Hán Dịch: Ðại-Sư Thật-Xoa-Nan-Ðà - Việt Dịch: HT Thích Trí Tịnh
Phật Học Viện quốc Tế Xuất Bản PL 2527 - 1983
PHẨM THẬP ĐỊA
THỨ HAI MƯƠI SÁU
(Hán Bộ Từ quyển 34 Đến Hết Quyển 39)
(Hán bộ quyển 36)
Phật tử đã nghe hạnh rộng lớn
pháp thù thắng thâm diệu đáng ưa
Lòng đều hớn hở rất mừng vui
Rải khắp hoa thơm cúng dường Phật.
Lúc Bồ Tát diễn diệu pháp này
Ðại địa, biển cả đều chấn động
Tất cả Thiên nữ đều hoan hỷ
Ðều phát diệu âm đồng ca ngợi
Tự Tại Thiên Vương rất vui mừng.
Rải ma ni bửu cúng dường Phật
Khen rằng : Phật vì ta xuất thế
Diễn nói công hạnh pháp đệ nhứt.
Nghĩa của các Ðịa như đã giải
Trong trăm ngàn kiếp rất khó gặp
Nay tôi bỗng nhiên mà được nghe
Diệu pháp thắng hạnh của Bồ Tát.
Mong lại diễn nói bực thông huệ
Ðạo hạnh quyết định của Ðịa sau
Lợi ích tất cả hành Trời, người
Ðại chúng hội này đều mong mỏi.
Dũng mãnh đại tâm Giải Thoát Nguyệt
Thỉnh Kim Cang Tạng đại Bồ Tát :
Ðệ tam chuyển vào đệ Tứ địa
Có hành tướng gì xin tuyên nói.
Kim Cang Tạng Bồ Tát bảo Giải Thoát
Nguyệt Bồ Tát rằng : Thưa Phật tử ! Ðại Bồ Tát từ Ðệ tam Phát Quang Ðịa đã khéo
thanh tịnh, muốn vào Ðệ tứ Diệm Huệ Ðịa, phải tu hành mười pháp minh môn.
Ðây là mười pháp :
Quán sát chúng sanh giới, quán sát
pháp giới, quán sát thế giới, quán sát hư không giới, quán sát thức giới, quán
sát dục giới, quán sát sắc giới, quán sát vô sắc giới, quán sát quảng tâm tín
giải giới, quán sát đại tâm tín giải giới, Bồ Tát do mười pháp minh môn này mà
được vào Ðệ tứ Diệm Huệ Ðịa.
Chư Phật tử ! Bồ tát an trụ nơi Diệm
Huệ Ðịa này thời vì có thể dùng mười pháp do trí thành thục nên được nội pháp
của đệ Tứ địa sanh vào nhà Như Lai.
Ðây là mười pháp do trí thành thục :
Vì thâm tâm bất thối, vì trong Tam
Bảo sanh tịnh tín rốt ráo chẳng hoại, vì quán hành pháp sanh diệt, vì quán các
pháp tự tánh vô sanh, vì quán thế gian thành hoại, vì quán nhơn nơi nghiệp mà
có sanh, vì quán sanh tử và Niết Bàn, vì quán chúng sanh quốc độ nghiệp, vì
quán thời gian trước thời gian sau, vì quán vô sở hữu tận.
Chư Phật tử ! Bồ tát trụ bực đệ Tứ
địa này quán nội thân, theo thân quán niệm siêng năng dũng mãnh trừ sự tham lo
của thế gian. Quán ngoại thân, theo thân quán niệm siêng năng dũng mãnh trừ sự
tham lo của thế gian. Quán nội ngoại thân, theo thân quán niệm siêng năng dũng
mãnh trừ sự tham lo của thế gian.
Cũng vậy, quán nội thọ, ngoại thọ,
nội ngoại thọ, theo thọ quán. Quán nội tâm, ngoại tâm, nội ngoại tâm, theo tâm
quán. Quán nội pháp, ngoại pháp, nội ngoại pháp, theo pháp quán niệm siêng năng
dũng mãnh trừ sự tham lo của thế gian.
Bồ Tát này đối với pháp bất thiện
chưa sanh, cì cho nó chẳng sanh mà muốn siêng tinh tấn phát tâm chánh đoạn. Với
pháp bất thiện đã sanh, vì dứt nó mà muốn siêng tinh tấn phát tâm chánh đoạn.
Với pháp thiện chưa sanh, vì cho nó sanh mà muốn siêng tinh tấn phát tâm chánh
hành. Với pháp thiện đã sanh, vì cho nó còn mãi không mất càng thêm rộng lớn,
mà muốn siêng tinh tấn phát tâm chánh hành.
