Hán Dịch: Ðại-Sư Thật-Xoa-Nan-Ðà - Việt Dịch: HT Thích Trí Tịnh
Phật Học Viện quốc Tế Xuất Bản PL 2527 - 1983
PHẨM THẬP ĐỊA
THỨ HAI MƯƠI SÁU
(Hán Bộ Từ quyển 34 Đến Hết Quyển 39)
(Hán bộ quyển 37)
Bồ Tát đã nghe những thắng
hạnh
Lòng rất hoan hỷ rải hoa thơm
Phóng tịnh quang minh rải bửu
châu
Cúng duờng Như Lai khen nói giỏi .
Trăm ngàn thiên chúng đều vui
mừng
Ðồng ở hư không rải các báu :
Tràng hoa, chuổi ngọc và tràng
phan
Lọng báu, hương thoa đều cúng phật
.
Tự tại thiên vương cùng quyến
thuộc
Lòng sanh hoan hỷ trụ hư không
Rải báu thành mây dùng cúng
dường
Khen rằng Phật tử khéo tuyên thuyết
!
Vô lượng thiên nữ ở hư không
Ðồng tấu nhạc âm ca ngợi phật
Trong tiếng ca nhạc đều nói
rằng
Lời phật hay trừ bịnh phiền não ,
Pháp tánh bổn tịch không hình
tướng
Dường như hư không chẳng phân
biệt
Ngoài những chấp trước , tuyệt nói
phô
Chơn thiệt bình đẳng thường thanh
tịnh .
Nếu muốn thông đạt các pháp
tánh
Nơi có , nơi không lòng chẳng
động
Vì muốn cứu đời siêng tu hành
Từ miệng phật sanh chơn Phật tử .
Bố thí vẫn không thấy có tướng ,
Vốn đứt điều ác gìn giử tịnh giới ,
Hiểu pháp không hại , thường nhẫn
nhịn ,
Biết pháp tánh ly , chuyên tinh tấn
,
Ðã hết phiền não vào thiền định ,
Khéo đạt tánh không,phan biệt pháp
Ðầy đủ trí lực ,hay cứu rộng
Diệt trừ điều ác xưng đại sĩ .
Diệu âm như vậy ngàn vạn thứ
Khen rồi đứng yên chiêm ngưỡng phật
.
Giải thoát nguyệt Bồ Tát rằng : thưa
Phật tử ! đại Bồ Tát đã đủ đệ ngũ địa muốn vào đệ lục hiện tiền địa phải quán
sát mười pháp bình đẳng
Ðây là mười pháp :
Tất cả pháp vì vô tướng nên bình
đẳng vì vô thế nên bình đẳng , vì vô sanh nên bình đẳng,vì vô diệt nên bình
đẳng , vì bổn lai thanh tịnh nên bình đẳng , vì không hý luận nên bình đẳng,vì
không thủ xã nên bình đẳng,vì tịch tịnh nên bình đẳng.Vì như huyễn,như mộng,như
bóng, như vang, như trăng trong nước, như tượng trong gương , như dương diệm,
như biến hoá nên bình đẳng , vì có không bất nhị nên bình đẳng .
Bồ Tát quán sát các pháp như vậy ,
tự tánh thanh tịnh , tuỳ thuận không trái được vào đệ lục hiện tiền địa , được
minh lợi tuỳ thuận nhẫn, chưa được vô sanh pháp nhẫn .
Chư Phật tử ! đại Bồ Tát này quán
như vậy rồi , lại lấy đại làm đầu , đại bi tăng thượng , đại bi đầy đủ , quán
thế gian sanh diệt mà nghĩ rằng:
Thế gian thọ sanh đều do chấp
ngã.Nếu lìa chấp ngã thời không chỗ sanh .
Lại nghĩ rằng : phàm phu không trí
huệ chấp lấy ngã thường tìm có không , suy xét bất chánh, khởi vọng hạnh, làm
đạo tà, nghiệp tội, nghiệp bất động tích tập thêm lớn.Ở trong các nghiệp hành
trồng hột giống tâm hửu lậu hữu thú, lại khởi hậu hữu : sanh và lão tử.Chính là
: nghiệp làm đồng ruộng, thức làm hột giống, vô minh che rợp, nước ái thấm
nhuần, ngã mạn tưới bón, lưới chấp kiến thêm lớn, mọc mầm danh sắc, danh sắc
thêm lớn nẩy chồi ngũ căn , các căn đối nhau sanh ra xúc, xúc đối sanh có thọ,
sau khi thọ rồi mong cầu sanh có ái , ái tăng thêm sanh ra thủ, thêm lớn thủ
sanh ra hữu, đã sanh hữu thời ở trong các loài khởi thân ngũ uẩn gọi là
sanh,suy biển gọi là lão,chết mất gọi là tử. Lúc lão tử sanh ra những nhiệt não
.Do nhiệt não nên đủ thứ khổ ưu sầu, buồn than tập họp lại .Ðây là do duyên mà
tập họp chớ không có cái tập họp.Lần lượt mà diệt chớ không có cái diệt .
Bồ Tát tuỳ thuận quán sát tương
duyên khởi như vậy .
Chư Phật tử ! đại Bồ Tát này lại nghĩ
rằng : vì chẳng tỏ ngộ nơi đệ nhứt nghĩa đế nên gọi là vô minh . nghiệp quả là
hành .sơ tâm của hành y chỉ là thức. Bốn uẩn cùng thức sanh chung là danh sắc.
Danh sắc tăng trưởng là lục nhập .Căn , cảnh, thức ba thứ hòa hiệp là xúc. Xúc
sanh chung mà có thọ. Nhiễn trước nơi thọ là ái .Thêm lớn ái thành ra thủ.
Nghiệp hữu lậu do thủ khởi lên là hữu. Từ nghiệp khởi ra uẩn là sanh. Uẩn chín
mùi là lão. Uẩn hư hoại là tử .Lúc mê tham luyến trong lòng phiền muộn là sầu.
Rơi lệ than thở là thán .Tại năm căn là khổ .Tại ý tưởng là ưu . Ưu khổ càng
nhiều là não .
Như thế thì chỉ có cây khổ làm tăng
trưởng , trọn không ngã không ngã sở, không tác giả, không thọ giả .
