chúng sanh chẳng khéo
quan sát mà sanh lòng thương. Thấy chúng sanh không thích muốn pháp lành mà
sanh lòng thương. Thấy chúng sanh bỏ mất Phật pháp mà sanh lòng thương. Thấy
chúng sanh theo dòng sanh tử mà sanh lòng thương. Thấy chúng sanh mất phương
tiện giải thoát mà sanh lòng thương.
Bồ Tát thấy chúng sanh
giới vô lượng khổ não như vậy phát đại tinh tấn mà nghĩ rằng : Với tất cả chúng
sanh này tôi phải cứu, tôi phải giải thoát, tôi phải thanh tịnh, tôi phải độ,
tôi phải đặt họ ở chỗ lành, phải làm cho họ ở an, cho họ hoan hỷ, cho họ thấy
biết, cho họ điều phục, cho họ tịch diệt.
Bồ Tát nhàm lìa pháp
hữu vi như vậy, lòng thương như vậy. Biết Nhứt thiết chủng trí có lợi ích thù
thắng, muốn nương Phật trí để cứu độ chúng sanh.
Bồ Tát suy nghĩ rằng :
Những chúng sanh này đọa trong khổ lớn phiền não, dùng phương tiện gì để có thể
cứu tế, cho họ an trụ trong sự vui cứu cánh Niết Bàn ? Bồ Tát lại nghĩ rằng :
Muốn độ chúng sanh cho họ an trụ nơi Niết Bàn quyết không thể rời trí giải
thoát vô ngại. Trí này không rời như thiệt giác ngộ tất cả pháp. Giác ngộ này
không rời huệ quang của hạnh vô hành vô sanh. Huệ quang này không rời thiền trí
thiện xảo quyết định quán sát. Thiền trí này chẳng rời đa văn hay khéo.
Bồ Tát suy gẫm như vậy
rồi, đối với chánh pháp càng thêm siêng năn tu tập. ngày đêm chỉ mong nghe được
pháp, vui nơi pháp, nương với pháp, thuận theo pháp, hiểu nơi pháp, đến pháp,
trụ tại pháp và thật hành chánh pháp.
Bồ Tát cần cầu Phật
pháp như vậy, bao nhiêu của báu đều không lẫn tiếc, chẳng thấy có vật khó được
đáng trọng. Chỉ ở nơi người hay giảng thuyết Phật pháp thời sanh lòng kính
ngưỡng. Vì thế nên đối với tài vật và thân thể của mình, Bồ Tát đều có thể xả
thí để cầu Phật pháp. không có sự cung kính nào mà chẳng làm được, không có sự
kiệu mạn nào mà không bỏ được, không có sự phụng thờ nào mà không làm được,
không có sự cần khổ nào mà không chịu được.
Nếu được nghe một câu
chánh pháp chưa từng nghe, lòng Bồ Tát rất vui mừng hơn là được trân bửu đầy cả
cõi Ðại Thiên. Nếu nghe được một kệ chánh pháp chưa từng nghe thời Bồ Tát rất
vui mừng hơn là được ngôi Chuyển Luân Vương. Nếu được nghe một kệ chánh pháp có
thể thanh tịnh hạnh Bồ Tát, thời xem hơn là được trăm ngàn vô lượng kiếp ở ngôi
Ðế Thích Phạm Vương.
Nếu có người bảo : Tôi
có một câu Phật pháp có thể thanh tịnh hạnh Bồ Tát, nếu Ngài có thể vào hầm lửa
chịu nổi sự nóng cháy thời tôi sẽ cho Ngài.
Bấy giờ Bồ Tát tự nghĩ
rằng : Tôi do một câu pháp của Phật nói mà được thanh tịnh Bồ Tát hạnh, thời
dầu ngọn lửa lớn đầy cõi Ðại Thiên, tôi còn muốn từ trên trời Phạm Thiên nhảy
xuống lửa để lấy được câu Phật pháp, huống là hầm lửa nhỏ này mà vào không
được. Hiện tại tôi vì Phật pháp đáng lẽ phải lãnh lấy tất cả sự khổ nơi địa
ngục, huống là sự khổ nhỏ mọn nơi nhơn gian.
Bồ Tát này phát tâm
tinh tấn cần cầu Phật pháp như vậy, như chỗ đã được nghe mà suy gẫm tu hành.