Bồ Tát này tu hành dục định, dứt
hành pháp thành tựu thần túc, y chỉ nơi yểm, y chỉ nơi ly, y chỉ nơi diệt, hồi
hướng nơi xả. Tu hành tinh tấn định, tâm định, quán định, dứt hành pháp thành
tựu thần túc, y chỉ nơi yểm, y chỉ nơi ly, y chỉ nơi diệt, hồi hướng nơi xả.
Bồ Tát này tu hành tín căn, tinh tấn
căn, niệm căn, định căn, huệ căn, y chỉ nơi yểm, y chỉ nơi ly, y chỉ nơi diệt,
hồi hướng nơi xả.
Bồ Tát này tu hành tín lực, tinh tấn
lực, niệm lực, định lực, huệ lực, y chỉ nơi yểm, y chỉ nơi ly, y chỉ nơi diệt,
hồi hướng nơi xả.
Bồ Tát này tu hành niệm giác phần,
trạch pháp giác phần, tinh tấn giác phần, hỷ giác phận, khinh an giác phần,
định giác phần, xả giác phần, y chỉ nơi yểm, y chỉ nơi ly, y chỉ nơi diệt, hồi
hướng nơi xả.
Bồ Tát này tu hành chánh kiến, chánh
tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh
định, y chỉ nơi yểm, y chỉ nơi ly, y chỉ nơi diệt, hồi hướng nơi xả.
Bồ Tát tu hành những công đức như
vậy, vì chẳng bỏ chúng sanh, vì bổn nguyện giữ gìn, vì đại bi làm đầu, vì đại
từ thành tựu, vì tư niệm Nhứt thiết chủng trí, vì thành tựu trang nghiêm Phật
độ, vì thành tựu đầy đủ lực, vô úy, bất động, tướng hảo, âm thanh của Như Lai,
vì cầu đạo thượng thượng thù thắng, vì tùy thuận Phật pháp giải thoát thậm thâm
đã nghe, vì tư duy đại trí thiện xảo phương tiện.
Chư Phật tử ! Bồ tát trụ bực Diệm
Huệ Ðịa này, xuất nhập nơi tất cả chấp trước thân kiến, ngã, nhơn, chúng sanh,
thọ giả, uẩn, xứ, giới, để tu duy quán sát đối trị, tất cả sự chấp trước đều xa
rời.
Bồ Tát này nếu thấy những nghiệp nào
bị đức Như Lai quở trách, bị phiền não nhiễm ô thời đều xa lìa. Thấy những
nghiệp nào được đức Như Lai khen ngợi, thuận đạo Bồ Tát, thời đều tu hành.
Chư Phật tử ! Bồ tát này tùy phát
khởi huệ phương tiện đều tu tập đạo và trợ đạo. Vì vậy mà được tam nhuận trạch,
tâm nhu nhuyến, tâm điều thuận, tâm lợi ích an lạc, tâm không tạp nhiệm, tâm
cầu pháp thù thắng thượng thượng, tâm cầu trí huệ thù thắng, tâm cứu tất cả thế
gian, tâm cung kính bực Tôn Ðức không trái lời dạy bảo, tâm khéo tu hành nơi
pháp đã được nghe.
Bồ Tát này biết ơn, biết báo ơn, rất
hòa lành đồng ở an vui, chất trực dịu dàng, không tạp loạn, không ngã mạn, khéo
lãnh lời dạy được lòng của người nói.
Bồ Tát này thành tựu nhẫn như vậy,
thành tựu điều như vậy, thành tựu tịch diệt như vậy, thành tựu nhẫn điều nhu
tịch diệt như vậy, lúc tác ý tu tập công hạnh của địa sau, liền được tinh tấn
không thôi nghỉ, tinh tấn chẳng tạp nhiễm, tinh tấn chẳng thối chuyển tinh tấn
rộng lớn, tinh tấn vô biên, tinh tấn hẩy hừng, tinh tấn vô đẳng đẳng, tinh tấn
vô năng hoại, tinh tấn thành thục tất cả chúng sanh, tinh tấn khéo phân biệt là
đạo hay phi đạo.
Bồ Tát này tâm giới thanh tịnh thâm
tâm chẳng mất, ngộ giải sáng lanh, thiện căn tăng trưởng, lìa cấu trược thế
gian, dứt nghi lầm, đầy đủ minh đoán, đầy đủ hỷ lạc, được chính đức Phật hộ
niệm nên vô lượng chí nguyện đều được thành tựu.
Chư Phật tử ! Bồ tát ở bực đệ tứ
Phát Quang Ðịa này do nguyện lực nên được thấy nhiều đức Phật, nhẫn đến thấy
trăm ngàn ức na do tha đức Phật, đều kính trọng, phụng thờ, cúng dường và cũng
cúng dường tất cả chúng Tăng. Ðem thiện căn này đều hồi hướng Vô thượng Chánh
giác. Ở chỗ Chư Phật cung kính nghe pháp, nghe xong thọ trì tu hành toàn vẹn.
