Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Trang 8

11 Tháng Ba 201100:00(Xem: 21159)
Trang 8

KINH HOA NGHIÊM 
Hán Dịch: Ðại-Sư Thật-Xoa-Nan-Ðà - Việt Dịch: HT Thích Trí Tịnh
Phật Học Viện quốc Tế Xuất Bản PL 2527 - 1983

PHẨM NHẬP PHÁP GIỚI (PHẦN SAU)
THỨ BA MƯƠI CHÍN


Hán bộ quyển thứ 78

Bạch Ðại-Thánh! Tôi đã phát tâm vô-thượng bồ-đề, mà chưa biết Bồ-Tát thế nào học bồ-tát-hạnh, thế nào tu bồ-tát-đạo?

Ðức Như-Lai thọ ký cho Ðại-Thánh một đời sẽ chứng quả vô-thượng chánh-giác.

Nếu là một đời sẽ được vô-thượng chánh-giác thời là đã siêu-việt tất cả chỗ sở-trụ của Bồ-Tát, thời đã xuất quá tất cả bậc ly sanh của Bồ-Tát, thời đã viên-mãn tất cả ba-la-mật, thời đã thâm nhập tất cả nhẫn-môn, thời đã đầy đủ bồ-tát-địa, thời đã du-hí tất cả giải-thoát-môn, thời đã thành-tựu tất cả pháp tam-muội, thời đã thông đạt tất cả bồ-tát-hạnh, thời đã chứng được tất cả đà-la-ni biện-tài, thời đã ở trong tất cả bồ-tát tự-tại mà được tự-tại, thời đã chứa nhóm tất cả pháp trợ-đạo của Bồ-Tát, thời đã du-hí trí-huệ phương-tiện, thời đã xuất sanh trí đại thần-thông, thời đã thành-tựu tất cả học-xứ, thời đã viên mãn tất cả diệu-hạnh, thời đã đầy đủ tất cả đại-nguyện, thời đã lãnh thọ tất cả ký-biệt của Phật, thời đã biết rõ tất cả các thừa-môn, thời đã kham thọ chỗ hộ-niệm của tất cả chư Phật, thời đã có thể nhiếp tất cả phật bồ-đề, thời đã có thể trì pháp-tạng của tất cả Phật, thời đã có thể trì tạng bí-mật của tất cả chư Phật và Bồ-Tát, thời đã có thể làm thượng-thủ trong tất cả chúng Bồ-Tát, thời đã có thể làm đại-mãnh-tướng phá phiền-não ma-quân, thời đã có thể làm đại-đạo-sư ra khỏi đồng-hoang sanh-tử, thời đã có thể làm đại y-vương trị những bệnh nặng phiền-não, thời đã có thể làm bậc tối-thắng trong tất cả chúng-sanh, thời đã có thể được tự-tại ở trong tất cả Thế-Chủ, thời đã có thể tối-đệ-nhứt trong tất cả Thánh, thời đã có thể tối-tăng-thượng trong tất cả Thanh-Văn và Bích-Chi-Phật, thời đã có thể làm lái thuyền trong biển sanh tử, thời đã có thể bủa lưới điều phục tất cả chúng-sanh, thời đã có thể quán căn của tất cả chúng-sanh, thời đã có thể nhiếp tất cả chúng-sanh giới, thời đã có thể thủ hộ tất cả chúng Bồ-Tát, thời đã có thể luận nghị tất cả bồ-tát-sự, thời đã có thể qua đến tất cả chỗ Như-Lai, thời đã có thể ở trong hội của tất cả Như-Lai, thời đã có để hiện thân ở trước tất cả chúng-sanh, thời đã có thể không nhiễm trước tất cả thế-pháp, thời đã có thể siêu-việt tất cả cảnh-giới ma, thời đã có thể an-trụ tất cả cảnh-giới Phật, thời đã có thể đến cảnh vô-ngại của tất cả Bồ-Tát, thời đã có thể tinh-cần cúng-dường tất cả chư Phật, thời đã đồng thể-tánh với tất cả phật-pháp, đã cột lụa diệu-pháp, đã thọ Phật quán đảnh, đã trụ nhất-thiết-trí, đã có thể khắp sanh tất cả phật-pháp, đã có thể mau lên bậc nhất-thiết-trí.

Bạch Ðại-Thánh! Bồ-Tát thế nào học bồ-tát-hạnh? Thế nào tu bồ-tát-đạo?

Thế nào tùy chỗ tu học mau được đầy đủ tất cả phật-pháp, đều có thể độ thoát chúng-sanh đã nhớ đến, có thể thành mãn những đại-nguyện đã phát, có thể khắp rốt ráo những hạnh đã khởi, có thể an-ủi tất cả thiên nhơn, chẳng phụ tự-thân, chẳng dứt Tam-Bảo, chẳng hư tất cả phật-chủng bồ-tát-chủng, có thể gìn pháp-nhãn của tất cả chư Phật?

Những sự trên đây xin Ðại-Thánh chỉ dạy cho.

Di-Lặc Bồ-Tát quán-sát tất cả chúng-hội nơi đạo-tràng, chỉ dạy Thiện-Tài rằng:

Nầy đại-chúng! Các Ngài thấy Ðồng-Tử nầy hiện đương hỏi tôi về công-đức của bồ-tát-hạnh đây chăng?

Ðồng-Tử nầy dũng-mãnh tinh-tấn, chí nguyện không tạp, thâm tâm kiên-cố hằng chẳng thối-chuyển, đủ những hi-vọng thù-thắng như chữa dầu cháy không hề nhàm đủ, mến chư thiện-tri-thức thân-cận cúng-dường, tìm cầu khắp nơi để kính thờ thỉnh pháp.

Trước đây, Ðồng-Tử nầy thọ giáo nơi đức Văn-Thù, rồi lần lượt đi qua phương nam cầu thiện-tri-thức. Trải qua một trăm mười vị thiện-tri-thức, nay mới đến đây gặp tôi. Ðồng-Tử nầy chưa từng có một niệm lười mỏi.

Ðồng-Tử nầy rất là khó có.

Ðồng-Tử nầy xu hướng đại-thừa, đi nơi đại-huệ, phát đại dũng-mãnh, choàng giáp đại-bi, dùng tâm đại-từ cứu hộ chúng-sanh, khởi đại hạnh đại-tinh-tấn ba-la-mật, làm đại thương-chủ hộ trợ các chúng-sanh, làm thuyền pháp lớn vượt qua biển hữu-lậu, trụ ở đại-đạo, chứa họp pháp-bửu lớn, tu những pháp trợ-đạo rộng lớn. Người như thế rất khó được nghe, rất khó được thấy, rất khó được gần-gũi, cùng ở cùng đi.

Tại sao vậy? Vì Ðồng-Tử nầy phát tâm cứu hộ tất cả chúng-sanh, làm cho tất cả chúng-sanh thoát khổ, khỏi ác-thú, rời hiểm nạn, phá vô-minh, khỏi sanh tử, dứt các loài, khỏi cảnh ma, chẳng nhiễm thế-pháp, ra khỏi ái dục, dứt tham, hết kiến chấp, phá tưởng, tuyệt mê, xô kiêu mạn, trừ phiền-não, triệt ngủ nghỉ, xé lưới ái, diệt vô-minh, qua khỏi dòng hữu-lậu, lìa siểm nịnh, tịnh tâm-cấu ra khỏi sanh tử.

Ðồng-Tử nầy vì những người bị bốn dòng hữu lậu cuốn trôi mà tạo thuyền đại-pháp. Vì những người bị sình lầy kiến chấp lún chìm mà lập cầu đại-pháp. Vì những người bị si tối làm hôn mê mà thắp đèn đại-trí. Vì những người đi trong đồng-hoang sanh tử mà khai thị thánh-đạo. Vì những người mang bệnh nặng phiền-não mà điều hòa pháp-dược. Cho người bị khổ sanh lão tử uống cam-lộ để được an-ổn. Vì người vào trong lửa tham sân si mà tưới định-thủy cho họ được thanh-lương. Với người nhiều lo sầu thời an-ủi cho họ được an. Với người bị nhốt trong ngục hữu-lậu thời khuyên bảo họ thoát ra. Với người vào lưới kiến chấp thời mở lưới bằng kiếm trí-huệ. Với người ở trong thành tam-giới thời chỉ cửa giải-thoát. Với người ở chỗ hiểm nạn thời dắt họ đến chỗ an-ổn. Với người sợ giặc kiết-sử thời cho họ pháp vô-úy. Với người đọa ác-thú thời trao cho họ tay từ-bi. Với người bị hại về ngũ uẩn thời chỉ cho họ thành niết-bàn. Với người bị ràng buộc trong thập-bát-giới thời dùng thánh-đạo để mở.Với người đắm nơi trong tụ lạc lục-xứ trống rỗng thời dùng ánh sáng trí-huệ để dẫn họ ra. Người ở nơi đạo tà thời dùng chánh-đạo cứu-họ. Người gần ác-hữu thời chỉ thiện-hữu cho họ. Người ưa phàm-pháp thời dạy cho thánh-pháp. Người ham sanh tử thời làm cho họ xu hướng thành nhất-thiết-trí.

Ðồng-Tử nầy hằng dùng những công-hạnh như vậy để cứu hộ chúng-sanh, phát bồ-đề-tâm chưa từng thôi dứt, cầu đại-thừa-đạo chưa từng lười mỏi, uống những pháp-thủy không lòng nhàm đủ, hằng siêng chứa nhóm hạnh trợ-đạo, thường thích tịnh tu tất cả pháp-môn, tu hạnh Bồ-Tát chẳng bỏ tinh-tấn, thành mãn đại-nguyện, khéo thật hành phương-tiện, luôn muốn được thấy thiện-tri-thức, kính thờ thiện-tri-thức thân không lười mỏi, nghe thiện-trí-thức dạy bảo thời luôn tùy thuận thật hành chưa từng trái nghịch.

Nầy đại-chúng! Nếu chúng-sanh nào có thể phát tâm vô-thượng bồ-đề thời là rất hi-hữu. Nếu đã phát tâm lại có thể tinh-tấn phương-tiện chứa nhóm những phật-pháp như vậy thời lại càng hi-hữu hơn.

Lại có thể cầu bồ-tát-đạo như vậy, tịnh bồ-tát-hạnh như vậy, thờ thiện-tri-thức như vậy, như chữa dầu cháy như vậy, thuận theo lời dạy của thiện-tri-thức như vậy. kiên-cố tu hành như vậy, chứa nhóm bồ-đề-phần như vậy, chẳng cầu tiếng tăm lợi dưỡng như vậy, chẳng bỏ tâm bồ-tát thuần nhứt như vậy, chẳng thích nhà cửa như vậy, chẳng ham dục lạc, chẳng luyến cha mẹ thân-thích tri-thức, chẳng thích theo cầu bồ-tát bạn-lữ, lại có thể chẳng đoái đến thân mạng mà chỉ nguyện siêng tu đạo nhứt-thiết-trí như vậy, thời nên biết đó là lần lượt càng khó hơn.

Nầy đại-chúng! Chư Bồ-Tát khác trải qua vô-lượng trăm ngàn muôn ức na-do-tha kiếp mới có thể đầy đủ bồ-tát hạnh nguyện, mới có thể gần phật bồ-đề.

Ðồng-Tử nầy trong một đời có thể tịnh phật độ, có thể hóa chúng-sanh, có thể dùng trí-huệ thâm-nhập pháp-giới, có thể thành-tựu các môn ba-la-mật, có thể thêm rộng tất cả hạnh, có thể viên-mãn tất cả đại-nguyện, có thể siêu xuất tất cả ma-nghiệp, có thể thừa sự tất cả thiện-hữu, có thể thanh-tịnh bồ-tát-đạo, có thể đầy đủ những hạnh Phổ-Hiền.

Di-Lặc Bồ-Tát khen ngợi công-đức của Thiện-Tài làm cho vô-lượng trăm ngàn chúng-sanh phát tâm-bồ-đề, rồi bảo Thiện-Tài rằng:

Lành thay! Lành thay! Nầy Thiện-nam-tử! Ngươi vì lợi ích tất cả thế-gian, vì cứu hộ tất cả chúng-sanh, vì siêng cầu tất cả phật-pháp, nên phát tâm vô-thượng bồ-đề.

Nầy Thiện-nam-tử! Ngươi được lợi lành, khéo được thân người, khéo trụ thọ-mạng, khéo gặp đức Như-Lai xuất hiện, khéo thấy Văn-Thù Sư-Lợi đại thiện-tri-thức, thân của ngươi là thiện-khí được những thiện-căn đượm nhuần, được pháp lành nuôi lớn, bao nhiêu giải-dục đều được thanh-tịnh, đã được chư Phật đồng hộ-niệm, đã được thiện-hữu nhiếp thọ.

Tại sao vậy?