Bồ Tát này khi đã nghe
pháp liền nhiếp tâm an trụ nơi chỗ vắng lặng suy nghĩ rằng : Như lời Phật dạy
tu hành mới chứng được Phật pháp, chẳng phải chỉ miệng nói mà thanh tịnh được.
Chư Phật tử ! Lúc Bồ
Tát này an trụ nơi Phát Quang Ðịa liền xa lìa dục ác, có giác có quán, ly dục
sanh hỷ lạc, trụ nơi Sơ thiền. Diệt giác quán, nhứt tâm thanh tịnh không giác
quán, định sanh hỷ lạc, trụ nơi đệ Nhị thiền. Lìa hỷ trụ nơi xả, có niệm chánh
biết thân thọ lạc Chư Phật đã nói, hay bỏ có niệm, thọ lạc trụ đệ Tam thiền.
Dứt lạc, trước trừ sự khổ mừng lo, diệt bất khổ, bất lạc, xả niệm thanh tịnh
trụ đệ Tứ thiền. Siêu tất cả sắc tưởng, diệt hữu đối tưởng, chẳng nhớ các thứ
tưởng, vào hư không vô biên, trụ hư không vô biên xứ. Siêu tất cả hư không vô
biên xứ nhập vô biên thức, trụ thức vô biên xứ. Siêu tất cả thức vô biên xứ,
nhập vô thiểu sở hữu, trụ vô sở hữu xứ. Siêu tất cả vô sở hửu xứ, trụ phi hữu
tưởng phi vô tưởng xứ. Ðây chỉ do tùy thuận theo pháp lành, trọn không thích
không chấp.
Chư Phật tử ! Bồ tát
này tâm tùy nơi đức từ duy nhứt rộng lớn vô lượng, không oán, không đối, không
chướng, không não, đến khắp tất cả chỗ, khắp pháp giới hư không giới, khắp tất
cả thế gian. An trụ đức bi, hỷ và xả cũng như vậy.
Chư Phật tử ! Bồ tát
này được vô lượng sức thần thông, có thể chấn động đại địa. Một thân hiện nhiều
thân, nhiều thân làm một thân, hoặc ẩn hoặc hiển, núi vách đá các vật chướng
đều qua lại vô ngại như hư không. Ở giữa hu không ngồi kiết già bay đi như chim
bay. Vào đất như vào nước, đi trên nước như trên đất. Thân phát khói lửa như đám
lửa lớn, lại tuôn nước mưa như mây lớn. Mặt trời, mật trăng ở hư không có oai
lực lớn mà có thể lấy tay rờ rẫm bưng nắm. Thân thể tự tại cao đến Phạm Thiên.
Thiên nhĩ của Bồ Tát
này thanh tịnh hơn tai người, nghe được cả tiếng trời, người nhẫn đến tiếng muỗi
mòng không luận gần hay xa.
Bồ Tát này dùng tha
tâm trí, biết tâm chúng sanh khác đúng như thật. Như chúng sanh có tâm tham
thời biết là có tâm tham, lìa tâm tham thời biết là lìa tâm tham, có tâm sân
hay tâm si, thời biết là có tâm sân hay tâm si, lìa tâm sân hay lìa tâm si thời
biết là lìa tâm sân, lìa tâm si. Nhẫn đến tán tâm, định tâm, quảng đại tâm, vô
lượng tâm, vô thượng tâm đều biết đúng như thiệt.
Bồ Tát này nhớ biết vô
lượng đời trước sai khác nhau. Như là nhớ biết một đời, hai đời, nhẫn đến vô
lượng trăm ngàn đời; kiếp thành, kiếp hoại, vô lượng kiếp thành hoại. Thuở đó
tôi từng ở xứ đó, tên họ đó, dòng họ như vậy, ăn uốngnhư vậy, sống bao lâu khổ
vui như vậy. Từ xứ đó chết sanh đến xứ này, hình dạng như vậy, tướng mạo như
vậy, tiếng nói như vậy. Quá khứ vô lượng đời sai khác như vậy đều có thể nhớ
biết.