Rồi lại ở trong pháp của đức Phật đó xuất gia tu hành. Rồi lại tu tập thâm tâm
tín giải, trải qua vô lượng trăm ngàn ức na do tha kiếp, cho các căn lành càng
thêm sáng sạch.
Chư Phật tử ! Ví như thợ kim hoàn
luyện chơn kim làm thành đồ trang sức, những kim khí khác không thể sánh kịp.
Cũng vậy, đại Bô` Tát trụ bực đệ Tứ
địa này có bao nhiêu thiện căn, những thiện căn của các bực dưới không thể sánh
kịp.
Như ma ni bửu thanh tịnh hay phóng
quang minh, những châu báu khác không thể sánh kịp, gió mưa không làm hư được.
Cũng vậy, đại Bồ Tát trụ bực đệ Tứ
địa này có bao nhiêu thiện căn, những thiện căn của các bực dưới không thể so
sánh kịp
Như ma ni bửu thanh tịnh hay phóng
quang minh, những châu báu khác không thể sánh kịp , gió mưa không làm hư được
.
Cũng vậy, Ðại bồ tát trụ bực đệ tứ
địa này, các bồ tát bực dưới không thể sánh kịp,các ma phiền não đều không thể
pháp hoại .
Trong bốn nhiếp pháp, Bồ Tát này
thiên nhiều về đồng sự,trong mười môn ba la mật thiên nhiều về tinh tấn. Với
các pháp môn khác thời tuỳ phần tuỳ sức mà tu tập .
Chư phật tử ! đây là lược nói về bồ
tát đệ tứ diệm huệ địa .
Bồ tát trụ bực này phần nhiều làm dạ
ma thiên vương.Dùng thiện phương tiện hay trừ thân kiến các thứ phiền não cho
chúng sanh, khiến họ ở nơi chánh kiến .
Tất cả công hạnh bố thí, ái ngư,��#7907;i hành , đồng sự thảy đều không
rời niệm phật, niệm pháp, niệm tăng, nhẫn đến không rời nhứt thiết chủng trí
.
Bồ tát này lại nghĩ rằng : trong tất
cả chúng sanh, tôi sẽ là thượng thủ, là thắng, là thù thắng, là diệu, là vi
diệu, là thượng là vô thượng, nhẫn đến là bực y chỉ của nhứt thiết chủng trí .
Bồ tát này nếu siêng tinh tấn thời
trong khoảng một niệm được nhập ức số tam muội, được thấy ức số đức phật, được
biết thần lực của ức số đức phật, hay chấn động ức số thế giới, nhẫn đến hay
thị hiện ức số thân phật, mỗi mỗi thân hiện ức số bồ tát làm quyến thuộc. Nếu
do nguyện lực thù thắng thời bồ tát này tự tại thị hiện hơn số trên đây, trong
trăm ngàn ức na do tha kiếp chẳng tính đếm mà biết được .
Kim cang tạng bồ tát muốn tuyên lại
nghĩa này mà nói kệ rằng :
Bồ tát đã tịnh đệ tam địa .
Kế quán chúng sanh , thế , pháp giới
,
Không giới , thức giới và tam
giới
Tâm hiểu thấu rõ hay thẳng vào .
Mới lên diệm địa thêm thế lực
Sanh nhà như lai trọn bất thối
Với phật , pháp , tăng tin sâu
chắc
Quán pháp vô thượng và vô sanh
Quán thế thành hoại , nghiệp có
sanh
Nghiệp có sanh tử , niết bàn
cõi
Quán tiền hậu tế cũng quán tận
Tu hành như vậy sanh nhà phật .
Ðược pháp náy rồi sanh lòng từ
Càng thêm siêng tu tứ niệm xứ
Thân , thọ , tâm , pháp , nội ngoại
quán
Tham ái thế gian đều trừ dứt .
Bồ tát siêng tu tứ chánh cần
Dứt trừ pháp ác , thêm thiện
pháp
Thần túc , căn , lực đều khéo
tu
Giác phần , chánh đạo cũng tinh tấn
.
Vì độ chúng tu trợ đạo
Từ bi làm trước , bổn nguyện
gìn
Cầu nhứt thiết trí và phật độ
Cũng nhớ thập lực của Như Lai
Tứ vô uý , thập bát bất cộng ,
Tướng hảo trang nghiêm tiếng thâm
mỹ
Cũng cầu diệu đạo chổ giải
thoát
Và công hạnh tu hành đại phương tiện
.