Vì tâm bồ-đề như chủng-tử, vì có thể sanh tất cả phật-pháp. Bồ-đề-tâm như ruộng tốt, vì có thể sanh trưởng bạch-tịnh-pháp cho tất cả chúng-sanh. Bồ-đề-tâm như đại-địa, vì có thể giữ gìn tất cả thế-gian. Bồ-đề-tâm như tịnh thủy, vì có thể rửa sạch phiền-não nhơ nhớp. Bồ-đề-tâm như gió lớn, vì vô-ngại khắp ở thế-gian. Bồ-đề-tâm như lửa mạnh, vì có thể đốt tiêu củi kiến chấp. Bồ-đề-tâm như tịnh-nhật, vì chiếu khắp tất cả thế-gian. Bồ-đề-tâm như mặt nguyệt sáng, vì những pháp bạch-tịnh đều viên-mãn. Bồ-đề-tâm như đèn sáng, vì có thể phóng những pháp quang-minh. Bồ-đề-tâm như mắt sáng, vì thấy khắp tất cả chỗ an nguy. Bồ-đề-tâm dường như con đường lớn, vì dẫn vào thành đại-trí. Bồ-đề-tâm như con đường chánh, vì làm cho rời khỏi tà-pháp. Bồ-đề-tâm như cỗ xe lớn, vì có thể chuyên chở chư Bồ-Tát. Bồ-đề-tâm như cửa nẻo, vì khai thị tất cả hạnh bồ-tát. Bồ-đề-tâm như cung-điện, vì an-trụ tu tập pháp tam-muội. Bồ-đề-tâm như khu vườn vì, ở trong đó dạo chơi hưởng pháp-lạc. Bồ-đề-tâm như nhà cửa vì an-ổn tất cả chúng-sanh. Bồ-đề-tâm là chỗ về, vì lợi ích tất cả thế-gian. Bồ-đề-tâm là chỗ dựa, vì là dựa nương của những bồ-tát-hạnh. Bồ-đề-tâm như từ-phụ, vì dạy dỗ tất cả chư Bồ-Tát. Bồ-đề-tâm như từ-mẫu, vì sanh trưởng tất cả Bồ-Tát. Bồ-đề-tâm như nhũ-mẫu, vì dưỡng dục tất cả chư Bồ-Tát. Bồ-đề-tâm như thiện-hữu, vì thành tựu lợi ích cho chư Bồ-Tát. Bồ-đề-tâm như vua chúa, vì vượt hơn tất cả hàng nhị-thừa. Bồ-đề-tâm như đế-vương, vì được tự-tại trong tất cả nguyện. Bồ-đề-tâm như đại-hải, vì tất cả công-đức đều vào trong đó. Bồ-đề-tâm như núi Tu-Di, vì-bình-đẳng nơi tâm các chúng-sinh, Bồ-đề-tâm như Thiết-Vi vì nhiếp trì tất cả thế-gian. Bồ-đề-tâm như Tuyết-Sơn, vì sanh lớn tất cả cây thuốc trí-huệ, Bồ-đề-tâm như Hương-Sơn, vì xuất sanh tất cả hương công-đức, Bồ-đề-tâm như hư-không, vì những diệu công-đức rộng vô-biên. Bồ-đề-tâm như liên-hoa, vì chẳng nhiễm tất cả pháp thế-gian. Bồ-đề-tâm như voi thông-minh thuần thục, vì tâm ấy thuận lành chẳng ngang trái. Bồ-đề-tâm như ngựa hiền hay, vì xa lìa tất cả những tánh ác. Bồ-đề-tâm như điều-ngự-sư, vì thủ hộ tất cả pháp đại-thừa. Bồ-đề-tâm như thuốc hay, vì trị được tất cả bậnh phiền-não. Bồ-đề-tâm như hố sâu, vì có thể làm sụp đổ tất cả những ác-pháp. Bồ-đề-tâm như kim-cang, vì đều có thể xuyên thấu tất cả các pháp. Bồ-đề-tâm như thấp hương, vì có thể đựng tất cả hương công-đức. Bồ-đề-tâm như diệu-hoa, vì tất cả thế-gian đều ưa thấy. Bồ-đề-tâm như bạch-chiên-đàn, vì trừ những nóng tham dục làm cho mát-mẻ. Bồ-đề-tâm như hắc-trâm-hương, vì có thể xong khắp pháp-giới. Bồ-đề-tâm như Thiên-Kiến dược-vương, vì phá được tất cả bệnh phiền-não, Bồ-đề-tâm như thuốc tỳ-cấp-ma, vì nhổ được tất cả hoặc-tiển. Bồ-đề-tâm như Ðế-Thích, vì là tối tôn trong tất cả vua chúa. Bồ-đề-tâm như Tỳ-Sa-Môn, vì dứt được tất cả khổ nghèo cùng. Bồ-đề-tâm như Công-Ðức-Thiên, vì trang-nghiêm với tất cả công đức. Bồ-đề-tâm như đồ trang-nghiêm, vì trang-nghiêm tất cả chư Bồ-Tát. Bồ-đề-tâm như kiếp-hỏa đốt cháy, vì có thể cháy tiêu tất cả hữu-vi. Bồ-đề-tâm như thuốc vô-sanh-căn, vì trưởng-dưỡng tất cả phật-pháp. Bồ-đề-tâm như long-châu, vì tiêu được tất cả độc phiền-não. Bồ-đề-tâm như thủy-thanh-châu, vì có thể thanh tất cả phiền-não-trược. Bồ-đề-tâm như châu như-ý, vì châu cấp cho tất cả kẻ nghèo thiếu. Bồ-đề-tâm như bình công-đức, vì làm cho tâm chúng-sanh được thoả-mãn. Bồ-đề-tâm như cây như-ý, vì có thể mưa tất cả đồ trang-nghiêm. Bồ-đề-tâm như áo lông ngỗng, vì chẳng dính bụi sanh-tử. Bồ-đề-tâm như chỉ bạch điệp, vì bổn lai tánh thanh-tịnh. Bồ-đề-tâm như lưỡi cày bén, vì có thể dọn tất cả ruộng chúng-sanh. Bồ-đề-tâm như na-la-diên, vì có thể dẹp tất cả kẻ địch ngã-kiến. Bồ-đề-tâm như mũi tên đi mau, vì phá được tất cả đích khổ. Bồ-đề-tâm như ngọn mâu nhọn, vì có thể xuyên thủng giáp phiền-não. Bồ-đề-tâm như giáp cứng, vì có thể hộ tâm như-lý. Bồ-đề-tâm như dao bén, vì có thể chặt tất cả đầu phiền-não. Bồ-đề-tâm như gươm bén, vì có thể chặt đức tất cả giáp kiêu-mạn. Bồ-đề-tâm như dũng-tướng-tràng, vì có thể dẹp phục tất cả ma-quân. Bồ-đề-tâm như cưa bén, vì có thể cưa đứt tất cả cây vô-minh. Bồ-đề-tâm như búa bén, vì có thể chặt những cây khổ. Bồ-đề-tâm như binh-khí, vì có thể đề phòng nạn khổ. Bồ-đề-tâm như cánh tay giỏi, vì phòng hộ tất cả những pháp độ thân, Bồ-đề-tâm như đôi chân tốt, vì an lập tất cả những công-đức. Bồ-đề-tâm như thuốc chữa mắt, vì diệt trừ tất cả bệnh lòa vô-minh. Bồ-đề-tâm như kìm nhiếp, vì có thể nhổ tất cả gai thân-kiến. Bồ-đề-tâm như ngọa-cụ, vì dứt trừ những lao khổ sanh-tử. Bồ-đề-tâm như thiện-tri-thức, vì có thể mở tất cả dây trói sanh-tử. Bồ-đề-tâm như tài-bửu, vì trừ tất cả sự nghèo cùng. Bồ-đề-tâm như đại đạo-sư, vì khéo biết đạo xuất yếu của Bồ-Tát. Bồ-đề-tâm như phục-tạng, vì xuất sanh của công-đức không thiếu. Bồ-đề-tâm như nước suối trào, vì sanh nước trí-huệ không cùng tận. Bồ-đề-tâm như gương sáng, vì hiện khắp tất cả tượng pháp-môn. Bồ-đề-tâm dường như liên-hoa, vì chẳng nhiễm tất cả tội cấu. Bồ-đề-tâm như sông lớn, vì chảy dẫn ra tất cả nhiếp-pháp độ-pháp. Bồ-đề-tâm như đại Long-Vương, vì có thể mưa tất cả diệu-pháp. Bồ-đề-tâm dường như mạng-căn, vì nhậm trì thân đại-bi của Bồ-Tát. Bồ-đề-tâm như cam-lộ, vì có thể làm cho an-trụ nơi cõi bất-tử. Bồ-đề-tâm như tấm lưới lớn, vì nhiếp khắp tất cả những chúng-sanh. Bồ-đề-tâm như lưới chài, vì nhiếp lấy tất cả kẻ đáng được hóa-độ. Bồ-đề-tâm như câu mồi, vì bắt những kẻ ở trong vực hữu-lậu. Bồ-đề-tâm như thuốc a-già-đà, vì có thể làm cho người vô-bệnh vĩnh-viễn được an-ổn. Bồ-đề-tâm như thuốc trừ độc, vì có thể tiêu hết độc tham ái. Bồ-đề-tâm như người trì chú giỏi, vì có thể trừ tất cả độc điên-đảo. Bồ-đề-tâm như gió mạnh, vì có thể thổi cuốn tất cả sương mù che chướng. Bồ-đề-tâm như xứ châu bửu, vì xuất sanh tất cả báu giác-phần. Bồ-đề-tâm như chủng-tánh tốt, vì xuất sanh tất cả pháp bạch-tịnh. Bồ-đề-tâm như nhà ở, vì là chỗ ở của những pháp công-đức. Bồ-đề-tâm như trị-tứ, vì là chỗ đỗi chác cũa thương-gia Bồ-Tát. Bồ-đề-tâm như thuốc luyện vàng, vì có thể trị tất cả căn phiền-não. Bồ-đề-tâm như mật tốt, vì viên-mãn tất cả vị công-đức. Bồ-đề-tâm như chánh-đạo, vì khiến chư Bồ-Tát vào trí-thành. Bồ-đề-tâm như chậu tốt, vì có thể đựng tất cả pháp bạch-tịnh. Bồ-đề-tâm như mưa phải thời, vì có thể trừ tất cả bụi phiền-não. Bồ-đề-tâm là chỗ ở, vì là chỗ ở của tất cả Bồ-Tát. Bồ-đề-tâm là hạnh vô-tận, vì chẳng chứng lấy quả giải-thoát của Thanh-Văn. Bồ-đề-tâm như tịnh lưu-ly, vì tự-tánh sáng sạch không nhơ, Bồ-đề-tâm như châu Ðế-thanh, vì hơn hẳn trí của thế-gian và nhị-thừa. Bồ-đề-tâm như tiếng trống tan canh, vì đánh thức chúng-sanh say ngủ bởi phiền-não. Bồ-đề-tâm như nước trong sạch, vì tánh vốn thuần sạch không nhơ đục. Bồ-đề-tâm như vàng diêm-phù-đàn, vì che chói tất cả pháp lành hữu-vi. Bồ-đề-tâm như đại-sơn-vương, vì siêu xuất tất cả thế-gian. Bồ-đề-tâm là chỗ về, vì chẳng chối từ tất cả ai trở về. Bồ-đề-tâm là nghĩa lợi, vì có thể trừ tất cả sự suy não. Bồ-đề-tâm là diệu-bửu, vì có thể làm cho tất cả tâm sanh hoan-hỉ. Bồ-đề-tâm chư hội đại-thí, vì sung-mãn tất cả tâm chúng-sanh. Bồ-đề-tâm là tôn-thắng, vì tâm chúng-sanh không tâm nào bằng. Bồ-đề-tâm như phục-tạng, vì có thể nhiếp tất cả phật-pháp. Bồ-đề-tâm như lưới nhơn-đà-la, vì có thể phục a-tu-la phiền-não. Bồ-đề-tâm như gió bà-lâu-na, vì có thể chấn động những kẻ đáng được hóa-độ. Bồ-đề-tâm như lửa nhân-đà-la, vì có thể đốt cháy tất cả hoặc-tập. Bồ-đề-tâm như phật-chi-đề, vì tất cả thế-gian nên cúng-dường.

Nầy Thiện-nam tử! Bồ-đề-tâm thành-tựu vô-lượng công đức như vậy.

Tóm lại, phải biết bồ-đề-tâm đồng với công-đức của tất cả phật-pháp.

Tại sao vậy?

Vì nhân nơi bồ-đề-tâm mà xuất sanh tất cả bồ-tát-hạnh. Tam-thế Như-Lai từ bồ-đề-tâm mà xuất sanh.

Vì thế nên nếu có ai phát tâm vô-thượng bồ-đề thời là đã xuất sanh vô-lượng công-đức, có thể nhiếp thủ khắp nhất-thiết-trí-đạo.

Nầy Thiện-nam-tử! Ví như có người được thuốc vô-úy thời rời năm điều khủng bố.

Những là lửa không cháy được. Ðộc không hại được. Gươm dao không đứt được. Nước không làm trôi chìm được. Khói không xông ngộp được.

Cũng vậy, đại Bồ-Tát được thuốc nhất-thiết-trí bồ-đề-tâm, thời lửa tham không cháy, độc sân chẳng hại, dao hoặc chẳng đứt, dòng hữu-lậu chẳng cuốn trôi, khói giác quán không thể xông hại.

Ví như có người được thuốc giải thoát, thời vĩnh viễn không hoạn nạn. Cũng vậy, đại Bồ-Tát được thuốc giải-thoát-trí bồ-đề-tâm, thời lìa hẳn sanh tử hoạn nạn.

Ví như có người cầm thuốc ma-ha-ưng-già, rắn độc nghe mùi thời liền tránh xa. Cũng vậy, đại Bồ-Tát gìn lấy thuốc đại-ưng-già bồ-đề-tâm, thời tất cả rắn độc ác phiền-não nghe hơi thảy đều tan mất.