Bồ Tát này Thiên mhãn
thanh tịnh hơn mắt người. Thấy các chúng sanh lúc sống lúc chết, sắc tốt sắc
xấu, đường lành đường dữ theo nghiệp mà đi. Nếu chúng sanh đó gây tạo nghiệp ác
nơi thân, nơi lời, nơi ý tưởng, chế nhạo Hiền Thánh, đầy đủ tà kiến và nghiệp
nhơn duyên tà kiến, sau khi chết tất đọa ác đạo, sanh vào địa ngục. Nếu chúng
sanh thân tạo nghiệp lành, lời và ý cũng lành, chẳng khinh Hiền Thánh, đầy đủ
chánh kiến và nghiệp nhơn duyên chánh kiến, sau khi chết tất sanh thiện đạo
trong loài trời, loài người. Thiên nhãn của Bồ Tát đều thấy biết như thiệt.
Bồ Tát này đối với các
Thiền, Tam muội, Tam ma bát đề, có thể nhập, có thể xuất, nhưng chẳng nương sức
thiền định để thọ sanh, mà chỉ theo chỗ có thể viên mãn Bồ đề phần, dùng sức ý
nguyện mà thọ sanh trong đó.
Chư Phật tử ! Bồ tát
này trụ bực Phát Quang Ðịa, do nguyện lực mà được thấy nhiều đức Phật, được
thấy trăm đức Phật, ngàn đức Phật, trăm ngàn đức Phật, nhẫn đến thấy trăm ngàn
ức na do tha đức Phật. Ðều dùng quảng đại tâm, thâm tâm để cung kính, tôn
trọng, phụng thờ, cúng dường và cũng cúng dường chúng Tăng. Bồ Tát đem thiện
căn này hồi hướng Vô thượng Bồ đề. Ở chỗ Ðức Phật, cung kính nghe pháp nghe
xong thọ trì rồi tùy sức mà tu hành.
Bồ Tát này quán sát
tất cả pháp nhơn duyên bất sanh bất diệt mà có kiến phược. Trước dứt trừ tất cả
dục phược, sắc phược và hữu phược, cả vo minh phược đều càng yếu mỏng. Vì trong
vô lượng trăm ngàn ức na do tha kiếp chẳng tích tập nên tham, sân, si đều được
trừ diệt. Tất cả căn lành càng thêm sáng sạch.
Chư Phật tử ! Ví như
chơn kim khéo luyện thời cân chẳng giảm mà càng thêm sáng sạch.
Cũng vậy, Bồ Tát trự
bực Phát Quang Ðịa này, vì chẳng tích tập nên tham, sân, si đều dứt trừ, bao
nhiêu thiện căn càng thêm sáng sạch.
Bồ Tát này về những
tâm nhẫn nhục, nhu hòa, thuận hiệp, vui đẹp, chẳng sân, chẳng động, chẳng
trược, không cao hạ, chẳng mong đền đáp, lòng báo ân, tâm chẳng dua vạy, chẳng
phỉnh dối, không thâm hiểm, càng thêm thanh tịnh.
Trong bốn nhiếp pháp,
Bồ Tát này thiên nhiều về lợi hành, và thiên nhiều về nhẫn nhục trong mười môn
Ba la mật. Với những pháp môn khác tùy phần, tùy sức mà tu tập.
Chư Phật tử ! Bồ tát
trụ bực Phát Quang Ðịa thứ ba này phần nhiều hiện thân làm Ðao Lợi Thiên Vương,
có thể dùng phương tiện làm cho chúng sanh lìa bỏ tham dục. Những công hạnh bố
thí, ái ngữ, lợi hành, đồng sự đều không rời niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng,
nhẫn đến chẳng rời niệm đầy đủ Nhứt thiết chủng trí.
Bồ Tát này lại nghĩ
rằng : Nơi tất cả chúng sanh, tôi sẽ là thượng thủ, là thắng, là thù thắng, là
diệu, là vi diệu, là thượng, là vô thượng, nhẫn đến là người y chỉ của Nhứt
thiết chủng trí.
Bồ Tát này nếu chuyên
cần tinh tấn, trong khoảng một niệm được trăm ngàn tam muội, được thấy trăm
ngàn đức Phật, biết thần lực của trăm ngàn đức Phật, có thể chấn động trăm ngàn
thế giới, nhẫn đến thị hiện trăm ngàn thân Phật, mỗi mỗi thân Phật hiện trăm
ngàn Bồ Tát làm quyến thuộc. Nếu dùng nguyện lực thù thắng, Bồ Tát này tự tại
thị hiện hơn số trên, trăm kiếp, ngàn kiếp, nhẫn đến trăm ngàn ức na do tha
kiếp không thể tính đếm biết được.