Thân kiến làm đầu sáu mươi hai
Nga ��224; ngã sở vô lượng thứ
Uẩn , xứ , giới thảy những chấp
trước
Trong đệ tử địa lìa tất cả .
Như lai quở trách nghiệp phiền
não
Là nhơn khổ hoạn đều dứt trừ ,
Trí giả tu hành nghiệp thanh
tịnh
Vì độ chúng sanh tu tất cả.
Bồ tát siêng tu chẳng giải đãi .
Liền được đầy đủ cả mười tâm
Chuyên cầu Phật đạo chẳng mỏi nhàm
Chí mong thọ chức độ muôn loại.
Kính trọng Tôn Ðức tuân lời dạy
Biết ơn, dễ bảo không hờn giận
Bỏ mạn, lìa nịnh, lòng dịu dàng
Lại thêm siêng năng chẳng thối
chuyển.
Bồ Tát trụ bực Diệm Huệ này
Tâm Ngài thanh tịnh trọn không mất
Ngộ giải quyết định, thêm căn lành
Lưới nghi uế trược đều dứt hết.
Bực Tứ Ðịa : tối thắng trong người
Cúng dường na do vô lượng Phật.
Ðược nghe chánh pháp cũng xuất gia
Không phá hoại được như vàng thiệt.
Bồ Tát Tứ Ðịa đủ công đức
Dùng trí phương tiện tu đạo hạnh
Chẳng bị loài ma tâm thối chuyển
Ví như ma ni không hư hoại.
Tứ Ðịa thường làm Dạ Thiên Vương
Tự tại nơi pháp chúng tôn trọng
Ðộ khắp quần sanh trừ ác kiến
Chuyên cầu Phật trí tu thiện nghiệp.
Bồ Tát càng thêm sức tinh tấn
Ðược chứng tam muội đều số ức
Nếu dùng nguyện lực tự tại làm
Quá hơn số ức không đếm được.
Như vậy Bồ Tát Diệm Huệ Ðịa
Diệu hạnh thanh tịnh đã thật hành
Công đức nghĩa trí cùng tương ưng
Vì chư Phật tử, tôi đã nói.
Ðại chúng được nghe Diệm Huệ Hạnh
Tỏ ngộ diệu pháp lòng hoan hỷ
Rải hoa hư không khen ngợi rằng :
Lành thay Ðại Sĩ Kim Cang Tạng !
Tự tại Thiên Vương cùng Thiên chúng
Nghe pháp hớn hở trụ hư không
Khắp phóng những mây sáng vi diệu
Cúng dường Như Lai lòng vui đẹp.
Chúng Thiên nữ hòa tấu Thiên nhạc
Cũng dùng lời ca khen ngợi
Phật,
Ðều do Bồ Tát sức oai thần
Trong tiếng đờn ca phát lời này :
Phật nguyện lâu xa nay mới đầy,
Phật đạo lâu xa nay mới được,
Thích Ca Mâu Ni đến Thiên cung
Ðấng Thiên Nhơn Sư nay mới thấy,
Ðại hải lâu xa nay mới động,
Phật quang lâu xa nay mới phóng.
Chúng sanh lâu xa mới an vui,
Tiếng đại từ bi lâu được nghe,
Hạnh Ba la mật đều đã đến
Kiêu mạn tối tăm đều đã trừ
Cùng tột thanh tịnh như hư không
Như hoa sen chẳng nhiễm thế pháp.
Ðấng Ðại Mâu Ni hiện ra đời
Ví như Tu Di vọi trên biển
Cúng Phật có thể dứt các khổ
Cúng dường tất được Như Lai
trí,
Chỗ đây đáng cúng, không gì bằng
Thế nên hoan hỷ cúng dường Phật.
Vô lượng Thiên nữ như vậy thảy
Phát diệu âm thanh ca ngợi
Phật
Tất cả cung kính rất vui mừng
Chiêm ngưỡng Như Lai, đứng yên lặng.
Bấy giờ Bồ Tát Giải Thoát Nguyệt
Lại thỉnh Ðại Sĩ Kim Cang Tạng
Hành tướng của Ðệ Ngũ Ðịa kia
Mong đại Bồ Tát vì tuyên thuyết.
Kim Cang Tạng Bồ Tát bảo Giải Thoát
Nguyệt Bồ Tát rằng : Thưa Phật tử ! Ðại Bồ Tát đệ tứ Diệm Huệ Ðịa công hạnh đã
khéo viên mãn muốn vào đệ ngũ Nan Thắng Ðịa, phải dùng mười thứ tâm bình đẳng
thanh tịnh.