Ví như có người cầm thuốc vô-thắng, tất cả oán địch không hơn được. Cũng vậy, đại Bồ-Tát cầm thuốc vô-thắng đại-bồ-đề-tâm, thời hàng phục được tất cả ma-quân.

Ví như có người cầm thuốc tỳ-cấp-ma, có thể làm cho độc-tiển tự-nhiên rơi rớt. Cũng vậy, đại Bồ-Tát cầm thuốc ty-cấp-ma bồ-đề-tâm, làm cho tên độc tham sân si ác-kiến tự-nhiên rơi rớt.

Ví như có người cầm thuốc thiện-kiến, có thể trừ tất cả bệnh tật đã mang. Cũng vậy, đại Bồ-Tát cầm thuốc thiện-kiến bồ-đề-tâm, trừ hết tất cả bệnh phiền-não.

Như có dược-thọ tên san-đà-na, có ai lấy vỏ dùng thoa ghẻ, thời ghẻ liền lành, vỏ cây ấy vừa lấy là sanh lại liền, lấy không hết được. Cũng vậy, đại Bồ-Tát từ bồ-đề-tâm sanh cây nhất-thiết-trí, có ai thấy mà sanh lòng tin, thời ghẻ phiền-não nghiệp đều được tiêu diệt, cây nhất-thiết-trí không hề tổn.

Như có cây thuốc tên là vô-sanh-căn, do sức của cây nầy mà tăng trưởng tất cả cây ở Diêm-Phù-Ðề. Cũng vậy do sức cây bồ-đề-tâm của đại Bồ-Tát làm cho tất cả thiện-pháp của hàng hữu-học vô-học và chư Bồ-Tát đều được tăng trưởng.

Ví như thuốc A-lam-bà, nếu dùng thoa thân, thời thân và tâm đều có kham năng. Cũng vậy bồ-đề-tâm của đại Bồ-Tát làm cho thân tâm tăng trưởng pháp lành.

Ví như có người được thuốc nhiệm lực, phàm những sự đã được nghe thời ghi nhớ chẳng quên. Ðại Bồ-Tát được tâm bồ-đề thời nghe trì tất cả phật-pháp đều không quên mất.

Ví như thuốc đại-liên-hoa, nếu ai uống thuốc nầy thời sẽ sống lâu một kiếp. Cũng vậy, đại Bồ-Tát uống bồ-đề-tâm thời được thọ-mạng tự-tại trong vô-số kiếp.

Ví như thuốc ẩn hình, người cầm thuốc nầy thời nhơn và phi-nhơn đều không thấy được. Ðại Bồ-Tát cầm bồ-đề-tâm thời tất cả ma-chúng không thấy được.

Nầy Thiện-nam-tử! Như biển có châu-vương tên là Phổ-Tập-Chúng-Bửu. Châu nầy nếu còn, giả-sử kiếp-hỏa đốt cháy thế-gian cũng không thể làm cho biển nầy giảm được một giọt nước. Cũng vậy, tâm bồ-đề ở trong biển đại-nguyện của Bồ-Tát, nếu thường ghi nhớ gìn-giữ chẳng thối-thất, thời không thể hư-hoại một thiện-căn của Bồ-Tát. Nếu thối tâm bồ-đề thời tất cả pháp lành đều diệt tan.

Như có châu ma-ni tên là Ðại-Quang-Minh, nếu ai đeo châu nầy thời bao nhiêu quang-minh của tất đồ trang-sức khác đều bị che chói khuất cả. Cũng vậy bồ-đề tâm trang-nghiêm nơi thân của Bồ-Tát thời tất cả tâm nhị-thừa đều khuất mất.

Như thủy-thanh-châu có thể lóng trong nước đục. Cũng vậy, bồ-đề-tâm của Bồ-Tát lóng sạch tất cả phiền-não.

Như có người đeo châu Trụ-Thủy xuống biển không bị nước làm hại. Cũng vậy, đại Bồ-Tát được bồ-đề-tâm vào trong tất cả biển sanh-tử trọn không bị chìm.

Như có người được bửu châu của rồng rồi cầm đi vào long-cung, không bị các loài rồng rắn làm hại. Cũng vậy, đại Bồ-Tát được tâm bồ-đề vào trong dục-giới, tất cả phiền-não không làm hại được.

Như Thiên-Ðế-Thích đội mão ma-ni che khuất tất cả thiên-chúng-khác. Cũng vậy, đại Bồ-Tát đội mão đại-nguyện bồ-đề-tâm thời vượt hơn tất cả chúng-sanh trong tam-giới.

Như có người được châu như-ý thời hết nghèo khổ. Cũng vậy, đại Bồ-Tát, được bồ-đề-tâm thời xa lì tất cả tà-mạng bố-úy.

Như có người được châu Nhựt-Tinh cầm hướng về phía ánh nắng mặt trời thời sanh ra lửa. Cũng vậy, đại Bồ-Tát được tâm bồ-đề cầm hướng đến trí-quang mà sanh trí-hỏa.

Như có người được châu Nguyệt-Tinh, cầm hướng về phía ánh sáng mặt trăng thời sanh ra nước. Cũng vậy, đại Bồ-Tát được tâm bồ-đề xoay về hồi-hướng thời sanh tất cả thiện-căn đại-nguyện.

Như Long-Vương đội mão ma-ni-bửu thời rời khỏi tất cả oán-địch bố-úy. Cũng vậy, đại Bồ-Tát đội mão bồ-đề-tâm đại-bi thời rời khỏi ác-đạo và các nạn.

Như có bửu-châu tên là nhất-thiết-thế-gian-trang-nghiêm-tạng, nếu ai được châu nầy thời muốn chi cũng đều được thoả mãn, mà châu nầy không bị tổn giảm. Cũng vậy, nếu ai được tâm bồ-đề nầy thời đều được toại nguyện, mà tâm nầy không bị tổn giảm.

Như Chuyển-Luân-Vương có ma-ni-bửu để trong cung, phóng ánh sáng lớn phá tất cả tối. Cũng vậy, đại Bồ-Tát đem bồ-đề-tâm để ở dục-giới phóng đại-trí-quang phá vô-minh của mọi loài.

Như châu đế-thanh đại-ma-ni, ai được quang-minh của châu nầy chiếu nhằm thời thân người ấy đồng màu với châu nầy. Cũng vậy, đại Bồ-Tát dùng bồ-đề-tâm quán-sát các pháp hồi-hướng thiện-căn thời đều đồng, một màu bồ-đề-tâm.

Như châu lưu-ly trăm ngàn năm ở trong chỗ nhơ uế mà chẳng nhiễm nhơ-uế, vì tánh nó bổn lai trong sạch. Cũng vậy, bồ-đề-tâm của đại Bồ-Tát ở dục-giới trăm ngàn kiếp mà chẳng bị sự lỗi ác của cõi dục làm nhiễm, vì tánh nó thanh-tịnh như pháp-giới.

Như châu tịnh-quang-minh có thể chói khuất màu sắc của tất cả châu báu khác. Cũng vậy, bồ-đề-tâm của đại Bồ-Tát, có thể chói khuất tất cả công-đức của phàm-phu và nhị-thừa.

Như châu hỏa-diệm đều có thể trừ diệt tất cả tối tăm. Cũng vậy, bồ-đề-tâm của đại Bồ-Tát có thể diệt-trừ tất cả sự tội tăm của vô-tri.

Như trong biển có vô-giá-bửu, người đi buôn châu báu lượm được đem về thành thị, tất cả quang sắc của những châu ngọc khác không bằng được. Cũng vậy, bồ-đề-tâm ở trong biển lớn sanh tử, đại Bồ-Tát dùng thuyền đại-nguyện chở đem vô thành giải-thoát, công-đức của hàng nhị-thừa không bằng được.

Như có bửu-châu tên là tự-tại-vương ở tại châu Diêm-Phù-Ðề cách mặt nhật mặt nguyệt bốn vạn do-tuần, bao nhiêu cảnh vật trang-nghiêm của nhật nguyệt đều hiện bóng rõ ràng trong bửu châu nầy. Cũng vậy, công-đức thanh-tịnh của đại Bồ-Tát phát bồ-đề-tâm ở trong sanh-tử chiếu pháp-giới không, tất cả công-đức của phật-trí đều hiện trong đó.

Như bửu-châu tự-tại-vương, tất cả tài vật châu báu y-phục mà ánh sáng nhật nguyệt chiếu đến giá trị không bằng được bửu-châu nầy. Cũng vậy, tâm bồ-đề của đại Bồ-Tát, tất cả công-đức của thiên nhơn nhị-thừa mà nhất-thiết-trí-quang chiếu đến đều không bằng được.

Như trong biển có bửu-châu hải-tạng. Châu nầy hiện khắp những sự trang-nghiêm trong biển. Cũng vậy, bồ-đề-tâm của Bồ-Tát hiện khắp những sự trang-nghiêm của nhất-thiết-trí.

Như vàng Diêm-Phù-Ðàn trên trời chỉ trừ tâm-vương đại-ma-ni, không bảo vật nào sánh bằng. Cũng vậy, bồ-đề-tâm của đại Bồ-Tát, trừ nhất-thiất-trí, không công-đức nào sánh bằng.

Như người giỏi phương-pháp thâu rồng, thời ở trong loài rồng được tự-tại. Cũng vậy, bồ-đề-tâm của Bồ-Tát được tự-tại trong tất cả phiền-não.

Như dũng-sĩ mặc giáp cầm binh-khí, tất cả oán địch không chế phục được. Cũng vậy, đại Bồ-Tát mặc và cầm tâm bồ-đề thời tất cả nghiệp hoặc không chế-ngự được.

Như hắc-chiên-đàn-hương trên trời, nếu đốt một chỉ thời hơi hương xông khắp Tiểu-Thiên thế-giới, giá trị của tất cả trân-bửu trong Ðại-Thiên thế-giới đều không bằng. Cũng vậy, một niệm công-đức của bồ-đề-tâm của đại Bồ-Tát xông khắp pháp-giới, tất cả công-đức của Thanh-Văn Duyên-Giác đều không bằng được.

Như bạch-chiên-đàn thoa trên thân thời có thể trừ tất cả nhiệt não làm cho thân tâm được thanh-lương. Cũng vậy, bồ-đề-tâm của đại Bồ-Tát có thể trừ tất cả hư vọng phân biệt phiền não, làm cho được trí-huệ.

Như núi Tu-Di, nếu ai ở gần thời đồng một màu sắc với núi nầy. Cũng vậy, nếu ai ở gần bồ-đề-tâm của đại Bồ-Tát thời đồng màu với nhất-thiết-trí của Bồ-Tát.

Như cây ba-lợi-chất-đa-la, hương khí của vỏ cây nầy không cỏ cây hoa nào ở Diêm-Phù-Ðề thơm bằng. Cũng vậy, hương công đức đại-nguyện của bồ-đề-tâm của đại Bồ-Tát hơn hẳn công-đức của hương giới, định, huệ, giải-thoát và giải-thoát tri-kiến của tất cả hàng nhị-thừa.

Như cây ba-lợi-chất-đa-la dầu chưa đơm hoa, nhưng nên biết chính nơi cây nầy là chỗ sản xuất vô-lượng hoa. Cũng vậy, tâm bồ-đề của đại Bồ-Tát dầu chưa phát sanh nhất thiết-trí, nhưng nên biết tâm nầy là chỗ xuất sanh hoa trí-giác cho vô-số chúng nhơn thiên.

Như dùng hoa ba-lợi-chất-đa-la để ướp y phục trong một ngày, thời mùi thơm hơn hẳn dùng các thứ hoa thơm khác ướp y-phục trong ngàn năm. Cũng vậy, tâm bồ-đề của đại Bồ-Tát huân tập công-đức trong một đời hơn hẳn công-đức vô-lậu của hàng nhị-thừa huân tập trong trăm ngàn kiếp.

Như trong hải-đảo mọc cây Gia-tử, cây rễ nhánh lá bông trái của cây nầy, mọi người thường lấy ăn dùng, mà vẫn không hết. Cũng vậy, tâm bồ-đề của đại Bồ-Tát, từ sơ phát tâm đến thành Phật, chánh-pháp trụ thế luôn lợi ích tất cả thế-gian không lúc nào tạm dứt.

Như có nước thuốc tên là ha-trạch-ca, nếu dùng một lượng nước thốc nầy thời biến được ngàn lượng đồng đều thành chân-kim, chẳng phải đồng biến được thuốc nầy. Cũng vậy, đại Bồ-Tát dùng thuốc trí hồi-hướng của bồ-đề-tâm, biến tất cả pháp nghiệp hoặc làm cho đều thành tướng nhất-thiết-trí, chẳng phải nghiệp hoặc biến được tâm nầy.

Như chút ít lửa, tùy đem nhúm đốt chỗ nào thời ngọn lửa càng thêm mạnh. Cũng vậy, bồ-đề-tâm của đại Bồ-Tát, tùy chỗ nào phan-duyên thời trí-huệ càng mạnh.

Như một ngọn đèn đem thắp trăm ngàn đèn khác, mà ngọn đèn nầy không tổn giảm. Cũng vậy, bồ-đề-tâm của đại Bồ-Tát sanh thành tam-thế phật-trí, mà tâm nầy không giảm không hết.