Lại nghĩ rằng : nếu có tác giả thời
có tác sự .Nếu không tác giả thời không tác sự .Trong đệ nhứt nghĩa đế hoàn
toàn bất khả đắc .
Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát này lại
nghĩ rằng : toàn cả tam giới chỉ có nhứt tâm .Ơ 73;ây đức Như Lai phân
biệt diễn nói mười hai chi, đều y cứ nhứt tâm mà an lập như vậy .
Tại sao vậy ? vì theo sự tham dục
cùng tâm sanh chung .Tâm là thức, sự là hành .Mê lầm nơi hành là vô minh .Cùng
vô minh và tâm sanh chung là danh sắc .Tăng trưởng danh sắc là lục nhập .Lục
nhập ba phần là xúc .Xúc sanh chung là thọ .Thọ không nhàm đủ là ái .Ái nhiếp
chẳng bỏ là thủ .Các hữu chi sanh là hữu .Của hữu phát khởi gọi là sanh .Sanh
thục là lão .Lão hoại là tử
Chư Phật tử ! trong đây vô minh có
hai thứ nghiệp : một là làm cho chúng sanh mê nơi cảnh sở duyên, hai là làm
nhơn sanh khởi cho hành .
Hành cũng có hai thứ nghiệp : một là
có thể sanh ra báo vị lai, hai là làm nhơn sanh khởi cho thức .
Thức cũng có hai thứ nghiệp : một là
khiến các hữu nối tiếp,hai là làm nhơn sanh khởi cho danh sắc .
Danh sắc cũng có hai thứ nghiệp :
một là trợ thành lẫn nhau,hai là làm nhơn sanh khởi cho lục nhập .Lục nhập cũng
có hai thứ nghiệp : một là đều riêng lấy cảnh giới của tự mình, hai là làm nhơn
sanh khởi cho xúc .
Xúc cũng có hai thứ nghiệp : một là
hay xúc cảnh sơ ên, hai là làm nhơn sanh khởi cho thọ .
Thọ cũng có hai nghiệp : một là hay
lãnh thọ các sự yêu ghét , hai là làm nhơn sanh khởi cho ái .
Ái cũng có hai nghiệp : một là nhiễm
trước sự khả ái, hai là làm nhơn sanh khởi cho thủ .
Thủ cũng có hai nghiệp : một là làm
cho các phiền não nối tiếp, hai là làm nhơn sanh khởi cho hữu .
Hữu cũng có hai nghiệp : một là hay
làm cho sanh trong các loài, hai là làm nhơn sanh khởi cho sanh .
Sanh cũng có hai nghiệp : một là hay
khởi các uẩn, hai là làm nhơn sanh khởi cho lão .
Lão cũng có hai nghiệp : một là làm
cho các căn biến đổi, hai là làm nhơn sanh khởi cho tử .
Tử cũng có hai thứ nghiệp : một là
hay làm hoại cách hành, hai là vì chẳng giác tri nên nối tiếp chẳng dứt .
Chư Phật tử ! trong đây vô
minh,duyên hành, nhẫn đến sanh duyên lão tử .Do vô minh làm duyên, nhẫn đến
sanh làm duyên làm cho hành nhẫn đến lão tử chẳng dứt , vì nó trợ thành vậy .
Vô minh diệt thời hành diệt, nhẫn
đến sanh diệt thời lão tử diệt .Do vô minh chẳng làm duên nhẫn đến sanh chẳng
làm duyên, khiến cho hành nhẫn đến lão tử dứt diệt, vì nó chẳng trợ thành vậy .
Chư Phật tử ! trong đây vô minh ái
và thủ chẳng dứt là phiền não đạo . Hành và hữu chẳng dứt là nghiệp đạo .Những
phần khác chẳng dứt là khổ đạo.
Tiền tế hậu tế phân biệt dứt diệt
thời ba đạo dứt diệt .
Ba đạo như vậy lìa ngã, lìa ngã sở,
chỉ có sanh diệt dường như bó lau .
Lại vô minh duyên hành là quán quá
khứ .Thức nhẫn đến thọ là quán hiện tại . Ái nhẫn đến hữu là quán vị lai .Từ
đây về sau xoay vần tiếp nối .
Vô minh diệt, hành diệt, đó là quán
chờ dứt diệt .
Lại mười hai hữu chi gọi là tam khổ
.Trong đây vô minh , hành đến lục nhập là hành khổ .Xúc , thọ là khổ khổ .
Những chi khác là hoại khổ .
Vô minh diệt, hành diệt đó là ba khổ
dứt .
Lại vô minh duyên hành là vô minh
làm nhơn hay sanh các hành .Các chi khác cũng vậy .
Vô minh diệt hành diệt đó là do
không vô minh thời hành cũng không .Các chi khác cũng không . Các chi khác cũng
vậy .
Lại vô minh duyên hành đó là sanh
phược .vô minh diệt hành diệt đó là diệt hệ phược .Các chi khác cũng vậy .
Lại vô minh duyên hành đó là tùy
thuận vô sở hữu quán .vô minh diệt hành diệt đó là tùy thuận tận diệt quán .Các
chi khác cũng vậy .
Chư Phật tử ! đại Bồ Tát quán nghịch
thuận các duyên khởi có mười cách như vậy là vì hữu chi nối tiếp , vì nhiếp tại
nhứt tâm, vì tự nghiệp sai biệt , vì tam đạo chẳng dứt , vì quán quá khứ, hiện
tại, vị lai , vì ba khổ tụ tập,vì nhơn duyên sanh diệt, vì sanh diệt hệ phược ,
vì vô sở hữu quán và tận quán .
Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát dùng mười
tướng như vậy quán các duyên khởi biết là vô ngã, vô nhơn, vô thọ mạng, tự tánh
không, chẳng có tác giả, không có thọ giả, liền được môn không giải thoát hiện
tiền .
Quán các hữu chi đều là tự tánh
diệt, rốt ráo giải thoát, không có chút pháp tướng sanh, liền được môn vô tướng
giải thoát hiện tiền .
Nhập không , vô tướng rồi, không
nguyện cầu, chỉ trừ đại bi làm đầu giáo hoá chúng sanh , liền được môn vô
nguyện giải thoát hiện tiền .