Ðây là mười tâm :
Tâm bình đẳng thanh tịnh đối với
Phật pháp quá khứ, tâm bình đẳng thanh tịnh đối với Phật pháp vị lai, tâm bình
đẳng thanh tịnh đối với Phật pháp hiện tại, tâm bình đẳng thanh tịnh đối với
giới, tâm bình đẳng thanh tịnh đối với tâm, tâm bình đẳng thanh tịnh dứt trừ
kiến nghi hối, tâm bình đẳng thanh tịnh nơi trí đạo phi đạo, tâm bình đẳng
thanh tịnh tu hành tri kiến, tâm bình đẳng thanh tịnh nơi thượng thượng quán
sát tất cả pháp Bồ đề phần, tâm bình đẳng thanh tịnh giáo hóa tất cả chúng
sanh.
Ðại bồ tát dùng mười tâm bình đẳng
thanh tịnh này mà được vào bực đệ ngũ nan thắng địa .
Chư phật tử ! đại bồ tát đã an trụ
bưực đệ ngũ địa do khéo tu pháp bồ đề phần , do khéo tịnh thâm tâm , do cầu
thêm đạo thượng thắng , do tuỳ thuận chơn như , do nguyện lực chấp trì , do từ
mẫn không bỏ tất cả chúng sanh , do chứa nhóm phước trí trợ đạo , do tinh tấn
tu tập chẳng nghỉ , do xuất sanh phương tiện thiện xảo , do quán sát chiếu rõ
các bực trên , do được như lai hộ niệm , do sức niệm trí chấp trì , mà được tâm
bất thối chuyển .
Chư phật tử ! đại bồ tát này biết
như thiệt đây là khổ thánh đế, đây thật là khổ tập thánh đe,ᠦ#273;ây là khổ diệt thánh đế, đây là
diệt đạo đế .
Bồ tát này khéo biết tục đế, khéo
biết tướng đe,ᠫhéo
biết sai biệt đế, khéo biết thành lập đế, khéo biết sự đế, khéo biết sanh đế,
khéo biết tận vô sanh đế,ᠫhéo
biết nhập đạo trí đế khéo biết tất cả bồ tát địa thứ đệ thành tựu đế nhẫn đến
khéo biết Như Lai trí thành tựu đế .
Bồ tát này vì tuỳ lòng sở thích của
chúng sanh làm cho họ hoan hỷ nên biết tục đế . Vì thông đạt nhứt thiết tướng
nên biết đệ nhứt nghĩa đế . Vì tỏ thấu tự tướng cộng tướng của các pháp nên
biết tướng đế . Vì rõ phần vị sai biệt của các pháp nên biết sai biệt đế . Vì
khéo phân biệt uẩn xứ giới nên thành lập đế . Vì tỏ ngộ các loài sanh tương tục
nên biết sanh đế . Vì tất cả nhiệt não rốt ráo diệt nên biết tận vô sanh trí đế
. Vì xuất sanh vô nhị nên biết nhập đạo trí đế . Vì chánh giác ngộ tất cả hành
tướng nên biết tất cả bồ tát địa thứ đệ thành tựu đế nhẫn đến biết Như Lai trí
thành tựu đế .
Ðây là dùng sức tín giải trí mà biết
chẳng phải dùng sức cứu cánh trí .
Chư phật tử! Ðại bồ tát này được các
đế trí thời biết như thiệt tất cả pháp hửu vi hư vọng dối trá gạt phỉnh kẻ ngu
, vì thế nên đối với tất cả chúng sanh càng tăng thêm quang minh đại bi và đại
từ .
Chư phật tử ! đại bồ tát được trí
lực như vậy chẳng bỏ một chúng sanh , thường cầu phật trí , quán sát như thiệt
tất cả hạnh hửu vi về tiến tế và hậu tế : rõ biết từ tiền tế vô minh , ái , hửu
mà sanh , do đây sanh tử lưu chuyển . Nơi các nhà ngũ uẩn không thể thoát ra ,
thêm lớn sự khổ , không ngã , không thọ giả , không gì kẻ dưỡng dục , không gì
là kẻ luôn thọ lấy than loài sau , rời ngã và ngã sở .
Như tiền tế , hậu tế cũng như vậy .
đều là vô sở hửu , hư vọng tham trước , dứt hết thời được giải thoát . Hoặc có
hoặc không điều biết như thiệt .