Như đem một ngọn đèn vào trong nhà tối, thời có thể phá trừ sự tối tăm đã trăm ngàn năm. Cũng vậy, bồ-đề-tâm của đại Bồ-Tát đem vào trong tâm của chúng-sanh, thời có thể trừ hết những phiền-não nghiệp-chướng trong trăm ngàn vạn ức bất-khả-thuyết kiếp.

Như tim đèn, tùy lớn hay nhỏ mà phát ánh sáng, nếu thêm dầu thời ánh sáng chẳng tắt. Cũng vậy, đèn bồ-đề-tâm của đại Bồ-Tát, dùng đại-nguyện làm tim quang-minh chiếu pháp-giới, thêm dầu đại-bi thời giáo-hóa chúng-sanh, tịnh phật-độ, thi hành phật-sự không thôi dứt.

Như Tha-Hóa-Tự-Tại Thiên-Vương đội thiên-quan diêm-phù-đàn kim, tất cả vật trang-nghiêm của chư Thiên-Tử cõi dục đều không bằng được. Cũng vậy, đại Bồ-Tát đội bồ-đề-tâm đại-nguyện, thời tất cả công-đức của phàm-phu nhị-thừa đều không bằng được.

Như lúc sư-tử-vương gầm rống, sư-tử con nghe tiếng đều thêm mạnh mẽ, còn các muông thú khác đều kinh sợ lẩn trốn. Cũng vậy, bồ-đề-tâm của Pháp-Vương gầm rống, chư Bồ-Tát pháp-vương-tử nghe tiếng Phật thời thêm công-đức, còn người có sở-đắc nghe tiếng Phật thời đều thối tán.

Như có người lấy gân sư-tử làm dây đờn, tấu đờn nầy thời tiếng của những đờn khác đều tắt mất. Cũng vậy, đại Bồ-Tát dùng tâm bồ-đề làm dây pháp-nhạc, khi tấu lên thời tất cả ngũ-dục và công-đức của nhị-thừa đều đoạn-tuyệt.

Như có người chứa sữa dê, sữa bò nhiều như biển lớn, đem một giọt sữa sư-tử nhỏ vào trong đó, thời đều biến hoại, sữa sư-tử xuyên thẳng qua không bị trở ngại. Cũng vậy, đại Bồ-Tát đem tâm bồ-đề để vào trong biển phiền-não nghiệp đã chứa từ vô-lượng kiếp, thời đều hư hoại, mà bồ-đề-tâm thẳng qua vô-ngại, trọn không trụ trong quả giải-thoát của nhị-thừa.

Như chim Ca-Lăng-Tần-Già lúc còn ở trong vỏ trứng đã có thế-lực, các loại chim khác đều không bằng được. Cũng vậy, bồ-đề-tâm của đại Bồ-Tát có những thế-lực công-đức đại-bi, hàng Thanh-Văn và Duyên-giác không bằng được.

Như chim Kim-Sí lúc mới sanh cặp mắt sáng lanh, bay liệng mau chóng, tất cả chim khác dầu đã sanh lâu đã trưởng thành vẫn không bằng được. Cũng vậy, đại Bồ-Tát phát bồ-đề-tâm làm pháp-vương-tử thời trí-huệ thanh-tịnh, đại-bi dũng-mãnh, tất cả hàng nhị-thừa dầu đã tu-hành trăm ngàn kiếp vẫn không bằng được.

Như có tráng-sĩ cầm mâu nhọn đâm thủng giáp cứng dầy xuyên qua vô-ngại. Cũng vậy, đại Bồ-Tát dùng bồ-đề-tâm đâm thủng hư những tà-kiến phiền-não, xuyên qua vô-ngại.

Như đại-lực-sĩ Ma-Ha Na-Già, nếu phấn khởi oai lực, thời trên trán nổi bóng ghẻ, nếu bóng ghẻ ấy chưa lặn, thời tất cả người trong Diêm-Phù-Ðề không ai đấu sức lại. Cũng vậy, đại Bồ-Tát nếu khởi đại-bi thời tất định phát bồ-đề-tâm, lúc chưa xả tâm nầy thời tất cả thế-gian những ma và ma-dân không làm hại được.

Như xạ-sư có các đệ-tử, dầu chưa tập quen nghề của thầy, nhưng sự khôn ngoan khéo léo đã hơn những người khác. Ðại Bồ-Tát lúc mới phát tâm cũng như vậy, dầu chưa tập quen hạnh nhất-thiết-trí, nhưng bao nhiêu trí nguyện dục giải đã hơn hẳn tất cả thế-gian và nhị-thừa.

Như người tập bắn tên, trước đặt chân sau mới tập cách bắn. Cũng vậy, đại Bồ-Tát muốn học đạo nhất-thiết-trí của Như-Lai, trước phải an-trụ tâm bồ-đề, rồi sau mới tu hành tất cả phật-pháp.

Như nhà ảo-thuật sắp bày trò, trước phải nhớ và trì ảo-pháp, sau đó biến hiện mới thành-tựu. Cũng vậy, đại Bồ-Tát sắp phát khởi thần-thông của chư Phật Bồ-Tát, trước phải phát tâm bồ-đề, sau đó mọi sự mới được thành-tựu.

Như ảo-thuật, không có hình sắchiện ra hình sắc. Cũng vậy, bồ-đề-tâm của đại Bồ-Tát dầu không hình sắc thấy được, nhưng có thể khắp thập phương pháp-giới thị-hiên những công-đức trang-nghiêm.

Như mèo chồn vừa nhìn thấy chuột, thời chuột liền rút vô hang chẳng dám ra. Cũng vậy, đại Bồ-Tát phát bồ-đề-tâm tạm dùng huệ-nhãn xem nghiệp hoặc, thời nghiệp hoặc liền lẩn trốn chẳng còn sanh.

Như có người đeo đồ trang-sức bằng vàng diêm-phù-đàn, vàng nầy chói che những vật khác, làm cho những vật khác như đống mực đen. Cũng vậy, đại Bồ-Tát đeo bồ-đề-tâm, tâm nầy che chói tất cả công-đức của phàm-phu và nhị-thừa, làm cho những công-đức nầy không còn quang sắc.

Như chút ít từ-thạch, sức của nó có thể hút những xiềng xích sắt. Cũng vậy, đại Bồ-Tát khởi một niệm bồ-đề-tâm, thời có thể hoại diệt tất cả kiến dục vô-minh.

Như có từ-thạch, sắt nếu đối diện thời đều bị hút đi không còn an-trụ được. Bồ-đề-tâm của đại Bồ-Tát cũng như vậy, những nghiệp phiền-não và nhị-thừa giải-thoát nếu tạm đối diện thời đều tan mất không còn lưu trú.

Như có người giỏi vào biển lớn, tất cả loài thủy-tộc không làm hại được, giả-sử vào miệng cá Ma-Kiệt cũng không bi cắn nuốt. Cũng vậy, đại Bồ-Tát phát tâm bồ-đề vào biển sanh-tử, những nghiệp phiền-não không làm hại được, giả-sử vào trong pháp thiện-tế của Thanh-Văn Duyên-Giác cũng chẳng bị họ làm lưu-nạn.

Như có người uống nước cam-lộ, tất cả vật độc không làm hại được. Cũng vậy, đại Bồ-Tát uống bồ-đề-tâm thời chẳng sa vào hàng Thanh-Văn Bích-Chi-Phật, vì đủ sức bi-nguyện quảng đại.

Như có người được thuốc an-thiện-na dùng thoa lên đôi mắt, dầu đi trong nhân-gian mà không ai ngó thấy. Cũng vậy, đại Bồ-Tát được bồ-đề-tâm, có thể dùng thiện-phương-tiện nhập cảnh-giới ma, nhưng tất cả chúng ma không thấy được.

Như có người nương dựa Quốc-Vương thời chẳng sợ những người khác. Cũng vậy, đại Bồ-Tát nương dựa thế-lực lớn của bồ-đề-tâm thời chẳng sợ những nạn chướng cái ác-đạo.

Như có người ở trong nước thời chẳng sợ lửa cháy. Cũng vậy, đại Bồ-Tát ở trong thiện-căn bồ-đề--tâm thời chẳng sợ trí giải-thoát của nhị-thừa.

Như người nương dựa mãnh-tướng thời không sợ tất cả kẻ oán địch. Cũng vậy, đại Bồ-Tát nương dựa sức dũng-mãnh của bồ-đề-tâm thời chẳng sợ tất cả ác-hạnh.

Như Thiện-Ðế-Thích cầm chày kim-cang đánh dẹp tất cả chúng A-Tu-La. Cũng vậy, đại Bồ-Tát cầm giữ tâm bồ-đề xô dẹp tất cả những ma ngoại-đạo.

Như có người uống thuốc diên-mạng thời mãi-mãi được tráng-kiện chẳng già chẳng ốm. Cũng vậy, đại Bồ-Tát uống bồ-đề-tâm thời trong vô-số kiếp thật hành bồ-tát-hạnh không nhàm mỏi, cũng không nhiễm trước.

Như có người điều hòa thuốc nước, thời trước hết phải lấy nước tốt trong sạch. Cũng vậy, đại Bồ-Tát muốn tu tất cả hạnh nguyện đại-thừa thời trước hết phải phát bồ-đề-tâm.

Như người giữ-gìn thân thể, thời trước hết phải gìn-giữ mạng-căn. Cũng vậy, đại Bồ-Tát hộ-trì phật-pháp thời phải hộ-trì bồ-đề-tâm trước.

Như người nếu mạng-căn dứt thời không thể làm lợi-ích cho cha mẹ tôn thân. Cũng vậy, đại Bồ-Tát nếu xả bỏ bồ-đề-tâm thời không thể làm lợi ích cho tất cả chúng-sanh, không thể thành-tựu phật-công-đức.

Như đại hải không ai làm hư hoại được. Cũng vậy, những nghiệp hoặc và tâm nhị-thừa chẳng thể làm hư hoại được.

Như ánh sáng mặt nhật, ánh sáng của tinh-tú không chói che được. Cũng vậy, tất cả trí vô-lậu của nhị-thừa không thể chói che bồ-đề-tâm được.

Như Vương-Tử sơ sanh, thời được tất cả quan đều tôn trọng, vì là dòng Vua tự-tại. Cũng vậy, đại Bồ-Tát ở trong phật-pháp phát bồ-đề-tam thời được các bực kỳ-túc tu phạm-hạnh, nhị-thừa đều tôn-trọng, vì đại-bi tự-tại.

Như Vương-Tử dầu tuổi còn nhỏ bé, nhưng các quan đều kính lễ. Cũng vậy, đại Bồ-Tát dầu mới phát tâm tu bồ-tát-hạnh, nhưng được các bực kỳ-cựu Thanh-Văn kính lễ.

Như Vương-Tử dầu chưa được tự-tại nơi tất cả các quan, nhưng đã đủ vương-tướng nên chẳng đồng với tất cả các quan, vì dòng dõi tôn thắng. Cũng vậy, đại Bồ-Tát dầu chưa được tự-tại trong tất cả nghiệp hoặc nhưng đã đủ tướng bồ-đề nên chẳng đồng với tất cả hàng nhị-thừa, vì là chủng-tánh Phật đệ nhất.

Như ma-ni-bửu thanh-tịnh, vì mắt lòa nên thấy là bất-tịnh. Cũng vậy, bồ-đề-tâm của đại Bồ-Tát vốn thanh-tịnh, kẻ vô-trí chẳng tin cho là bất-tịnh.

Như có thuốc được chú-lực gia-trì, nếu ai được thấy nghe cùng ở chung, thời tiêu diệt được tất cả bệnh. Cũng vậy, bồ-đề-tâm của đại Bồ-Tát được tất cả thiện-căn, trí-huệ, phương-tiện, nguyện trí đồng-nhiếp-trì, nếu có chúng-sanh thấy, nghe, ở chung, ghi nhớ, thời tất cả bệnh phiền-não đều được trừ diệt.

Như có người thường uống cam-lộ, thân người nầy chẳng biến chẳng hoại. Cũng vậy, nếu đại Bồ-Tát ghi nhớ giữ-gìn bồ-đề-tâm thời thân nguyện trí rốt ráo chẳng hoại.

Như người máy bằng gỗ, nếu không có chốt thời ly tán chẳng vận động được. Cũng vậy, đại Bồ-Tát nếu không bồ-đề-tâm thời công-hạnh phân tán chẳng thể thành-tựu tất cả phật-pháp.

Như Chuyển-Luân-Vương có trầm hương-bửu tên là Tượng-Tạng, nếu đốt hương nầy thời bốn binh-chủng của Luân-Vương đều bay lên không trung. Cũng vậy, đại Bồ-Tát có bồ-đề-tâm, nếu phát tâm nầy thời tất cả thiện-căn của Bồ-Tát thoát hẳn tam-giới đi trong trí vô-vi của Như-Lai.

Như chất kim-cang chỉ sản xuất từ mỏ kim-cang hoặc mỏ vàng, chẳng phải sản xuất từ mỏ báu khác. Cũng vậy, bồ-đề-tâm của đại Bồ-Tát chỉ phát sanh từ lòng đại-bi cứu-hộ chúng-sanh, và từ cảnh giới thù-thắng nhất-thiết-chủng trí, chẳng phải xuất sanh từ những thiện-căn khác.

Như cây vô-căn, chẳng có rễ mà nhánh lá bông trái đều sum-sê. Cũng vậy, bồ-đề-tâm của đại Bồ-Tát vốn-không căn vô-sở-đắc mà có thể trưởng dưỡng nhất-thiết-chủng trí thần-thông đại-nguyện che mát khắp thế-gian.