Bồ Tát tu ba môn giải thoát như vậy
, lìa tưởng ngã, lìa tưởng tác giả, tưởng thọ giả, lìa tưởng hữu vô
Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát này đại bi
càng tăng thêm siêng năng tu tập, vì chưa viên mãn pháp Bồ đề phần nên làm cho
viên mãn .
Bồ Tát nghĩ rằng : tất cả hữu vi, có
hoà hiệp thời chuyển, không hoà hiệp thời không chuyển. Duyên nhóm thời chuyển,
duyên không nhóm thời chẳng chuyển. Tôi biết pháp hữu vi có nhiều lỗi hoạ như
vậy , nay phải dứt nhơn duyên hoà hiệp này . Nhưng vì phải thành tựu chúng sanh
nên cũng chẳng dứt các công hạnh .
Chư Phật tử ! Bồ Tát như vậy quán
sát các pháp hữu vi có nhiều lỗi ác, không có tự tánh, không sanh không diệt mà
hằng khởi đại bi chẳng bỏ chúng sanh , liền được bát nhã ba la mật hiện tiền,
gọi là vô chướng ngại trí quang minh .
Thành tựu trí quang minh như vậy
rồi, dầu tu tập Bồ đề phần nhơn duyên mà chẳng trụ trong hữu vi, dầu quán pháp
hữu vi tự tánh tịch diệt, cũng chẳng trụ trong tịch diệt. Vì pháp Bồ đề phần
chưa viên mãn .
Chư Phật tử ! Bồ Tát trụ bực hiện
tiền địa này, được nhập không tam muội, tự tánh không tam muội, đệ nhứt không
tam muội , hiệp không tam muội, khởi không tam muội , như thiệt bất phân biệt
không tam muội , bất xã ly không tam muội .
Bồ Tát này được mười môn không tam
muội như vậy làm đầu. Kế đó trăm ngàn không tam muội đều hiện tiền cả .
Mười môn vô tướng không tam muội,
mười môn vô nguyện tam muội như vậy làm đầu , kế đó trăm ngàn môn vô tướng, vô
nguyện đều hiện tiền cả .
Chư Phật tử ! Bồ Tát trụ bực hiện
tiền địa này lại tu tập đầy đủ tâm bất khả hoại, tâm quyết định , tâm thuần
thiện, tâm thậm thâm, tâm , tâm bất thối chuyển, tâm bất hưu tức, tâm quảng
đại, tâm vô biên, tâm bất hưu tức, tâm quảng đại, tâm vô biên, tâm cầu trí, tâm
phương tiện huệ tương ưng, tất cả đều viên mãn .
Chư Phật tử ! Bồ Tát dùng mười tâm
này thuận phật Bồ đề , chẳng sợ dị luận, vào các trí địa, lìa đạo nhị thừa,
thẳng đến Phật trí, các ma phiền não không trở lại hư hoại được, trụ nơi Bồ Tát
trí huệ quang minh. Trong pháp không, vô tướng, vô nguyện đều khéo tu tập, trí
huệ phương tiện luôn chung tương ưng, pháp Bồ đề phần thường thật hành chẳng bỏ
.
Chư Phật tử ! Bồ tát trụ trong bực
hiện tiền địa này được tăng thượng hạnh bát nhã ba la mật , được đệ tam minh
lợi thuận nhẫn, vì tuỳ thuận không trái với tướng như thiệt của các pháp .
Chư Phật tử ! Bồ tát đã an trụ nơi
bực hiện tiền địa này, do nguyện lực nên được thấy nhiều Ðức Phật , nhẫn đén
thấy trăm ngàn ức na do tha Ðức Phật đều dùng tâm quãng đại, thâm tâm để cúng
dường cung kính tôn trọng tán thán, cũng cúng dường tất cả chúng tăng. Ðem
thiện căn này hồi hướng vô thượng Bồ đề .
Nơi Chư Phật ,Bồ Tát này cung kính
nghe pháp, nghe xong thọ trì, được như thiệt tam muội trí huệ quang minh, tuỳ
thuận tu hành ghi nhớ chẳng bỏ . Lại được pháp tạng thậm thâm của Chư Phật .
Trải qua vô lượng trăm ngàn ức na do tha kiếp , những thiện căn đã có lại càng
sáng sạch .
Ví như chơn kim,. Dùng báu tỳ lưu ly
luôn dồi bóng, thời càng thêm sáng sạch .
Cũng vậy , Bồ Tát đệ lục địa này
dùng phương tiện huệ theo dõi quán sát, những thiện căn đãđược càng thêm sáng
sạch, càng thêm tịch diệt , hkông gì che khuất được .
Ví như ánh sáng của mặt trăng chiếu
đến thân chúng sanh làm cho được mát mẽ, bốn thứ phong luân không ngăn hoại
được .
Cũng vậy, những thiện căn của bực Bồ
Tát này hay dập tắt ngọn lửa phiền não của vô lượng trăm ngàn ứu na do tha
chúng sanh . Bốn thứ ma đạo không phá hoại được
Trong mười môn ba la mật , Bồ Tát
này thiên nhiều về bát nhã ba la mật, ngoài ra tuỳ sức tuỳ phần tu các môn khác
.
Chư Phật tử ! đây là lược nói về đại
Bồ Tát đệ lục hiện tiền địa. Bồ Tát an trụ nơi bực này thường hiện làm thiện hóa
thiên vương, việc làm tự tại. Tất cả sự vấn nạn của hàng thanh văn không làm
thối khuất được. Có thể làm cho chúng sanh trừ diệt ngã mạn, thâm nhập duyên
khởi .
Tất cả công hạnh bố thí, ái ngữ, lợi
hành, đồng sự đều chẳng rời niệm phật, niệm pháp, niệm tăng, nhẫn đến chẳng rời
niệm đầy đủ Nhứt thiết chủng trí.
Bồ Tát này lại nghĩ rằng : với tất
cả chúng sanh, tôi sẽ là thượng thủ, là thắng, nhẫn đến bực y chỉ của Nhứt
thiết chủng trí.
Bồ Tát này nếu chuyên cần tinh tấn,
trong khoảng một niệm được trăm ngàn ức tam muội, nhẫn đến thị hiện trăm ngàn
ức thân Phật, mỗi mỗi thân Phật thị hiện trăm ngàn ức Bồ Tát làm quyến thuộc.