Chư phật tử ! Ðại bồ tát này lại
nghĩ rằng : hàng phàm phu này ngu si vô trí thật là đáng thương . Có vô số thân
đã mất , nay mất , sẽ mất . Diệt mất như vậy mà chẳng thể đối với thân có quan
niệm nhàm lìa , lại thêm lớn cơ quan khổ sở , theo dòng sanh tử chẳng trở lại
được . Nơi những nhà ngũ uẩn chẳng cầu thoát khỏi , chẳng biết lo sợ bốn rắn
độc lớn , không nhổ đượcnhững mũi tên kiêu mạn kiến chấp , không dập tắt được
ngọn lưởi tham , sân , si , không pháp tan được màn vô minh , không làm khô cạn
được biển lớn ái dục . Họ chẳng biết cầu đấng đại thánh đạo sư đủ mười trí lực
, mà vào trong rừng rậm ma ý . Ở trong biển sanh tử họ bị lượng sóng giác quán
cuốn trôi nhận chìm .
Chư phật tử ! đại bồ tát này lại
nghĩ rằng : những chúng sanh này thọ khổ như vậy , có cùng khốn đốn , không chổ
nương , không ai cứu , không đất , không nhà , không mắt , không người dẫn dắt
. Họ bị vô minh che loà , màn tối chụp trùm .
Nay tôi vì họ mà tu hành những pháp
trợ đạo phước trí . Ðơn độc pháp tâm chẳng cầu bè bạn . Ðem công đức này làm
cho chúng sanh được rốt ráo thanh tịnh , nhẫn đến chứng được mười trí kực vô
ngại của Như Lai .
Chư phật tử ! Ðại bồ tát này dùng
trí huệ quán sát thiện căn đã tu như vậy , đều vì cứu hộ tất cả chúng sanh ,
lợi ích tất cả chúng sanh , thương xót tất cả chúng sanh , thành tựu tất cả
chúng sanh , thương xót tất cả chúng sanh , thành tựu tất cả chúng sanh , giải
thoát tất cả chúng sanh nhiếp thọ tất cả chúng sanh , khiến tất cả chúng sanh
lìa những khổ não , khiến tất cả chúng sanh đều được thanh tịnh , khiến tất cả
chúng sanh đều được điều phục , khiến tất cả chúng sanh chứng nhập niết bàn .
Chư phật tử ! Ðại bồ tát an trụ bực
đệ ngũ nan thắng địa , gọi là " niệm" là vì chẳng quên chánh pháp ,
gọi là " trí " là vì hay khéo nói quyết rõ , gọi là " hửu
trí" là vì biết ý thú kinh thứ đệ liên hiệp , gọi là " tàm quý"
là vì hộ mình hộ người , gọi la "� ��ên
cố" là vì chẳng bỏ giới hạnh , gọi là "giác" là vì hay quán sát
thị xứ phi xứ , gọi là " tuỳ trí" là vì chẳng tuỳ nơi khác , gọi là
" tuỳ huệ" là vì khéo biết câu sai biệt đúng nghĩa hay chẳng đúng
nghĩa , gọi là " thần thông" , là vì khéo tu thiền định , gọi là
" phương tiện thiện xảo" là vì có thể thật hành theo thế gian , gọi
là " vô yểm túc " là vì khéo chứa phước đức , gọi là " bất hưu
tức " là vì thường cầu trí huệ , gọi là " bất bì quyện " là vì
chứa đại từ bi , gọi là " siêng tu vì người " là vì muốn cho tất cả
chúng sanh chứng nhập niết bàn , gọi là " cần cầu chẳng giải đãi" là
vì cầu trí lực , vô uý , bất cộng pháp của Như Lai , gọi là " mống ý hay
làm" là vì thành tựu trang nghiêm phật độ , gọi là " siêng tu công
hạnh lành" là vì hay đầy đủ tướng hảo , gọi là " thường siêng tu
tập" là vì cầu trang nghiêm thân , ngữ , ý Như Lai , gọi là " rất tôn
trọng cung kính phá" là vì đúng như lời dạy của tất cả đại bồ tát mà thật
hành , gọi là " tâm không chướng ngại" là vì dùng đại phương tiện
thường du hành thế gian , gọi là " ngày đêm xa lìa những tâm khác" là
vì thích giáo hoá chúng sanh .
Chư Phật tử ! lúc đại Bồ Tát siêng
tu hành như vậy , dùng Bố thí để giáo hoá chúng sanh , dùng ái ngữ lợi hành và
đồng sự để giáo hoá chúng sanh . Thị hiện sắc thân để giáo hoá chúng sanh ,
diễn thuyết các pháp để giáo hoá chúng sanh . khai thị Bồ Tát hạnh để giáo hoá
chúng sanh . Hiển thị lỗi lầm khổ sở của sanh tử để giáo hoá chúng sanh . Khen
ngợi trí huệ lợi ích của Như Lai để giáo hoá chúng sanh . Hiện sức đại thần
thông để giáo hoá chúng sanh . Hiện sức đại thần thông để giáo hoá chúng sanh .