Như chất kim-cang chẳng phải chậu xấu chậu bể đựng được, chỉ trừ chậu lành thật tốt. Cũng vậy, những chúng-sanh hạ-liệt tham sân phá giới giải-đãi vọng-niệm vô-trí không thể chứa đựng bồ-đề-tâm, chỉ trừ Bồ-Tát thâm-tâm.

Như kim-cang có thể xoi lũng các chất báu khác. Cũng vậy, bồ-đề-tâm có thể xuyên thấu tất cả pháp-bảo.

Như kim-cang có thể làm hoại các hòn núi. Cũng vậy, bồ-đề-tâm có thể phá vỡ những núi tà-kiến.

Như kim-cang dầu đã bể, nhưng các thứ báu khác vẫn không bằng. Cũng vậy, bồ-đề-tâm dầu vì chí liệt mà có chút suy tổn, nhưng vẫn còn hơn tất cả công-đức của hàng nhị-thừa.

Như kim-cang dầu tổn khuyết nhưng vẫn trừ được sự nghèo cùng. Cũng vậy, bồ-đề-tâm dầu bị tổn khuyết chẳng tăng tấn được các công-hạnh, nhưng còn bỏ rời được tất cả sanh tử.

Như chút ít kim-cang có thể phá hoại tất cả vật. Cũng vậy, tâm bồ-đề nhập chút ít cảnh-giới liền phá tất cả vô-tri phiền-não.

Như kim-cang chẳng phải người phàm có được. Cũng vậy, chẳng phải những chúng-sanh ý liệt mà có được bồ-đề-tâm.

Như kim-cang, nếu là người chẳng biết rành chất báu thời không biết được công-năng tác-dụng của nó. Cũng vậy, người chẳng biết chánh-pháp thời không biết được công-năng tác-dụng của bồ-đề-tâm.

Như kim-cang không gì làm tiêu diệt được. Cũng vậy, tất cả pháp không thể tiêu-diệt được bồ-đề-tâm.

Như chày kim-cang, những người có sức khoẻ đều không cầm được, chỉ trừ người có sức đại na-la-diên. Cũng vậy, bồ-đề-tâm, tất cả hàng nhị-thừa đều không cầm giữ được, chỉ trừ Bồ-Tát có thiện-lực kiên-cố nhơn-duyên quảng đại.

Như kim-cang, tất cả vật khác không làm hoại được, mà kim-cang lại có thể làm hoại các vật, thể tánh nó vẫn không tổn giảm. Cũng vậy, bồ-đề-tâm khắp tất cả kiếp giáo-hoá chúng-sanh tu hành khổ hạnh. Những sự mà hàng Thanh-Văn Duyên-Giác không làm được, Bồ-Tát đều làm được, vẫn không nhàm mỏi, không tổn giảm bồ-đề-tâm.

Như kim-cang, chỉ trừ đất kim-cang, những chỗ khác không thể giữ chịu được. Cũng vậy, Thanh-Văn Duyên-Giác đều không thể giữ chịu được bồ-đề-tâm, chỉ trừ người xu-hướng phật-trí.

Như chậu kim-cang không nứt mẻ dùng đựng nước, thời vĩnh viễn nước không chảy rịn vào đất. Cũng vậy, dùng bồ-đề-tâm chứa đựng thiện-căn, thời vĩnh-viễn không lọt vào các loài.

Như kim-cang-tế có thể giữ vững đại địa. Cũng vậy, bồ-đề-tâm có thể giữ vững hạnh nguyện Bồ-Tát chẳng sa vào tam giới.

Như kim-cang ở lâu trong nước chẳng rã chẳng ướt. Cũng vậy, bồ-đề-tâm ở trong nghiệp hoặc sanh tử nhiều kiếp, vẫn không hư không đổi.

Như kim-cang, tất cả thứ lửa không đốt cháy được, chẳng làm nóng được. Cũng vậy, tất cả lửa phiền-não sanh tử không đốt được, không làm nóng được bồ-đề-tâm.

Như trên tòa kim-cang trong Ðại-Thiên thế-giới có thể giữ vững chư Phật ngời đạo-tràng, hàng ma, thành đạo vô thượng chánh-giác, tất cả những tòa khác không kham được. Cũng vậy, bồ-đề-tâm có thể giữ vững tất cả hạnh nguyện, các môn ba-la-mật, các nhẫn, các địa, hồi-hướng thọ-ký, tu tập pháp bồ-đề trợ đạo, cúng-dường chư Phật nghe pháp thọ hành của Bồ-Tát, tất cả tâm khác không có công năng nầy.

Nầy Thiện-nam-tử! Bồ-đề-tâm thành-tựu vô-lượng vô-biên nhẫn đến bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết công đức thù thắng.

Nếu có chúng-sanh phát tâm vô-thượng bồ-đề thời được công-đức thù thắng như vậy.

Vì thế nên ngươi đã được lợi lành lớn, vì ngươi đã phát tâm vô-thượng bồ-đề cầu bồ-tát-hạnh, đã được công-đức lớn như vậy.

Nầy Thiện-nam-tử! Như ngươi hỏi Bồ-Tát thế nào học bồ-tát-hạnh, thế nào tu bồ-tát-đạo?

Ngươi nên vào trong lâu các Tỳ-Lô-Giá-Na-Ðại-Trang-Nghiêm nầy, ngươi quán-sát khắp nơi thời có thể biết rõ học bồ-tát-hạnh, học rồi thời thành-tựu vô-lượng công-đức.

(Hán bộ quyển ba mươi bốn)

Bấy giờ đức Thế Tôn ngự ở điện Ma Ni Bửu Tạng trong cung của Tha Hoá Tự Tại Thiên Vương câu hội với chư đại Bồ Tát từ phương khác đến.

Chư Bồ Tát này không thối chuyển vô thượng Ðẳng Chánh Giác, an trụ trong cảnh giới của Bồ Tát trí, vào chỗ của Ðức Phật vào, siêng tu không ngớt, hay khéo hiển hiện những sự thần thông, giáo hóa điều phục tất cả chúng sanh rất đúng thời.

thành tựu tất cả đại nguyện, chư Bồ Tát này trong tất cả kiếp, tất cả đời, tất cả cõi, thường siêng tu tập không tạm lười nghỉ. Ðã đầy đủ phước, trí, trợ đạo, khắp lợi ích chúng sanh mà luôn không thiếu sót, đạt đến trí huệ phương tiện Ba la mật của Bồ Tát. Thị hiện vào sanh tửnhập Niết Bàn, mà vẫn chẳng bỏ phế thật hành Bồ Tát hạnh. Khéo vào tất cả thiền định giải thoát tam muội của Bồ Tát. Trí huệ thần thông đều được tự tại với tất cả việc làm. Ðược tất cả thần lực tự tại của Bồ Tát. Không hề động tác, mà trong khoảng một niệm có thể qua đến tất cả đạo tràng của chư Phật, làm thượng thủ trong chúng để thỉnh Phật thuyết pháp, hộ trì chánh pháp của Phật, cúng dường phụng thờ tất cả Chư Phật với tâm quảng đại, thường siêng tu hạnh Bồ Tát. Thân các Ngài hiện khắp thế gian. Tiếng các Ngài khắp mười phương pháp giới. Tâm trí các ngài vô ngại thấy khắp tam thế tất cả Bồ Tát. Các Ngài đều đã tu hành viên mãn tất cả công đức, trải bất khả thuyết kiếp cũng không thể nói hết.

Danh hiệu của các Ngài là :

Kim Cang Tạng Bồ Tát, Bửu Tạng Bồ Tát, Liên Hoa Tạng Bồ Tát, Ðức Tạng Bồ Tát, Liên Hoa Ðức Tạng Bồ Tát, Nhựt Tạng Bồ Tát, Tô Lợi Gia Tạng Bồ Tát, Vô Cấu Nguyệt Tạng Bồ Tát, Phổ Hiện Trang Nghiêm Tạng Bồ Tát, Tỳ Lô Giá Na Trí Tạng Bồ Tát, Diệu Ðức Tạng Bồ Tát, Chiên Ðàn Ðức Tạng Bồ Tát, Hoa Ðức Tạng Bồ Tát, Câu Tô Ma Ðức Tạng Bồ Tát, Ưu Bát La Ðức Tạng Bồ Tát, Thiên Ðức Tạng Bồ Tát, Phước Ðức Tạng Bồ Tát, Vô Ngại Thanh Tịnh Ðức Tạng Bồ Tát, Công Ðức Tạng Bồ Tát, Na La Diên Ðức Tạng Bồ Tát, Vô Cấu Tạng Bồ Tát, Ly Cấu Tạng Bồ Tát, Biện Tài Trang Nghiêm Tạng Bồ Tát, Ðại Quang Minh Võng Tạng Bồ Tát, Tịnh Oai Ðức Quang Minh Vương Tạng Bồ Tát, Kim Trang Nghiêm Ðại Công Ðức Quang Minh Vương Tạng Bồ Tát, Nhứt Thiết Tướng Trang Nghiêm Tịnh Ðức Tạng Bồ Tát, Kim Cang Diệm Ðức Tướng Trang Nghiêm Tạng Bồ Tát, Quang Minh Diệm Tạng Bồ Tát, Tinh Tú Vương Quang Chiếu Tạng Bồ Tát, Hư Không Vô Ngại Trí Tạng Bồ Tát, Diệu Âm Vô Ngại Tạng Bồ Tát, Ðà La Ni Công Ðức Trì Nhứt Thiết Chúng Sanh Nguyện Tạng Bồ Tát, Hải Trang Nghiêm Tạng Bồ Tát, Tu Di Ðức Tạng Bồ Tát, Tịnh Nhất Thiết Công Ðức Tạng Bồ Tát, Như Lai Tạng Bồ Tát, Phật Ðức Tạng Bồ Tát, Giải Thoát Nguyệt Bồ Tát…

Vô số, vô lượng, vô biên, vô đẳng, bất khả sổ, bất khả xưng, bất khả tư, bất khả lượng, bất khả thuyết đại Bồ Tát như vậy, Kim Cang tạng Bồ Tátthượng thủ trong đại chúng này.

Bấy giờ Kim Cang Tạng Bồ Tát, thừa thần lực của Phật, nhập Bồ Tát đại trí huệ quang minh tam muội. Ngài nhập tam muội này rồi, liền đó khắp mười phương quá ngoài mười ức Phật sát vi trần số thế giới, mỗi phương đều có mười ức Phật sát vi trần số Phật đồng hiệu Kim Cang Tạng, Phật hiện ra trước Ngài mà bảo rằng : "Lành thay ! Lành thay ! Kim Cang Tạng Bồ Tátthể nhập Bồ Tát đại trí huệ quang minh tam muội này.

Thiện nam tử ! Mười ức Phật sát vi trần số Phật ở mỗi phương khắp mười phương đồng gia hộ ông. Do bổn nguyện lựcoai thần lực của đức Tỳ Lô Giá Na Như Lai, cũng do thắng trí lực của ông, vì muốn ông tuyên thuyết Phật pháp quang minh bất tư nghì cho chúng hội Bồ Tát. Như là :

Vì khiến nhập trí địa, vì nhiếp tất cả thiện căn, vì khéo lựa chọn tất cả Phật pháp, vì biết rộng các pháp, vì khéo hay thuyết pháp, vì vô phân biệt trí thanh tịnh, vì tất cả thế pháp chẳng nhiễm, vì thiện căn xuất thế thanh tịnh, vì được cảnh giới trí bất tư nghì, vì được cảnh giới trí của bực Nhứt thiết trí.

Lại vì khiến được bực Bồ Tát Thập Ðịa thủy chung, vì tuyên thuyết tướng sai biệt của Bồ Tát Thập Ðịa đúng thật, vì duyên niệm tất cả Phật pháp, vì tu tập phân biệt pháp vô lậu, vì khéo lựa chọn quan sát đại trí quang minh khéo trang nghiêm, vì khéo nhập môn trí quyết định, vì tùy ở chỗ nào đều thứ đệ thuyết pháp vô sở úy, vì được quang minh biện tài vô ngại, vì trụ bực đại biện tài khéo quyết định, vì ghi nhớ tâm Bồ Tát không quên mất, vì thành thục tất cả chúng sanh giới, vì đến khắp tất cả xứ quyết định khai ngộ tất cả.

Thiện nam tử ! Ông nên biện thuyết pháp sai biệt thiện xảo của pháp môn này. những là :

Vì nương thần lựctrí huệ của Phật gia hộ, vì thanh tịnh thiện căn của mình, vì thanh tịnh khắp pháp giới, vì nhiếp khắp chúng sanh, vì thâm nhập Pháp thân, Trí thân, vì thọ quán đảnh của Chư Phật, vì được thân cao lớn nhứt trong tất cả thế gian, vì vượt hơn tất cả thế gian đạo, vì thanh tịnh thiện căn xuất thế, vì đầy đủ Nhứt thiết chủng trí.

Bấy giờ Chư Phật ở mười phương đồng ban cho Kim Cang Tạng Bồ Tát thân chói sáng nhứt, ban cho trí biện tài vô ngại, ban cho trí thanh tịnh khéo phân biệt, ban cho sức khéo ghi nhớ không quên, ban cho huệ khéo quyết định rõ ràng, ban cho trí đến tất cả xứ để khai ngộ, ban cho sức thành đạo tự tại, ban cho đức vô úy của Phật, ban cho trí biện tài quan sát phân biệt các pháp môn của bực Nhứt thiết trí, bàn cho thân, ngữ, ý trang nghiêm toàn vẹn thượng diệu của Như Lai.