Nếu dùng nguyện lực thị hiện tự tại
thời hơn đây, nhẫn đến trăm ngàn ức na do tha kiếp chẳng thể đếm biết được.
Kim Cang Tạng Bồ Tát muốn tuyên lại
nghĩa này mà nói kệ rằng :
Bồ Tát viên mãn Ngũ Ðịa rồi
Quán pháp vô tướng cũng vô tánh
Vô sanh vô diệt vốn thanh tịnh
Không có hỷ luân không thủ xả.
Thể tướng tịch diệt như huyễn thảy
Hữu vô bất nhị rời phân biệt
Tùy thuận pháp tánh quán như
vậy
Trí này được thành nhập Lục Ðịa.
Ðầy đủ trí minh lợi thuận nhẫn
Quán sát thế gian tướng sanh diệt
Do sức si tối có thế gian
Si tối diệt mất không thế gian.
Quán các nhơn duyên không thiệt tánh
Chẳng hoại giả, gọi hoà hiệp
dụng
Vô tác, vô thọ, không nghĩ nhớ
Hành pháp như mây nổi khắp nơi .
Chẳng biết chơn đế gọi vô minh
Gây tạo tư : nghiệp,ngu si : quả .
Thức khởi sanh chung gọi là danh sắc
,
Như vậy nhẫn đến những khổ tụ,
Rõ thấu ba cõi nương nơi tâm
Mười hai nhơn duyên cũng nương
tâm
Sanh tử đều do tâm làm ra
Tâm nếu diệt dứt, sanh tử hết.
Vô minh công dụng có hai thứ :
Mê lầm sở duyên, làm thành
nhơn,
Như vậy nhẫn đến lão và tử
Do đây quả khổ không cùng tận .
Vô minh làm duyên chẳng thể dứt,
Duyên đó nếu dứt tất cả dứt,
Ngu si, ái,thủ : phiền não chi
Hành, hữu là nghiệp, nghiệp, chi
khác : khổ.
Si đến lục nhập là hành khổ,
Xúc thọ thêm lớn là khổ khổ,
Còn những chi khác là hoại
khổ,
Nếu thay vô ngã ba khổ dứt.
Vô minh cùng hành thuộc quá khứ,
Thức đến xúc, thọ thuộc hiện
tại
Ái, thủ, hữu sanh khổ vị lai.
Quán đãi nếu dứt : biên tế dứt .
Vô minh làm duyên : là sanh
phược
Rời được nơi duyên phược mới hết
Từ nhơn sanh quả, lìa thời dứt,
Quán sát nơi đây biết tánh không .
Tuỳ thuận vô minh khởi ba cỏi .
Nếu không tuỳ thuận ba cõi
dứt,
Có đây có kia, không cũng vậy
Mười cách tư duy tâm lìa chấp.
Hữu chi tiếp nói nhiếp nhứt
tâm
Tự nghiệp chẳng rời và tam
đạo,
Tam tế, tam khổ nhơn duyên
sanh
Hệ phược khởi diệt thuận vô tận ,
Như vậy , quán khắp pháp duyên
khởi
Vô tác, vô thọ, không chơn
thiệt
Như huyễn, như mộng, như bóng
vang
Như kẻ ngu chay theo dương diệm.
Quán sát như vậy vào nơi không
Biết duyên tánh ly được vô
tướng
Rõ pháp hư vọng không nguyện
cầu
Chỉ có từ mẫn độ muôn loại.
Ðại sĩ tu hành môn giải thoát
Càng thêm đại bi cầu phật pháp
Biết các hữu vi hòa hiệp làm
Chí nguyện quyết định siêng hành đạo
.
Môn không tam muội đủ trăm
ngàn
Vô tướng, vô nguyện cũng như
vậy
Bát nhã thuận nhẫn đều không tăng
thượng
Giải thoát trí huệ được viên mãn .
Lại dùng thâm tâm cúng nhiều
phật
Ở trong phật giáo tu tập đạo
Ðược Phật pháp tạng thêm thiện
căn
Như vàng dùng lưu ly trau sáng .
Như trăng sáng mát lợi muôn loài .
Bốn phong luân không ngăn hoại được,
Bực Bồ Tát này siêu ma đạo
Dứt trừ phiền não cho quần sanh .
Bực này thường làm thiên hóa
vương
Hóa đạo chúng sanh trừ ngã mạn
Công hạnh đều cầu nhứt thiết
trí
Ðều đã vượt hơn đạo Thanh văn .
Bồ Tát bực này siêng tinh tấn
Ðược môn tam muội trăm ngàn ức
Cũng thấy trăm ngàn ức đức
phật
Ví như mặt nhựt ngày thạnh hạ .
Tậm thâm vi diệu khó thấy biết
Thanh văn, độc giác không rõ
được
Bồ Tát hiện tiền đệ lục địa
Tôi vì Phật tử đã lược nói .
Bấy giờ thiên chúng lòng hoan
hỷ
Rải hoa thành mây dừng hư
không
Khắp nơi pháp âm thanh diệu
mầu
Thưa cùng đắng tối thắng thanh tịnh
:
Rõ thấu thắng nghĩa trí tự tại
Thành tựu công đức trăm ngàn ức
Không chấp trước, như sen không
nhiễm
Vì lợi chúng sanh nói thâm hạnh .
Tự tại Thiên Vương ở hư không .
Phóng đại quang minh chiếu thân phật
Cũng rải mây thơm tối thượng
diệu
Cúng khắp đắng sạch trừ phiền
não
Bấy giờ thiên chúng đều vui mừng .
Ðều phát tiếng hay đồng ca ngợi :
Chúng tôi được nghe hiện tiền
địa
Thời là đã được nhiều lợi lành .
Thiên nữ lúc ấy lòng mừng vui
Cùng trổi âm nhạc ngàn muôn
điệu
Ðều do thần lực của Như Lai
Trong tiếng hòa nhạc thành lời nói :
Oai nghi tịch tịnh không sánh
kịp
Ðiều ngự chúng sanh đời nên
cúng
Ðã siêu tất cả những thế gian
Mà vào thế gian truyền diệu đạo .
Dầu hiện nhiều loại vô lượng
thân
Biết thân mỗi mỗi vô sở hữu
Khéo dùng ngôn từ nói các pháp
Chẳng chấp tướng văn tự âm thanh .