Dùng các môn phương tiện để giáo hoá chúng sanh . Dùng các môn phương tiện để
giáo hoá chúng sanh
Chư Phật tử ! đại Bồ Tát này có thể
siêng năng phương tiện như vậy để giáo hoá chúng sanh . lòng luôn tương tục
thẳng đến phật trí . Thiện căn đã tu không hề thối chuyển . Thường siêng tu học
những pháp hành thù thắng .
Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát này vì lợi
ích chúng sanh nên gồm học tập tất cả kỹ nghệ thế gian , thông đạt cả những môn
văn tự , toán số , đồ thơ , ấn loát , các sách luận về địa , thuỷ , hoả phong.
Lại giỏi phương thuốc trị lành các bịnh : điên cuồng , càn tiêu , quỷ mị , cổ
độc . lại giỏi những thứ văn bút , tấn vịnh , ca vũ, kỷ nhạc,diễu cười, đàm
luận.Biết rành cách thức kiến thiết thành trì,thôn ấp,nhà cửa,vườn tược, suối
ao, cây cỏ, hoa trái, dược thảo.Biết những nơi có mõ vàng, bạc, châu, ngọc.Giỏi
xem biết rành mặt trời, mặt trăng, tinh tú, chim hót, địa chấn, chiêm bao tốt
xấu, thân tướng sang hèn.Những môn trì giới, nhập thiền định,vô lượng thần
thông,tứ vô sắc và tất cả việc thế gian khác,nếu là những sự không làm tổn
chúng sanh mà đem lại lợi ích thời đều khai thị cho họ,lần đưa họ đến phật
phápvô thượng .
Chư Phật tử ! đại Bồ Tát trụ bực Nan
thắng này , do nguyện lực được thấy nhiều Ðức phật , nhẫn đến thấy trăm ngàn ức
na do tha đức phật , nhẩn đến thấy trăm ngàn ức na do tha đức phật , đều kính
trọng cúng dường,cũng cúng dường tất cả chúng tăng . Ðem thiện căn này hồi
hướng vô thượng Bồ đề . nơi Chư Phật cung kính nghe pháp , nghe xong thọ trì
tuỳ sức tu hành.Sau đó xuất gia lại nghe Phật pháp được đà la ni làm qua trăm
kiếp nhẫn đến vô lượng trăm ngàn ức na do tha kiếp,những thiện căn đã có càng
thêm sáng sạch .
Chư Phật tử ! ví như chơn kim dùng
ngọc xa cừ để dồi bóng thời càng thêm sáng sạch .
Cũng vậy, Bồ Tát này dùng Phương
tiện huệ tư duy quán sát, những thiện căn đã có càng thêm sáng sạch .
Chư Phật tử ! Bồ Tát trụ bực nan
thắng địa dùng tiện trí thành tựu công đức,những thiện căn của bực dưới không
thể sánh kịp .
Chư Phật tử ! như mặt trời mặt trăng
cung điện quang minh do sức gió chấp trì nên không bị chướng ngăn phá hoại,
cũng chẳng phải sức gió khác làm khuynh động được .
Cũng vậy , những thiện căn của bực
Bồ Tát này , do phương tiện trí theo dõi quán sát nên không bị ngăn hoại,
cũngchẳng phải thiện căn của tất cả độc giác, thanh văn và thế gian làm khuynh
động được .
Trong mười môn ba la mật, Bồ Tát này
thiên nhiều về thiền ba la mật, với các môn khác thời tuỳ phần tuỳ sức .
Chư Phật tử ! đây là lược nói về đệ
ngũ nan thắng địa Bồ Tát .
Bồ Tát ở bực này thường làm đâu suất
thiên vương .Ðối với chúng sanh đều được tự tại.Dẹp trừ tất cả ngoại đạo tà
kiến, có thể làm cho chúng sanh trụ trong thiệt đế .
Tất cả công hạnh bố thí, ái ngữ, lợi
hành, đồng sự đều chẳng rời niệm phật, niệm pháp,niệm tăng, nhẫn đến chẳng rời
niệm đầy đủ nhứt thiết chủng trí .
Bồ Tát này lại nghĩ rằng : tôi sẽ ở
trong chúng sanh làm thượng thủ, làm thắng, làm thù thắng, làm diệu, làm vi
diệu , làm vô thượng nhẫn đến làm bực y chỉ của nhứt thiết chủng trí .
Bồ Tát này nếu phát cần tinh tấn,
trong khoảng một niệm được ngàn ức tam muội,thấy ngàn ức Ðức Phật , biết thần
lực của ngàn ức Ðức Phật,có thể chấn động ngàn ức thế giới,nhẫn đến thị hiện
ngàn ức thân phật , mỗi mỗi thân hiện ngàn ức Bồ Tát làm quyến thuộc .