Tại sao vậy ?

Vì được tam muội này thời tất nhiên như vậy, vì bổn nguyện phát khởi, vì thâm tâm thiện tịnh, vì trí luân thiện tịnh, vì khéo chứa nhóm trợ đạo, vì khéo tu sửa công hạnh, vì nhớ vô lượng pháp khí, vì biết tín giải thanh tịnh, vì được tổng trì không lầm lộn, vì khéo ấn khả với pháp giới trí ấn.

Bấy giờ mười phương Chư Phật đều đưa tay hữu xoa đầu Kim Cang Tạng Bồ Tát.

Chư Phật xoa đầu xong, Kim Cang Tạng Bồ Tát xuất định bảo khắp chúng đại Bồ Tát rằng :

Chư Phật tử ! Thệ nguyện của các vị Bồ tát khéo quyết định không tạp chẳng thể thấy, rộng lớn như pháp giới, rốt ráo như hư không, khắp tất cả Phật độ, suốt thuở vị lai, cứu độ tất cả chúng sanh, được chư Phật gia hộ, vào trí địa của tam thế Chư Phật.

Chư Phật tử ! Những gì là trí địa của đại Bồ Tát ?

Chư Phật tử ! Trí địa của đại Bồ tát có mười bực. Tam thế Chư Phật đã nói, sẽ nói, đương nói, tôi cũng nói như vậy.

Ðây là mười trí địa :

Một là hồi hướng địa. Hai là Ly Cấu địa. Ba là Phát Quang địa. Bốn là Diệm Huệ địa. Năm là Nan Thắng địa. Sáu là hiện Tiền địa. Bảy là Viễn Hành địa. Tám là Bất Ðộng địa. Chín là Thiện Huệ địa. Mười là Pháp Vân địa.

Chư Phật tử ! Tôi chẳng thấy có quốc độ nào mà Chư Phật nơi đó chẳng nói mười trí địa này.

Tại sao vậy ? Vì đây là đạo tối thượng hướng Bồ đề của đại Bồ Tát, cũng là pháp môn thanh tịnh quang minh.

Chư Phật tử ! Nơi đây chẳng thể nghĩ bàn đến được, chính là chứng trí của chư đại Bồ Tát.

Kim Cang Tạng Bồ Tát nói song liền im lặng không giảng giải nữa.

Bấy giờ chúng Bồ Tát nghe tên mười bực trí địa mà chẳng nghe giải thích thời đều khát ngưỡng nghĩ rằng : Do cớ gì Ngài Kim Cang Tạng Bồ Tát chỉ nói tên mười trí địa mà chẳng giải thích ?

Giải thoát Nguyệt Bồ Tát biết tâm niệm của chúng Bồ Tát, liền nói kệ để hỏi Kim Cang Tạng Bồ Tát :

Cớ sao bực Tịnh Giác

Ðủ niệm trí công đức

Nói tên mười Trí Ðịa

Biết rõ chẳng giải thoát?

Tất cả đều quyết định

Dũng mãnh không khiếp nhược

Cớ sao nói tên Ðịa

Rồi im không giải thích ?

Ngĩa thú mười Trí Ðịa

Trong chúng đều muốn nghe

Lòng chúng không khiếp nhược

Vì chúng xin giải thích.

Chúng hội đều thanh tịnh

Nghiêm khiết không lười biếng

Hay vững vàng bất động

Ðủ công đức trí huệ,

Nhìn nhau đều cung kính

Tất cả đồng khát ngưỡng

Như ong nhớ mật ngọt

Như khát tưởng cam lồ.

Kim Cang Tạng Bồ Tát, bực đại trí vô úy nghe Giải Thoát Nguyệt Bồ Tát nói kệ muốn cho lòng chúng hội hoan hỷ, liền nói kệ rằng :

Hạnh địa của Bồ Tát

Gốc tối thượng của Phật

Giải thích nói rõ ràng

Hy hữu khó thứ nhứt.

Vi tế khó thấy được

Ly niệm siêu tâm địa

Phát sanh cảnh giới Phật

Người nghe sẽ mê lầm.

Gìn lòng như Kim Cang

Tin chắc nơi Phật trí

Biết tâm địa vô ngã

Thời nghe được pháp này.

Như màu vẽ trên không

Như tướng gió trên không

Phật trí cũng như vậy

Phân biệt rất khó thấy

Tôi nghĩ phật trí huệ

Tối thắng khó nghĩ bàn

Người đời không thọ được

Nên im lặng chẳng nói.

Giải thoát Nguyệt Bồ Tát bạch Kim Cang Tạng Bồ Tát : Nay đại chúng đây đều đã hội họp, tất cả đều khéo lóng thâm tâm, khéo sạch tư niệm, khéo tu các hạnh, khéo tập trợ đạo, khéo gần gũi trăm ngàn ức Phật, thành tựu vô lượng công đức thiện căn, lìa bỏ mê lầm, không còn cấu nhiễm, thâm tâm tin hiểu, ở trong Phật pháp chẳng theo người khác dạy.

Thưa Phật tử ! xin Ngài nên thừa oai thần của Phật, vì chúng mà diễn nói. Ðại chúng Bồ Tát đây đối với chỗ thậm thâm như vậy đều có thể chứng biết.

Giải thoát Nguyệt Bồ Tát muốn tuyên lại nghĩa này bèn nói kệ rằng :

Xin nói hạnh Bồ Tát

Vô thượng rất an ổn

Phân biệt rõ các địa

Trí tịnh thành Chánh giác.

Chúng đây không cấu nhiễm

Chí hiểu đều sáng sạch

Kính thờ vô lượng Phật

Hiểu được nghĩa các địa.

Kim Cang Tạng Bồ Tát nói : Thưa Phật tử ! Dầu đại chúng y đây đã khéo lóng sạch tu niệm, rời bỏ ngu si nghi lầm, nơi Phật pháp thậm thâm không theo người dạy, nhưng còn có chúng sanh trí cạn cợt, nếu nghe những sự thậm thâm khó nghĩa bàn này họ sẽ sanh lòng nghi lầm mà phải chịu khổ lâu dài. Tôi vì thương xót hạng này nên im lặng.

Kim Cang Tạng Bồ Tát muốn tuyên lại nghĩa này mà nói kệ rằng :

Dầu chúng đây trí rộng thanh tịnh

Pháp sâu trí lẹ hay hiểu thấu

Tâm họ bất động như Sơn Vương

Chẳng thể úy nghiên dường đại hải.

Có hạng mới tu hiểu chưa tới

Theo thức phân biệt chẳng theo trí

Nghe đây sanh nghi đọa ác đạo

Tôi thương hạng này nên chẳng nói.

Giải thoát Nguyệt Bồ Tát lại bạch với Kim Cang Tạng Bồ Tát : Thưa Phật tử ! xin Ngài thừa thần lực của Phật mà phân biệt diễn nói pháp bất tư nghì này. những hạng đây sẽ được đức Như Lai gia hộ cho họ tin thọ được. Vì lúc nói pháp Thập Ðịa, tất cả Bồ Tát tất nhiên được Phật hộ niệm. vì được Phật hộ niệm nên đối với trí địa này sanh lòng dũng mãnh. Vì đây là công hạnh tối sơ mà Bồ Tát thật hành để thành tựu tất cả Phật pháp.

Ví như viết chữ, tất cả đều từ mẫu tự làm gốc. Tự mẫu rốt ráo không có chút phân rời tự mẫu.

Tất cả Phật pháp đều dùng Thập Ðịa làm căn bổ. Thập địa rốt ráo ru hành thành tựu được Nhứt thiết chủng trí. Do đây xin Phật tử diễn nói cho. Những người này tất được đức Như Lai hộ niệm làm cho họ tin thọ.

Giải thoát Nguyệt Bồ Tát muốn tuyên lại nghĩa này mà nói kệ rằng :

Lành thay Phật tử xin diễn thuyết

Các trí địa đưa vào Bồ đề

Mười phương tất cả đấng Tự Tại

Thảy đều hộ niệm trí căn bổn.

An trụ trí này cũng rốt ráo

Tất cả Phật pháp từ đây sanh

Ví như viết chữ do mẫu tự

Cũng thế, Phật pháp y trí địa.

Lúc đó chúng đại Bồ Tát đồng thời ứng tiếng hướng về Kim Cang Tạng Bồ Tát mà nói kệ rằng :

Trí thượng diệu vô cấu

Vô biên trí biện tài

Tuyên xướng lời sâu đẹp

Tương ưng Ðệ nhứt nghĩa.

Niệm trì hạnh thanh tịnh

Thập lực chứa công đức

Biện tài phân biệt nghĩa

Nói địa tối thắng này.

Ðịnh, giới chứa chánh tâm

Lìa ngã mạn tà kiến

Chúng đây không lòng nghi

Cầu xin được nghe giảng.

Như khát tưởng nước mát

Như đói như món ngon

Như bịnh cầu thuốc hay

Như ong tham mật tốt.

Chúng tôi cũng như vậy.

Mong nghe pháp cam lồ

Lành thay bực đại trí

Nguyện giải thoát Thập Ðịa,

Thành Thập lực vô ngại

Tất cả hạnh của Phật

Chúng tôi nếu được nghe

Tin thọ siêng tu tập.

Bấy giờ đức Thế Tôn từ chặng mày phóng quang minh thanh tịnh tên là Bồ Tát Lực Diệm Minh, kèm theo vô số trăm ngàn quang minh chiếu khắp tất cả thế giới mười phương. Ba ác đạo đều được hết khổ. Quang Minh này lại chiếu suốt tất cả chúng hội của tất cả Phật, hiển hiện thần lực bất tư nghì của Phật. Lại chiếu đến thân Bồ Tát được Phật gia hộ thuyết pháp trong tất cả thế giới khắp mười phương. Quang Minh này là những sự trên đây rồi kết thành đài lưới mây rất sáng chói dừng ở trên không.

Lúc đó Chư Phật ở mười phương cũng phóng quang như vậy, và cũng hiện thành những sự như vậy. Lại chiếu đến Phật và đại chúngthế giới Ta Bà này, cùng chiếu đến thân và tòa sư tử của Kim Cang Tạng Bồ Tát.

Trong đài lưới mây sáng chói dừng ở trên không, do thần lực của Phật, có tiếng nói kệ rằng :

Phật Vô đẳng đẳng như hư không

Thập lực vô lượng thắng công đức

Tối thắng vô thượng trong thế gian

Thích Ca Như Lai gia hộ đó.

Phật tử nên thừa thần lực Phật

Giải bày tạng tối thắng tối tôn

Trí địa quảng đại hạnh thắng diệu

Nương Phật oai thần phân biệt nói.

Nếu được Như Lai gia hộ cho

Sẽ được pháp bửu vào tâm mình

Bồ Tát Thập Ðịa tuần tự đầy

Cũng đủ Chư Phật mười trí lực.

Dầu ở biển sâu hay kiếp hỏa

Kham thọ pháp này tất được nghe

Những ai sanh nghi không lòng tin

Trọn không được nghe nghĩa như vậy.

Nói rộng Thập Ðịa : đạo Thắng Trí

Nhập trụ tuần tự tu tập lần

Theo hạnh phát sanh cảnh giới trí

Vì lợi ích chúng sanh tất cả.

Kim Cang Tạng Bồ Tát quan sát mười phương muốn cho đại chúng thêm lòng tin thanh tịnh nên nói kệ rằng :

Ðạo lớn của Như Lai

Vi diệu khó biết được

Lìa niệm chẳng phải niệm

Cầu thấy chẳng thể được

Không sanh cũng không diệt

Tánh tịnh thường vắng lặng

Người ly cấu thông huệ

Ðang đi trong cảnh đó.

Tự tánh vốn không tịch

Vô nhị cũng vô tận

Giải thoát khỏi các loài

Trụ Niết Bàn bình đẳng.

Chẳng phải sơ, trung, hậu

Chẳng phải ngôn từ đến được

Vượt qua ngoài thời gian

Tướng đó dường hư không.

Cảnh giới Phật tịch diệt

Lời nói không đến được

Cảnh Thập địa cũng vậy

Khó nói cũng khó nhận.

Trí phát sanh cảnh Phật

Rời hẳn ngoài tâm niệm

Chẳng phải uẩn xứ giới

Trí biết, ý chẳng biết.

Như dấu chim bay qua

Khó chỉ cũng khó nói

Nghĩa của mười trí địa.

Tâm ý không rõ được.

Từ binguyện lực

Sanh hạnh vào Thập địa

Tuần tự tâm viên mãn

Chẳng phải cảnh tư lự.

Cảnh giới này khó thấy

Biết được không nói được

Do Phật lực nên nói

Ðại chúng phải kính nhận.

Cảnh giới của trí địa

Ức kiếp nói không hết

Nay tôi chỉ nói lược

Nghĩa chơn thiệt của kia.

Ðại chúng cung kính chờ

Tôi thừa Phật lực nói

Tiếng pháp diệu thù thắng

Tương ưng chữ ví dụ.

Thần lực vô lượng Phật

Ðều đến vào thân tôi

Nơi đây khó hiển bày

Nay tôi nói phần ít.