Qua đến trăm ngàn các quốc độ .
Dùng những thượng cúng cúng dường
phật
Trí huệ tự tại không chấp
trước
Chẳng sanh niệm tưởng cõi phật ta
Dầu siêng giáo hóa các chúng sanh .
Mà không nhơn ngã tất cả tâm
Dầu đã tu thành hạnh quảng đại
Mà nơi hạnh lành chẳng chấp trước .
Bởi thấy tất cả các thế gian
Lửa tham, sân, si thường cháy
hực
Nơi các tưởng niệm thảy đều
lìa
Phát khởi đại bi sức tinh tấn .
Tất cả chư thiên và thiên nữ
Cúng dường nhiều thứ khen ngợi
rồi
Tất cả đồng thời đứng lặng yên
Chiêm ngưỡng thế tôn mong nghe pháp
.
Giải thoát nguyệt vì chúng lại thưa
:
Cả đại chúng đây lòng thanh
tịnh
Những hành tướng trong đệ thất địa
Trông mong Bồ Tát thương giảng giải
.
Kim cang tạng Bồ Tát nói với giải
thoát nguyệt Bồ Tát rằng : thưa Phật tử ! đại Bồ Tát đã tròn đủ công hạnh của
đệ lục địa muốn vào đệ thất viễn hành địa, phải tu mười môn phương tiện huệ
phát khởi đạo thù thắng .
Ðây là mười đạo thù thắng :
Dầu khéo tu không, vô tướng, vô
nguyện tam muội mà từ bi chẳng bỏ chúng sanh .Dầu được pháp bình đẳng của chư
phật mà thích thường cúng dường phật. Dầu nhập môn quán không trí mà siêng chứa
phước đức .Dầu xa rời tam giới mà trang nghiêm tam giới . Dầu rốt ráo dập tắt
ngọn lửa phiền não mà có thể vì tất cả chúng sanh khởi hạnh diệt tắt ngọn lửa
phiền não tham, sân, si. Dầu biết các pháp như huyễn, như mộng, như bóng, như
vang, như dương diệm, như biến hóa, như trăng dưới nước, như tượng trong gương,
tự tánh bất nhị, mà tuỳ tâm tác động vô lượng sai khác. Dầu biết tất cả quốc độ
dường như hư không mà hay dùng diệu hạnh thanh tịnh trang nghiêm phật độ . Dầu
biết pháp thân của Chư Phật bổn tánh không thân mà dùng tướng hảo trang nghiêm
thân mình . Dầu biết âm thanh của chư phật tánh không tịch diệt chẳng thể ngôn
thuyết, mà có thể tuỳ tất cả chúng sanh phát ra các thứ âm thanh thanh tịnh sai
khác.Dầu tùy Chư Phật rõ biết tam thế chỉ là nhứt niệm, mà tùy ý giải sai biệt
của chúng sanh , dùng các loại tướng, các thứ thời gian , các thứ kiếp số để tu
tập công hạnh .
Bồ Tát dùng môn Phương tiện huệ phát
khởi hạnh thù thắng này, từ đệ lục hiện tiền địa vào đệ thất viễn hành địa. Lúc
vào đệ thất địa rồi thời các hạnh này thường hiện tiền, gọi là an trụ nơi đệ
thất viễn hành địa.
Phật tử ! đại Bồ Tát an trụ đệ thất
địa này rồi, thời vào vô lượng chúng sanh giới, vào vô lượng công nghiệp giáo
hóa chúng sanh của Chư Phật , vào vô lượng thế giới võng, vào vô lượng quốc độ
thanh tịnh của Chư Phật, vào vô lượng pháp sai biệt, vào vô lượng hiện giác trí
của Chư Phật, vào vô lượng kiếp số, vào vô lượng trí giác liễu tam thế của Chư
Phật, vào vô lượng tín giải sai biệt của chúng sanh, vào vô lượng các loại thân
danh sắc của Chư Phật thị hiện, vào vô lượng căn tánh sở thích sai biệt của
chúng sanh, vào vô lượng ngữ ngôn âm thanh làm cho chúng sanh hoan hỷ của chư
phật,vào vô lượng các loại tâm hành của chúng sanh, vào vô lượng trí rõ biết
rộng lớn của Chư Phật, vào vô lượng tín giải của thinh văn thừa, vào vô lượng
trí đạo của Chư Phật dạy khiến tín giải, vào vô lượng pháp thành tựu của bích
chi phật, vào vô lượng môn terí huệ thâm thâm của chư phật dạy khiến thẳng vào,
vào vô lượng hạnh phương tiện của chư Bồ Tát, vào vô lượng sự tập thành của đại
thừa của Chư Phật dạy làm cho Bồ Tát được vào .
Bồ Tát này nghĩ rằng : vô lượng cảnh
giới của Như Lai như vậy, nhẫn đến trăm ngàn ức na do tha như vậy, nhẫn đến
trăm ngàn ức na do tha kiếp chẳng thể biết được .Tôi đều phải dùng tâm vô công
dụng, vô phân biệt để thành tựu viên mãn .
Chư Phật tử ! Bồ tát này dùng thâm
trí huệ quán sát như vậy .Thường siêng tu tập Phương tiện huệ khởi đạo thù
thắng an trụ bất động, không một niệm thôi nghỉ phế bỏ. Ði, đứng, ngồi, nằm,
nhẫn đến lúc ngũ chiêm bao cũng chưa từng tương ưng với cái chướng. Luôn không
hề bỏ những quán niệm trên đây.
Trong mỗi niệm, Bồ Tát này thường có
thể đầy đủ mười ba la mật.
Tại sao vậy ? vì mỗi niệm, Bồ Tát
này đều lấy đại bi làm trước để tu hành Phật pháp hướng đến phật trí. Những
thiện căn đã có đều vì cầu phật trí mà bố thí cho chúng sanh, đây gọi là đàn ba
la mật. Hay diệt trừ những lửa phiền não, đây gọi là thi la ba la mật. Từ bi
làm dđầu không tổn hại chúng sanh, đây gọi là sằn đề ba la mật. Cầu pháp thắng
thiện không nhàm đủ, đây gọi là tỳ lê gia ba la mật. Nhứt thiết trí đạo thường
hiện tiền chưa từng tán loạn, đây gọi là thiền na ba la mật. Hay nhẫn thọ các
pháp bất sanh bất diệt, đây gọi là bát nhã ba la mật. Hay xuất sanh vô lượng
trí, đây gọi là phương tiện ba la mật, hay cầu thượng thượng thắng trí, đây gọi
là nguyện ba la mật. Tất cả dị luận và các ma chúng không trở hoại, đây gọi là
lực ba la mật. Rõ biết các pháp đúng thật đây gọi là trí ba la mật.