Nếu dùng nguyện lực thù thắng tự tại
để thị hiện thời hơn vô số trên đây , nhẫn đến trăm ngàn ức na do tha kiếp
chẳng thể đếm được .
Kim cang tạng Bồ Tát muốn tuyên lại
nghĩa này mà nói kệ rằng :
Bồ Tát tứ địa đã thanh tịnh
Tư duy tam thế phật bình đẳng
Giới,tâm,trừ nghi,đạo phi đạo
,
Quán sát như vậy vào ngũ địa .
Niệm xứ làm cung ,căn làm tên .
Chánh cần làm ngựa , xe : thần túc ,
Giáp sắt ngũ lực phá oán địch
,
Mạnh mẽ bất thối vào ngũ địa ,
Tàm quý y phục, hoa giác phần
Tịnh giới y phục, hoa giác
phần
Tịnh giới làm hương, thiền hương
thoa
Trí huệ phương tiện diệu trang
nghiêm
Vào rừng tổng trì, vườn tam muội .
Như ý làm chân,cổ chánh niệm ,
Từ bi làm mắt, răng trí huệ ,
Ðấng sư tử vô ngã rống vang động .
Phá giặc phiền não vào ngũ địa
Bồ Tát trụ bực đệ ngũ này
Chuyển tu thắng thượng đạo thanh
tịnh
Chí cầu Phật pháp chẳng bất thối
chuyển
Gẩm nhớ từ bi không nhàm mõi .
Chứa nhóm phước trí thắng công
đức
Tinh tấn phương tiện quán bực
trên
Phật lực gia hộ đủ niệm huệ
Rõ biết tứ đế như thiệt .
Khéo biết thế đế , thắng nghĩa
đế
Tướng đế , sai biệt thành lập đế ,
Sự đế, sanh , tận và đạo đế.
Nhẫn đến Như Lai vô ngại đế.
Quán đế như vậy đầu vi diệu
Chưa được vô ngại thắng giải thoát .
Do đây hay sanh thắng công đức .
Cho nên vượt hơn thế trí huệ .
Ðã quán đế rồi biết hửu vi .
Thể tánh hư dối không bền chắc
Ðược phần từ quang của chư phật
vì lợi chúng sanh cầu phật trí .
Quán pháp hửu vi thuở trước sau
Vô minh tối tăm , ái ràng buộc
Lưu chuyển xoắn trong quả khổ
Không ngã, không nhơn, không thọ
mạng .
Ái thủ làm nhơn thọ khổ sau
Muốn tìm ngằn mé không thể được ,
Mê vọng trôi chìm không thuở
về
Bọn này đáng thương tôi phải độ .
Nhà : uẩn, rắn : cõi, mũi tên :
chấp
Tâm hoả hừng hực, si tối nặng
Sông ái cuốn trôi chẳng rảnh
xem
Biển khổ dật dờ không người dắt .
Rõ biết như vậy siêng tinh tấn
Chổ làm đều vì độ chúng sanh
Gọi là người có niệm có huệ
Nhẫn đến có giác giải phương tiện .
Tu tập phước trí không nhàm đủ
Cung kính đa văn chẳng mõi
nhàm
Cõi nước tướng hảo đều trang
nghiêm
Như vậy đều ví chúng sanh cả
Vì muốn giáo hoá các thế gian
Giỏi biết thơ số cách ấn loát
Và cũng biết rành các phương
thuốc
Chửa trị bịnh tật đều được lành .
Văn từ , ca vũ đều khéo giói
Nhà cửa,vườn ao đều an ổn .
Mõ vàng , bạc ngọc đều pháp
hiện
Vô lượng chúng sanh nhờ lợi ích .
Nhựt, nguyệt, tinh tú và địa chấn
Nhẫn đến thân tướng cũng quán
sát
Tứ thiền,vô sắc và thần thông
Vì lợi thế gian đều hiển thị .
Trí giả trụ bực nan thắng này
Cúng vô lượng phật và nghe
pháp
Như dùng diệu bửu trau chơn kim
Thiện căn đã có càng sáng sạch .
Ví như tinh tú ở hư không
Phong lực chấp trì không tổn động .
Cũng như hoa sen không dính
nước
Bồ Tát độ đời cũng như vậy .
Bực này thường làm đâu suất
vương
Hay dẹp ngoại đạo các phật trí
Nguyện được thập lực độ tận chúng
sanh
Ngài tu hành đại tinh tấn
Liền được cúng dường ngàn ức
phật
Ðắc định, động cõi cũng ngàn
ức
Nếu là nguyện lực lại hơn đây .
Bồ Tát đệ ngũ nan thắng địa
Chơn đạo tối thượng trong nhơn
gian
Tôi cùng các môn phương tiện
lực
Vì Chư Phật đã tuyên thuyết.