Chư Phật tử ! Nếu có chúng sanh trồng sâu căn lành, khéo tu tập những hạnh trợ đạo, hay cúng dường Chư Phật, làm thiện tri thức, khéo chứa nhóm những pháp trắng trong, giỏi nhiếp và khéo làm thanh tịnh thâm tâm, lập chí quảng đại phát sanh trí biết rộng lớn, lòng từ bi luôn hiện tiền, vì cầu Phật trí, vì được Thập lực, vì được đại vô úy, vì được Phật pháp bình đẳng, vì cứu tất cả thế gian, vì thanh tịnh đại từ bi, vì được Thập lực Nhứt thiết chủng trí, vì thanh tịnh Phật độ vô ngại, vì khoảng một niệm biết cả tam thế, vì chuyển đại pháp luân vô úy.

Chư Phật tử ! Bồ tát phát khởi những tâm như vậy bèn lấy đại bi làm trước, trí huệ tăng thượng, phương tiện khéo diệu, thâm tâm tối thượng là chỗ nhiếp lấy, Phật lực là chỗ giữ gìn, vô lượng trí khéo quan sát, sức phân biệt dũng mãnh, sức trí huệ vô ngại hiện tiền, tùy thuận tự nhiên trí, có thể thọ lãnh tất cả Phật pháp dùng trí huệ để giáo hóa, quảng đại như pháp giới, rốt ráo dường hư không suốt thuở vị lai.

Này Phật tử ! Bồ Tát mới bắt đầu phát tâm như vậy liền được vượt khỏi hạng phàm phu mà vào ngôi Bồ Tát, sanh vào nhà Như Lai. Không ai có thể nói chủng tộc của Ngài lỗ lầm. Ngài đã rời loài thế gian mà vào đạo xuất thế, được pháp Bồ Tát, ở chỗ Bồ Tát, nhập tam thế bình đẳng, ở trong chủng tánh Như Lai quyết định sẽ thành Vô Thượng Giác. Bồ Tát an trụ những pháp như vậy gọi là trụ bực "Bồ Tát Hoan Hỷ Ðịa", vì đã tương ưng với chơn như bất động.

Chư Phật tử ! Bồ tát trụ bực Hoan Hỷ Ðịa thời thành tựu nhiều hoan hỷ, nhiều tịnh tín, nhiều ái lạc, nhiều thích duyệt, nhiều hân khánh, nhiều dũng dước, nhiều dũng mãnh, nhiều bất đấu tránh, nhiều vô não hại, nhiều vô sân hận.

Chư Phật tử ! Bồ tát trụ bực Hoan Hỷ Ðịa vì nhớ Chư Phật nên sanh vui mừng, vì nhớ Phật pháp nên sanh vui mừng, vì nhớ chư Bồ Tát nên sanh vui mừng, vì nhớ hạnh Bồ Tát nên sanh vui mừng, vì nhớ thanh tịnh Ba la mật nên sanh vui mừng, vì nhớ Bồ Tát địa thù thắng nên sanh vui mừng, vì nhớ Bồ Tát không hư hoại nên sanh vui mừng, vì hớ Chư Phật giáo hóa chúng sanh nên sanh vui mừng, vì nhớ có thể làm lợi ích cho chúng sanh nên sanh vui mừng, vì nhớ vào trí phương tiện của Chư Phật nên sanh vui mừng.

Bồ Tát này lại tự nghĩ : Vì tôi đã chuyển và rời tất cả cảnh giới thế gianhoan hỷ, vì thân cận tất cả Phật mà hoan hỷ, vì lìa xa hạng phàm phuhoan hỷ, vì gần bực trí huệhoan hỷ, vì dứt hẳn tất cả ác thúhoan hỷ, vì làm chỗ y chỉ cho tất cả chúng sanhhoan hỷ, vì thấy tất cả Như Laihoan hỷ, vì sanh vào cảnh giới Phật mà hoan hỷ, vì vào trong tánh bình đẳng của tất cả Bồ Táthoan hỷ, vì xa lìa tất cả những sự kinh sợ rùng mìnhhoan hỷ.

Tại sao vậy ? Vì Bồ Tát đã được bực Hoan Hỷ Ðịa thời được khỏi hẳn tất cả sự kinh sợ. Như là xa lìa hẳn sự sợ chẳng sống, sợ tiếng xấu, sợ chết, sợ sa ác đạo, sợ oai đức của đại chúng.

Tại sao lại được khỏi hẳn những sự kinh sợ ?

Bồ Tát này đã lìa ngã tưởng, thân mình còn không mến tiếc huống là của cải, vì thế nên không kinh sợ về sự không sống.

Bồ Tát này không trông cầu người khác cúng dường mình, chỉ chuyên cấp thí tất cả chúng sanh nên không kinh sợ về sự tiếng xấu.

Bồ Tát này đã lìa ngã kiến không có ngã tưởng nên không kinh sợ về sự chết.

Bồ Tát này tự biết sau khi chết quyết định không rời Chư Phật Bồ Tát nên không kinh sợ về sự sa ác đạo.

chí nguyện của Bồ Tát này, trong tất cả thế gian còn không ai bằng huống là hơn, nên không kinh sợ đối với oai đức của đại chúng.

Chư Phật tử ! Bồ tát này lấy đại bi làm trước, chí nguyện rộng lớn không có gì trở hoại được. Lại thêm siêng tu tất cả thiện căn mà được thành tựu.

Những thiện căn đó như : lòng tin tăng thượng, nhiều lòng tin thanh tịnh, hiểu biết thanh tịnh, lòng quyết định, phát sanh lòng bi mẫn, thành tựu đức đại từ, không nhàm mỏi, lòng hổ thẹn trang nghiêm, thành tựu hạnh nhu hòa, kính thuận tôn trọng giáo pháp của Chư Phật, ngày đêm tu tập các căn lành không nhàm đủ, gần gũi thiện tri thức, luôn mến thích chánh pháp, cầu đa văn không nhàm đủ, chánh quan sát đúng với pháp đã được nghe, lòng không y tựa chấp trước, không tham muốn lợi danh cung kính, chẳng mong cầu tất cả vật dụng nuôi sống phát sanh tâm như thật không nhàm đủ, cầu bực Nhứt thiết trí, cầu Phật lực, vô úy, Phật pháp bất cộng, cầu các môn trợ đạo Ba la mật, lìa những dua dối, có thể thật hành đúng như lời nói, luôn gìn lời như thật, chẳng làm nhơ nhớp nhà Như Lai, chẳng bỏ giới Bồ Tát, sanh Nhứt thiết trí, lòng vững như Sơn Vương bất động, chẳng bỏ tất cả sự thế gianthành tựu tất cả đạo xuất thế, tu tập pháp trợ đạo Vô thượng Bồ đề không mỏi nhàm, thường cầu đạo Vô thượng.

Chư Phật tử ! Bồ tát thành tựu pháp tu tập thanh tịnh tâm địa như vậy thời gọi là an trụ bực " Bồ Tát Hoan Hỷ Ðịa".

Bồ Tát này thành tựu đại nguyện, đại dũng, đại dụng như vầy :

Phát sanh trí hiểu biết quyết định thanh tịnh quảng đại, đem tất cả đồ cúng dường cung kính dâng lên tất cả Chư Phật không thiếu sót, rộng lớn dường pháp giới, rốt ráo như hư không, suốt tất cả kiếp số vị lai không thôi nghỉ.

Lại phát đại nguyện : Nguyện thọ lãnh tất cả Phật pháp, nguyện nhiếp tất cả Phật trí, nguyện hộ tất cả Phật giáo, nguyện trì tất cả Phật pháp, rộng lớn như pháp giới, rốt ráo như hư không suốt tất cả kiếp số vị lai không thôi nghỉ.

Lại phát đại nguyện : Nguyện trong tất cả thế giới, lúc Phật xuất thế : Giáng thần, nhập thai, trụ thai, sơ sanh, xuất gia, thành đạo, thuyết pháp, nhập Niết Bàn, tôi đều đến gần gũi cúng dường, làm thượng thủ trong chúng, thọ lãnh và thật hành chánh pháp, đồng thời chuyển pháp khắp tất cả mọi nơi, rộng lớn như pháp giới, rốt ráo dường hư không, suốt tất cả kiếp số vi lai không thôi nghỉ.

Lại phát đại nguyện : Nguyện tất cả Bồ Tát hạnh quảng đại chẳng hoại, chẳng tạp nhiếp các môn Ba la mật, tu tập thanh tịnh các trí địa. Tổng tướng, biệt tướng, đồng tướng, dị tướng, thành tướng, hoại tướng, tất cả Bồ Tát hạnh đều nói đúng như thiệt. Giáo hóa tất cả chúng sanh cho họ lãnh thọ thật hành tâm địa được tăng trưởng, rộng lớn như pháp giới, rốt ráo dường hư không, suốt tất cả kiếp số vị lai không thôi nghỉ.

Lại phát đại nguyện : Nguyện tất cả giới chúng sanh : có sắc, không sắc, có tưởng, không tưởng, chẳng có tưởng, chẳng không tưởng, noãn sanh, thai sanh, thấp sanh, hóa sanh, hệ thuộc ba cõi, vào sáu loài tất cả chỗ thác sanh, nhiếp về danh sắc, những loài như vậy tôi đều giáo hóa cho họ vào Phật pháp, dứt hẳn tất cả loài thế gian mà an trụ đạo Nhứt thiết chủng trí. Rộng lớn như pháp giới, rốt ráo dường hư không, suốt tất cả kiếp số vị lai không thôi nghỉ.

Lại phát đại nguyện : Nguyện tất cả thế giới rộng lớn vô lượng : Thô, tế, loạn trụ, đảo trụ, chánh trụ, hoặc vào, hoặc đi, hoặc đến, sai khác như đế võng, mười phương vô lượng thế giới nhiều loại không đồng, đều thấy biết rõ với trí lực. Rộng lớn như pháp giới, rốt ráo dường hư không, suốt tất cả kiếp số vị lai không thôi nghỉ.

Lại pháp tại nguyện : Nguyện tất cả quốc độ vào một quốc độ, một quốc độ vào tất cả quốc độ, vô lượng Phật độ đều khắp thanh tịnh. Những đồ vạt sáng chói dùng để trang nghiêm. Lìa tất cả phiền não thành đạo thanh tịnh. Chúng sanh trí huệ số đông vô lượng ở đầy trong đó. Vào khắp cảnh giới quảng đại của Chư Phật, tùy thuận tâm chúng sanh để thị hiện cho họ đều hoan hỷ. Rộng lớn như pháp giới rốt ráo dường hư không, suốt tất cả kiếp số vị lai không thôi nghỉ.

Lại phát đại nguyện : Nguyện cùng tất cả Bồ Tát đồng một chí một hạnh không ganh thù, chứa nhóm các căn lành, tất cả Bồ Tát bình đẳng một duyên, thường tập hội không rời bỏ nhau, tùy ýthể hiện nhiều thân Phật, tự tâm nhậm vận có thể biết cảnh giới của Chư Phật, oai lực trí huệ được thần thông bất thối tùy ý du hành tất cả thế giới, hiện thân trong tất cả chúng hội, vào khắp tất cả chỗ thác sanh, thành tựu đại thừa tu hạnh Bồ Tát bất tư nghì. Rộng lớn như pháp giới, rốt ráo dường như không suốt tất cả kiếp số vị lai không thôi nghỉ.

Lại phát đại nguyện : Nguyện thừa pháp luân bất thối tu hạnh Bồ Tát, thân, ngữ, ý ba nghiệp đều không để luống, nếu ai tạm thấy thời được quyết định nơi Phật pháp, nếu ai tạm nghe âm thanh thời được thật trí, vừa sanh lòng tịnh tín thời dứt hẳn phiền não, được thân như cây đại Dược Vương, được thân như châu như ý, tu hành tất cả hạnh Bồ Tát. Rộng lớn như pháp giới, rốt ráo dường hư không, suốt tất cả kiếp số vị lai không thôi nghỉ.

Lại phát đại nguyện : Nguyện ở khắp tất cả thế giới thành Vô thượng Chánh giác, chẳng rời một chân lông mà nơi tất cả chân lông thị hiện sơ sanh, xuất gia, đến đạo tràng, thành Chánh giác, chuyển pháp luân, nhập Niết Bàn, được sức đại trí huệ cảnh giới của Phật trong mỗi niệm thuận theo tâm của tất cả chúng sanhthị hiện thành Phật làm cho họ được tịch diệt, dùng Nhứt thiết trí biết tất cả pháp giới chính là tướng Niết Bàn, dùng một âm thanh thuyết pháp làm cho tâm tất cả chúng sanh đều hoan hỷ. Thị hiện nhập đại Niết Bàn mà chẳng dứt hạnh Bồ Tát, thị hiện bực đại trí huệ an lập tất cả pháp. Dùng pháp Trí thông, Thần túc thông, Huyễn thông, tự tại biến hóa khắp tất cả pháp giới. Rộng lớn như pháp giới, rốt ráo dường hư không, suốt tất cả kiếp số vị lai không thôi nghỉ.

Chư Phật tử ! Bồ tát trụ bực Hoan Hỷ Ðịa phát đại nguyện như vậy, dũng mãnh như vậy, đại dụng như vậy. Dùng mười nguyện môn này làm đầu đầy đủ trăm vạn vô số đại nguyện.

Chư Phật tử ! Ðại nguyện này do mười tận cú mà được thành tựu.

Ðây là mười tận cú :

Chúng sanh giới tận, thế giới tận, hư không giới tận, pháp giới tận, Như Lai giới tận, tâm sở duyên giới tận, Phật trí sở nhập cảnh giới giới tận, thế gian chuyển pháp chuyển trí chuyển giới tận.