Chư Phật tử ! mười môn ba la mật
này, trong mỗi niệm Bồ Tát đều đã đầy đủ .
Cũng vậy, bốn nhiếp pháp, bốn pháp
trì, ba mươi bảy phẩm trợ đạo, ba môn giải thoát, lược nói nhẫn đến tất cả pháp
Bồ đề phần, trong mỗi niệm, Bồ Tát này đều viên mãn cả.
Bấy giờ giải thoát nguyện Bồ Tát hỏi
kim cang tạng Bồ Tát rằng : thưa Phật tử ! Bồ Tát chỉ ở trong đệ thất địa này
đầy đủ tất cả pháp Bồ đề phần, hay là trong các địa cũng có thể đầy đủ ?
Kim cang tạng Bồ Tát nói : thưa Phật
tử ! Bồ Tát ở trong mười địa đều có thể đầy đủ pháp Bồ đề phần, nhưng đệ thất
địa thù thắng hơn.
Tại sao vậy ? vì đệ thất địa công
dụng viên mãn thời được vào trí huệ tự tại hạnh.
Chư Phật tử ! Bồ tát ở trong bực sơ địa
vì duyên tất cả Phật pháp để nguyện cầu nên đây đủ pháp Bồ đề phần. Vì đệ nhị
địa lìa tâm cấu nhơ. Vì đệ tam địa nguyện cầu càng tăng trưởng được pháp quang
minh. Vì đệ tứ địa nhập đạo. Vì đệ ngũ địa thuận thế gian mà tu tập. Vì đệ lục
địa nhập pháp môn thậm thâm. Vì đệ thất địa phát khởi tất cả Phật pháp. Tất cả
địa đều cũng đầy đủ pháp Bồ đề phần .
Tại sao vậy ? Bồ Tát từ sơ địa đến
đệ thất địa thành tựu trí công dụng phần. Do công lực này, từ đệ bát địa đến đệ
thập địa vô công dụng hạnh đều được thành tựu .
Chư Phật tử ! ví như có hai thế giới
: một thời tạp nhiễm, một thời thuần tịnh. Chặng giửa của hai thế giới này khó
qua được, chỉ trừ bực Bồ Tát có đại thần thông phương tiện nguyện lực.
Chư Phật tử ! Bồ tát ở các địa cũng
như vậy : có tạp nhiễm hạnh, có thanh tịnh hạnh. Chẳng giửa của hai hạnh này
khó qua được, chỉ trừ Bồ Tát có đại nguyện lực Phương tiện trí huệ mới có thể
qua được .
Giải thoát nguyệt Bồ Tát hỏi : thưa
Phật tử ! bảy địa Bồ Tát này là nhiễm hạnh hay là tịnh hạnh ?
Kim cang tạng Bồ Tát nói : thưa Phật
tử ! từ sơ địa đến thất địa, công hạnh tu tập đều lìa bỏ nghiệp phiền não, vì
hồi hướng vô thượng Bồ đề , vì phần được đạo bình đẳng, nhưng chưa gọi là hạnh
siêng phiền não.
Chư Phật tử ! như chuyển luân thánh
vương ngự tượng bửu du hành tứ thiên hạ, biết có người bần cùng khốn khố嬠mà không bị lây những sự hoạ hoạn đó, nhưng chưa được gọi là
siêu nhơn loại. Nếu bỏ thân chuyển luân vương sanh lên trời phạm thế, ngự thiên
cung thấy ngàn thế giới, du hành ngàn thế giới, thị hiện quang minh oai đức của
phạm thiên mới gọi là siêu nhơn loại .
Chư Phật tử ! Bồ tát cũng như vậy.
Ban đầu từ bực sơ địa đến bực đệ thất địa, ngự xe ba la mật du hành thế gian ,
biết quá hoạn phiền não của thế gian. Vì ngự chánh đạo nên chẳng bị lỗi lầm của
phiền não làm lây nhiễm, nhưng chưa gọi là siêu phiền não hạnh. Nếu bỏ tất cả
hạnh hữu công dụng, tư đệ thất địa vào đệ bát địa, ngự xe Bồ Tát, thanh tịnh du
hành thế gian, biết phiền não lỗi lầm chẳng bị lây nhiễm, mới gọi là siêu phiền
não hạnh, vì được siêu quá hết tất cả
Chư Phật tử ! Bồ tát đệ thất địa này
siêu quá hết những phiền não đa tham, đa sân v.v … mà an trụ. Bực này chẳng gọi
là có phiền não, cũng chẳng gọi là không phiền não .
Tại sao vậy ? vì ở bực này, tất cả
phiền não chẳng hiện hành nên gọi chẳng gọi là có. Vì cầu phật trí tâm chưa mãn
toại nên chẳng gọi là không.
Chư Phật tử ! Bồ tát an trụ bực đệ
thất địa dùng tâm thâm tịnh mà thành tựu thân nghiệp, ngữ nghiệp và thành tựu ý
nghiệp. Tất cả những nghiệp đạo bất thiện bị phật quở trách đều đã lìa bỏ. Tất
cả thiện nghiệp mà Phật khen thời thường khéo tu hành . Tất cả kinh, thơ, kỷ
thuật của thế gian như đã nói ở đệ ngũ địa đều tự nhiên thật hành thông thạo
chẳng cần dụng công.
Bồ Tát ở trong đại thiên thế giới
làm đại minh sư. Chỉ trừ đức Như Lai và từ đệ bát địa trở lên, thâm tâm diệu
hạnh của các Bồ Tát khác đều không bằng được.
Ở bực này, những thiền tam muội,
thần thông giải thoát đều được hiện tiền. Nhưng là do tu tập mà thành, chẳng
phải báo đắc thành như bực đệ bát địa.