Kim Cang Tạng Bồ Tát
muốn tuyên lại nghĩa này mà nói kệ rằng :
Thanh tịnh an trụ tâm
sáng thạnh
Tâm nhàm lìa, không
tham, không hại
Tâm kiên cố, dũng mãnh,
rộng lớn
Bực trí dùng đây vào
Tam Ðịa
Bồ Tát trụ bực Phát
Quang Ðịa
Quán thấy hữu vi :
khổ, vô thường
Bất tịnh, bại hoại mau
tan diệt
Không bền, không dừng,
không qua lại.
Xem pháp hữu vi như
bịnh nặng
Buộc ràng bởi ưu bi,
khổ não
Lửa mạnh tam độc hằng
cháy hực
Từ vô thủy đến nay
chẳng dứt
Nhàm lìa ba cõi chẳng
tham chấp
Chuyên cầu Phật trí
không niệm lạ
Khó nghĩ khó lường
không sánh kịp
Vô lượng vô biên không
bức não
Thấy Phật trí rồi
thương chúng sanh
Cô độc không chỗ nương
cứu hộ
Ba độc cháy hừng
thường thiếu khốn
Ở ngục ba cõi luôn
chịu khổ.
Phiền não cột trói mê
không trí
Chí nguyện hạ liệt mất
pháp bửu
Tùy thuận sanh tử sợ
Niết Bàn
Tôi phải cứu họ siêng
tinh tấn.
Toan cầu trí huệ lợi
chúng sanh
Nghĩ phương tiện gì
khiến giải thoát.
Chẳng rời Như Lai trí
vô ngại
Kia lại phát khởi huệ
vô sanh.
Nghĩ rằng huệ này do
nghe pháp
Suy nghĩ như vậy tự
siêng gắng
Ngày đêm nghe tu không
xen hở
Chỉ dùng chánh pháp
làm tôn trọng.
Quốc thành, tiền của, các
trân bửu
Vợ con, quyến thuộc và
ngôi vua
Bồ Tát vì pháp tâm
cung kính
Tất cả như vậy đều thí
xả
Ðầu, mắt, tai, mũi,
lưỡi và răng
Tay, chân, xương, tủy,
tim, máu, thịt
Thí xả tất cả chưa là
khó
Chỉ cho nghe pháp là
rất khó.
Dầu có ai đến nói Bồ Tát.
Nếu nhảy vào được
trong hầm lửa
Tôi sẽ truyền cho Phật
pháp bửu
Nghe nói vào lửa không
khiếp sợ.
Dầu cho lửa đầy cõi
Ðại Thiên
Thân từ trời Phạm mà
nhảy vào
Vì cầu Phật pháp xem
không khó
Huống là nhơn gian
những khổ nhỏ.
Từ sơ phát tâm đến
thành Phật
Tất cả sự khổ ngục A
Tỳ
Vì nghe Phật pháp đều
chịu được
Huống là sự khổ của
nhơn gian.
Nghe Phật pháp rồi
Chánh tư duy
Lại được Tứ thiền, Vô
sắc định
Tứ đẳng, Ngũ thông lần
lượt khởi
Chẳng theo định lực để
thọ sanh.
Bồ Tát ở đây thấy
nhiều Phật
Cúng dường nghe pháp
tâm quyết định
Dứt các tà hoặc càng
thanh tịnh
Như luyện chơn kim
chất không giảm.
Bực này thường làm
Thiên Ðế Thích
Hóa đạo vô lượng chúng
cõi Trời
Khiến bỏ tâm tham ở
đạo lành
Một bề chuyên cầu công
đức Phật
Phật tử ở đây siêng
tinh tấn
Trăm ngàn tam muội đều
đầy đủ
Thấy trăm ngàn Phật
thân oai nghiêm
Nếu dùng nguyện lực
hơn vô lượng
Lợi ích khắp tất cả
chúng sanh
Công hạnh tối thượng
của Bồ Tát
Phát Quang Ðịa có như
vậy thảy
Tôi y theo nghĩa đã
giải thích.