Bực Bồ Tát này trong mỗi niệm tu tập
đầy đủ Phương tiện trí lực, và tất cả pháp Bồ đề phần đều càng viên mãn hơn.
Chư Phật tử ! Bồ tát trụ bực này
nhập tam muội Bồ Tát thiện quán trạch, tam muội thiện trạch nghĩa, tam muội tối
thắng huệ tam muội phân biệt nghĩa tạng, tam muội như thiệt phân biệt nghĩa,
tam muội thiện trụ kiên cố căn, tam muội trí huệ thần thông môn, tam muội pháp
giới nghiệp, tam muội Như Lai thắng lợi, tam muội chủng chủng nghĩa tạng sanh
tử Niết Bàn môn. Nhập trăm ngàn tam muội đầy đủ môn đại trí thần thông như vậy,
tu tập thanh tịnh các trí địa.
Vì Bồ Tát này được nhập các tam muội
trên đây khéo tu tập thanh tịnh phương tiện huệ, đại bi lực nên vượt hơn bực
nhị thưa, được qán sát trí huệ địa.
Chư Phật tử ! Bồ tát trụ bực này
khéo tu tịnh vô lượng thân nghiệp vô tướng hành, ý nghiệp vô tướng hành nên
được quang minhvô sanh pháp nhẫn.
Giải thoát nguyệt Bồ Tát hỏi : thưa
Phật tử ! Bồ Tát từ sơ địa đến bực này có vô lượng thân nghiệp, ngữ nghiệp, ý
nghiệp há chẳng vượt hơn háng nhị thừa ư ?
Kim cang tạng Bồ Tát nói : thưa phật
tử ! các bực đó đều vượt hơn, nhưng chỉ là do nguyện cầu Phật pháp, chẳng phải
là sức tự trí quán sát. Nay trong bực đệ thất địa này do tự trí lực nên tất cả
nhị thừa chẳng kịp được.
Ví như vương tử sanh ở cung vua, do
vương hậu sanh có đủ vương tướng. Khi sanh ra thời đã hơn tất cả các quan,
nhưng chỉ do đức lực của nhà vua chớ chẳng phải tự lực, khi thân trưởng thành,
toàn vẹn tất cả nghề nghiệp oai đức, thời mới là do tự lực mà hơn tất cả thần
dân.
Ðại Bồ Tát cũng vậy. Lúc sơ pháp
tâm, do vì chí cầu đại pháp nên vượt hơn tất cả Thanh văn, duyên giác.Nay an
trụ bực đệ thất địa do tự lực trí huệ nên vượt lên trên tất cả nhị thừa.
Chư Phật tử ! Bồ tát an trụ bực đệ
thất địa này được viễn ly vô hành thậm thâm, thường tu hành thân, khẩu, ý,
siêng cầu đạo vô thượng chẳng bỏ rời. Thế nên Bồ Tát này dầu đi nơi thiệt tế mà
chẳng tác chứng .
Giải thoát nguyệt Bồ Tát hỏi : thưa
Phật tử ! Bồ Tát từ địa nào lên đến địa nào có thể nhập được diệt định ?
Kim cang tạng Bồ Tát nói : thưa Phật
tử ! Bồ Tát từ đệ lục địa trở lên có thể nhập diệt định. Nay an trụ nơi đệ thất
địa này thời có thể mỗi niệm nhập diệt định, cũng mỗi niệm xuất, nhưng không
tác chứng.Thế nên Bồ Tát này gọi là thành tựu thân, ngữ, ý nghiệp bất tư nghì,
đi nơi thiệt tế mà chẵng tác chứng.
Ví như có người ngồi thuyền vào
biển, do sức thiện xảo nên không bị tai nạn.
Cũng vậy Bồ Tát ở bực này ngồi
thuyền ba la mật đi trong biển thiệt tế, do nguyện lực nên chẳng chứng diệt.
Chư Phật tử ! Bồ tát này được tam
muội trí lực như vậy, do đại phương tiện, dầu thị hiện sanh tử mà luôn trụ Niết
Bàn, dầu quyết thuộc vây quanh mà thường thích xa lìa, dầu do nguyện lực thọ
sanh trong ba cõi mà chẳng nhiễm thế pháp, dầu thường tịch diệt do sức phương
tiện mà lại phừng cháy, dầu đốt nhưng chẳng cháy, dầu tùy thuận phật trí mà thị
hiện vào bực thanh văn bích chi phật, dầu được phật cảnh giới mà thị hiện ở
cảnh giới ma, dầu thị hiệnđồng với ngoại đạo mà chẳng bỏ Phật pháp,dầu thị hiện
tùy thuận tất cả thế gian mà thường thật hành tất cả pháp xuất thế.
Bồ Tát này chỗ có tất cả sự trang
nghiêm vượt hơn tất cả sự trang nghiêm của trời, rồng, bát bộ, người, phi nhơn.
Tứ thiên vương , đế thích chánh pháp.
Chư Phật tử ! Bồ tát thành tựu trí
huệ như vậy trụ bực viễn hành địa do nguyện lực nên được thay nhiều đức phật,
nhẫn đến thấy trăm ngàn ức na do tha Ðức Phật, đều kính trọng tán thán cúng
dường với tâm quãng đại, tâm tăng thắng.Cũng cúng dường tất cả chúng tăng. Ðem
thiện căn này hồi hướng vô thượng Bồ đề. Lại ở chổ chư phật cung kính nghe
pháp, nghe xong thọ trì, được như thiệt tam muội trí huệ quang minh, tùy thuận
tu hành hộ trì chánh pháp. thường được Chư Phật hoan hỷ khen ngợi. Hàng nhị
thừa không thể vấn nạn làm thua được.Bồ Tát này làm lợi ích chúng sanh pháp
nhẫn thanh tịnh. Như vậy trải qua vô lượng trăm ngàn ức na do tha kiếp những
thiện căn đã có càng thêm tăng thắng.
Ví như chơn kim, dùng các thứ châu
báu cẩn xen vào càng làm cho chơn kim sáng chói hơn, những vật trang nghiêm
khác không thể sánh được.
Những thiện căn của Bồ Tát đệ thất
địa này cũng như vậy, do sức phương tiện huệ càng sáng sạch hơn, chẳng phải
hàng nhị thừa sánh kịp được.
Chư phật tử ! ví như ánh sáng mặt
trời,những ánh sáng của trăng sao v.v…đều không sánh được. Những chổ sình lầy
nơi đại địa, ánh sáng mặt trời có thể làm khô ráo
Bồ Tát viễn hành địa này cũng như
vậy, tất cả hàng nhị thừa không khéo kịp, được có thể làm cạn khô sình lầy
phiền não của tất cả chúng sanh .
Bồ Tát này thiên nhiều về Phương
tiện ba la mật. Chín môn ba la mật kia thời tùy sức tùy phần mà tu tập.
Chư Phật tử ! Ðây là lược nói đại Bồ
Tát Ðệ Thất Viễn Hành Ðịa.
Bồ Tát an trụ bực này thường làm tự
tại Thiên Vương, khéo vì chúng sanh mà nói pháp chứng trí, khiến họ chứng nhập.
Tất cả công hạnh bố thí, ái ngữ, lợi
hành, đồng sự đều chẳng rời niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng nhẫn đến chẳng rời
niệm đầy đủ Nhứt thiết chủng trí.
Bồ Tát này lại nghĩ rằng : Tôi sẽ ở
trong tất cả chúng sanh làm thượng thủ, là thắng, nhẫn đến là bực y chỉ của Nhứt
thiết chủng trí.
Bồ Tát này nếu phát cần tinh tấn,
thời trong khoảng một niệm được trăm ngàn ức na do tha tam muội, nhẫn đến thị
hiện trăm ngàn ức na do tha Bồ Tát để làm quyến thuộc.
Nếu dùng nguyện lực thù thắng tự tại
thị hiện thời hơn số trên đây, nhẫn đến trăm ngàn ức na do tha kiếp chẳng thể
đếm biết được.
Kim Cang Tạng Bồ Tát muốn tuyên lại
nghĩa này mà nói kệ rằng :
Ðệ nhứt nghĩa trí tam muội đạo
Lục Ðịa tu hành tâm đầy đủ
Tức thời thành tựu phương tiện huệ
Bồ Tát dùng đây vào Thất Ðịa.
Dầu chứng tam thoát nhưng từ bi,
Dầu đồng Như Lai nhưng cúng Phật,
Dầu quán không nhưng chứa phước đức
Bồ Tát do đây lên Thất Ðịa.
Xa rời tam giới mà trang nghiêm,
Dứt trừ lửa phiền mà khởi lửa,
Biết pháp bất nhị nhưng siêng tu
Rõ cõi không hư mà nghiêm độ,
Hiểu thân bất động, đủ các tướng,
Thấu thinh tánh ly, khéo khai diễn,
Thâm nhập nhứt niệm, hành nhiều
việc,
Bực trí do đây lên Thất Ðịa.
Quán sát pháp này được rõ ràng
Rộng vì chúng sanh làm lợi ích,
Vào chúng sanh giới không biên tế
Công nghiệp giáo hóa cũng vô lượng.
Quốc độ, các pháp cùng kiếp số
Giải, dục, tâm hành đều hay vào
Thuyết pháp tam thừa cũng vô hạn
Như thế giáo hóa các quần sanh.
Bồ Tát siêng cầu đạo tối thắng
Ðộng nghĩ, chẳng bỏ phương tiện huệ
Mỗi mỗi hồi hướng Phật Bồ đề
Niệm niệm thành tựu Ba la mật.
Phát tâm hồi hướng là bố thí,
Dứt hoặc là giới, chẳng hại : nhẫn,
Cầu lành không nhàm là tinh
tấn,
Nơi đạo chẳng động tức tu
thiền,
Nhẫn thọ vô sanh là Bát Nhã,
Hồi hướng phương tiện là nguyện độ,
Không bị phá : lực, khéo rõ : trí,
Thập độ như vậy đều thành mãn,
Sơ Ðịa phan duyên công đức đủ,
Nhị Ðịa Ly Cấu tam nghiệp tịnh,
Tứ Ðịa nhập đạo, Ngũ thuận hành,
Ðệ Lục vô sanh trí quang chiếu,
Ðệ Thất Bồ đề công đức toàn
Tất cả đại nguyện đều đầy đủ,
Do đây hay khiến bực nhập Ðịa
Tất cả c⮧ hạnh đều thanh tịnh.
Ðịa này khó qua, trí mới siêu
Ví như chặng giữa hai thế giới
Cũng như Thánh Vương không lây nghèo
Nhưng chưa được gọi : Tổng siêu độ.
Nếu trụ trong Ðệ Bát Trí Ðịa
Mới là vượt qua tâm cảnh giới
Như Phạm Thiên Vương siêu nhơn loại
Như sen ở nước chẳng tanh bùn.
Ðệ Thất dầu siêu các phiền não
Chẳng gọi có hay không phiền
não
Chẳng có vì không hoặc hiện hành
Chẳng không vì tâm cầu Phật trí.
Bao nhiêu kỷ nghệ ở thế gian
Kinh sách từ luận đều rành cả
Thiền định, tam muội và thần
thông
Tất cả tu hành đều thành tựu.
Bồ Tát tu hành đạo Thất Ðịa
Vượt hơn tất cả hạnh Nhị thừa,
Sơ Ðịa nguyện thành, đây do trí,
Ví như Vương tử đủ oai lực,
Thành tựu thậm thâm vẫn tiến tu
Tâm tâm tịch diệt chẳng tác chứng
Ví như ngồi thuyền vào trong biển
Ở nước chẳng bị nước nhận chìm.
Phương tiện huệ hành đủ công
đức
Tất cả thế gian không rõ được
Cúng dường nhiều Phật tâm càng sáng
Như dùng diệu bửu trang nghiêm vàng.
Thất Ðịa Bồ Tát trí rất sáng
Như sáng mặt trời khô nước ái
Thường làm Tự Tại vua cõi Trời
Hóa đạo quần sanh tu chánh trí.
Nếu do dũng mãnh tinh tấn lực
Ðược nhiều tam muội thấy nhiều
Phật
Trăm ngàn ức số na do tha
Nguyện lực tự tại lại hơn đây.
Ðây là Bồ Tát Viễn Hành Ðịa
Phương tiện trí huệ thanh tịnh đạo
Tất cả thế gian trời và người
Thanh văn, độc giác không biết được.