Nếu chúng sanh giới tận thệ nguyện của tôi mới tận, nhẫn đến thế gian chuyển pháp, chuyển trí, chuyển giới tận thệ nguyện của tôi mới tận. Nhưng chúng sanh giới nhẫn đến trí chuyển giới không cùng tận, nên thiện căn đại nguyện của tôi đây cũng không cùng tận.

Chư Phật tử ! Bồ tát phát đại nguyện như vậy rồi thời được : Tâm lợi ích, tâm nhu nhuyến, tâm tùy thuận, tậm tịch tịnh, tâm điều phục, tâm tịch diệt, tâm khiêm hạ, tâm nhuận trạch, tâm bất động, tâm bất trược, thành bực tịnh tín, có công dụng của đức tin, có thể tin bổn hạnh chứng nhập của Như Lai, tin thành tựu được các môn Ba la mật, tin vào những bực thắng địa, tin sức thành tựu tin đầy đủ vô sở úy, tin sanh trưởng Phật pháp bất cộng bất hoại, tin Phật pháp bất tư nghì, tin xuất sanh Phật cảnh giới không trung biên, tin tùy nhập vô lượng cảnh giới của Phật, tin thành tựu quả. Tóm lại, tin tất cả Bồ Tát hạnh, nhẫn đến tin trí, địa, thuyết, lực của Như Lai.

Chư Phật tử ! Bồ tát này lại nghĩ rằng : Chánh pháp của Chư Phật thậm thâm như vậy, tịch tịnh như vậy, tịch diệt như vậy, không, vô tướng, vô nguyện như vậy, vô nhiễm như vậy, vô lượng, quảng đại như vậy, mà hành phàm phu sa vào tà kiến, bị vô minh che lòa, dựng cao tràng kiêu mạn, vào trong lưới khát ái, đi trong rừng rậm dua dối không tự ra được. Lòng luôn đi đôi với tham lam ganh ghét, thường tạo, những nhơn duyên thọ sanh trong các loài, tham, sân, si gây thành những nghiệp ngày đêm thêm lớn mãi, do gió phẫn hận thổi ngọn lửa tâm thức hực hực không tắt, phàm họ nói hay làm đều là điên đảo. Dục lưu, hữu lưu, vô minh lưu, kiến lưu nói luôn phát khởi chủng tử tâm ý thức. Trong ruộng tam giới lại mọc mầm khổ, chính là chẳng rời danh sắc. Danh sắc này thêm lớn, thành tụ lạc của sáu loài. Trong đó đối nhau mà sanh ra xúc, do xúc sanh thọ, nhơn thọ sanh ái, vì ái tăng trưởng nên sanh thủ, vì thủ tăng trưởng nên sanh hữu mà có hữu nảo. Chúng sanh thêm hớn quả khổ, trong đây là trống rỗng lìa ngã và ngã sở, vô tri vô giác, vô giác vô thọ như cỏ cây, đá vách, cũng như vang bóng. Nhưng chúng sanh vẫn không hay không biết.

Bồ Tát thấy chúng sanh không thể thoát khỏi khổ quả như vậy, liền phát sanh đại bi trí huệ tự nghĩ rằng : Tôi phải cứu vớt tất cả chúng sanh này đặt họ ở chỗ rốt ráo an lạc. Do vì suy nghĩ phát tâm như vậy nên sanh trí huệ quang minh đại từ.

Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát tùy thuận đại bi đại từ như vậy, lúc dùng tâm thâm trọng trụ bực Sơ địa, đối với tất cả vật không hề lẫn tiếc, cầu Phật trí, tu đại xả. Phàm có thứ chi đều có thể bố thí cả. Những là tiền, lúa, kho, đụn, vàng, bạc, ma ni, châu ngọc, đồ trang sức, voi, ngựa, xe cộ, tôi tớ, nhơn dân, thành ấp, tụ lạc, vườn rừng, lầu đài, vợ con quyến thuộc, đầu, mắt, tay, chân, máu, thịt, xương, tủy, tất cả đều không tiếc, để cầu trí huệ rộng lớn của chư Phật.

Ðây gọi là thành tựu đại xả của bực Bồ Tát trụ "Sơ Ðịa".

Chư Phật tử ! Bồ Tát dùng tâm từ bi đại thí này là vì muốn cứu hộ tất cả chúng sanh. Thêm cầu những sự lợi ích thế gianxuất thế, vì không nhàm đủ liền được thành tựu tâm không mỏi nhàm. Ðược tâm không mỏi nhàm rồi, với tất cả kinh luận, không lòng khiếp nhược, vì lòng không khiếp nhược liền được thành tựu nhứt thiết kinh luận trí. Ðược trí này rồi thời có thể hay so lường việc nên làm, việc chẳng nên làm. Với tất cả chúng sanh căn cơ thượng, trung, hạ, thuận theo chỗ đáng độ, năng lựcthói quen của họ mà làm cho họ đều được lợi ích. Do đây Bồ Tát được thành thế trí. Thành được thế trí rồi liền biết thời tiết, biết lượng số. Vì tàm quý mà siêng tu đạo hạnh tự lợi lợi tha nên thành tựu tàm quý trang nghiêm. Trong hạnh này siêng tu hạnh giải thoát không thối chuyển thành sức kiên cố. Ðược sức kiên cố rồi thời siêng cúng dường chư Phật. Nơi giáo pháp của Phật có thể thật hành đúng như lời dạy.

Chư Phật tử ! Bồ Tát thành tựu mười pháp thanh tịnh các trí địa như vậy. Chính là : Bi, từ, xả, không mỏi nhàm, biết kinh luận, hiểu thế pháp, tàm quý, sức kiên cố, cúng dường chư Phật và y giáo tu hành.

Chư Phật tử ! Bồ Tát đã trụ bực Hoan Hỷ Ðịa này rồi, do sức đại nguyện được thấy nhiều đức Phật. Như là thấy trăm đức Phật, thấy ngàn đức Phật, trăm ngàn đức Phật, ức Phật, trăm ức Phật, ngàn ức Phật, trăm ngàn ức Phật, ức na do tha Phật, trăm ức na do tha Phật, ngàn ức na do tha Phật, trăm ngàn ức na do tha Phật. Với chư Phật này, Bồ Tát đều dùng đại tâm, thâm tâm, cung kính tôn trọng phụng thờ cúng dường những y phục, ẩm thực, ngọa cụ, y dược và tất cả đồ dùng, cũng cúng dường tất cả chúng Tăng, Bồ Tát đem công đức thiện căn này đều hồi hướng Vô thượng Bồ đề.

Chư Phật tử ! Vì cúng dường chư Phật, Bồ Tát này thành tựu được chúng sanh pháp, dùng hai nhiếp pháp trước là bố thíái ngữ để nhiếp lấy chúng sanh. Còn hai nhiếp pháp sau thời chỉ do sức tín giải mà thật hành chớ chưa thông đạt.

Bồ Tát này ở trong mười Ba la mật, thời đàn Ba la mật được thượng. Với chín Ba la mật kia thời tùy sức tùy phần mà thật hành.

Bồ Tát này trong lúc siêng cúng dường chư Phật giáo hóa chúng sanh đều để tu hành thanh tịnh pháp trí địa. Bao nhiêu thiện căn đều hồi hướng bực Nhứt thiết chủng trí, lần thêm sáng sạch, điều nhu thành tựu, tùy ý đều dùng được.

Chư Phật tử ! Ví như thợ kim hoàn, khéo luyện vàng, cho vào lửa thường thời vàng càng thêm sáng sạch mịn nhuyễn tùy ý người thợ dùng.

Cũng vậy, Bồ Tát này cúng dường chư Phật giáo hóa chúng sanh đều để tu hành thanh tịnh pháp trí địa, bao nhiêu thiện căn đều hồi hướng bực Nhứt thiết chủng trí, càng thêm sáng sạch điều nhu thành tựu có thể dùng tùy ý.

Chư Phật tử ! Ðại Bồ tát trụ bực Sơ địa phải đến chỗ Chư Phật, Bồ Tát, Thiện tri thức tìm cầu thưa hỏi. Ở trong địa này, từ nơi tướng và đắc quả không nhàm đủ, vì muốn thành tựu pháp của trí địa này. Lại cũng phải đến chỗ Phật, Bồ Tát, Thiện tri thức tìm cầu thưa hỏi tướng và đắc quả của Nhị địa, Tam địa nhẫn đến Thập địa không nhàm đủ, vì muốn thành tựu pháp của các trí địa đó.

Bồ Tát này khéo biết trong các trí địa : Chướng và đối trị, địa thành hay hoại, địa tướng và quả. Cũng biết rõ địa đắc tu, địa pháp thanh tịnh, địa tiến tu lên, phải địa chẳng phải địa, trí thù thắng của các địa, bất thối chuyển của các địa. Cũng khéo biết thanh tịnh tu trị tất cả trí địa, nhẫn đến chuyển vào Như Lai địa.

Chư Phật tử ! Bồ tát khéo biết địa tướng như vậy. Ban đều ở bực Sơ địa phát khởi tu hành không giám đoạn, nhẫn đến nhập bực Thập địa không gián đoạn.

Do trí huệ sáng suốt của các trí địa đây mà thành trí huệ quang minh của Như Lai.

Chư Phật tử ! Ví như vị thương chủ biết rành phương tiện muốn dắt các thương gia đến đại thành, lúc chưa khởi hành, trước hỏi rõ sự lành dữ dọc đường và chỗ đến ở an hay nguy, được hay không. Sau đó trang bị tu lương vật dụng đầy đủ rồi mới cùng nhau lên đường.

Chư Phật tử ! Vị thương chủ kia dầu chưa khởi hành mà đã biết rõ lộ trình lành dữ tất cả sự an nguy, khôn khéo suy tính sắm sửa hành trang lương thực không để thiếu sót, mới có thể dắt đoàn thương gia đến đại thành một các toàn vẹn an ổn.

Chư Phật tử ! Bồ tát cũng như vậy. Trụ bực Sơ địa biết rành chướng và đối trị của các trí địa, nhẫn đến biết rành tất cả trí địa thanh tịnh chuyển nhập Như Lai địa, sau đó mới lo đủ tu lương phước và trí, dắt các chúng sanh đi qua đường hiểm sanh tử, đến thành Nhứt thiết chủng trí một các an toàn.

Vì lẽ trên đây nên Bồ Tát phải thường siêng tu công hạnh thanh tịnh thù thắng của các trí địa nhẫn đến chứng nhập Như Lai địa.

Chư Phật tử ! Ðây gọi là lược nói môn nhập bực Sơ địa của đại Bồ Tát. Nói rộng ra thời có vô lượng vô biên trăm ngàn vô số sự sai khác.

Chư Phật tử ! Ðại Bồ tát trụ bực Sơ địa này phần nhiều hiện làm vua ở Diêm Phù Ðề, giàu mạnh tự tại thường hộ trì chánh pháp. Hay dùng hạnh đại thí để nhiếp thủ chúng sanh, khéo trừ tật tham lam bỏn sẻn của chúng sanh. Tất cả công việc làm như là bố thí, ái ngữ, lợi hành, đồng sự đều chẳng rời niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng. Chẳng rời niệm Bồ Tát đồng hạnh, chẳng rời niệm hạnh Bồ Tát, các môn Ba la mật, các trí địa. Chẳng rời Niệm lực, Vô úy, pháp Bất cộng. Chẳng rời niệm Nhứt thiết chủng trí.

Bồ Tát này lại nghĩ rằng : Tôi phải ở trong tất cả chúng sanh làm thượng thủ, làm thắng, làm thù thắng, làm diệu, làm vi diệu, làm thượng, làm vô thượng, làm Ðạo Sự, làm tướng, làm soái, nhẫn đến làm người y chỉ của Nhứt thiết chủng trí.

Bồ Tát này nếu muốn bỏ nhà để siêng tu Phật pháp, liền có thể bỏ nhà vợ con ngũ dục, vào nhà Như Lai xuất gia học đạo. Ðã xuất gia rồi thời tinh tấn tu hành, trong khoảng một niệm trăm tam muội, được thấy trăm đức Phật, biết thần lực của trăm Ðức Phật, có thể chấn động thế giới của tăm Ðức Phật, có thể qua thế giới của trăm Ðức Phật, có thể chiếu thế giới của trăm Ðức Phật, có thể giáo hóa chúng sanh trong trăm thế giới, có thể trụ thọ trăm kiếp, có thể biết những việc đã qua và sẽ tới trong trăm kiếp, có thể vào trăm pháp môn, có thể thị hiện trăm thân, ở mỗi thân có thể thị hiện trăm vị Bồ Tát làm quyến thuộc.

Nếu dùng nguyện lực thù thắng của Bồ Tát tự tại thị hiện hơn nơi số trên đây, thời cả trăm kiếp ngàn kiếp, nhẫn đến trăm ngàn ức na do tha kiếp cũng chẳng tính biết được.

Kim Cang Tạng Bồ Tát muốn tuyên lại nghĩa này nên nói kệ rằng :

Nếu người tu điều lành

Ðủ những pháp bạch tịnh

Cúng dường chư Thế Tôn

Tùy thuận đạo từ bi.

Tin hiểu rất rộng lớn

Chí nguyện cũng thanh tịnh

Vì cầu trí huệ Phật

Phát tâm vô thượng này.

Tu tất cả trí lực

Và cùng vô sở úy

Thành tựu các Phật pháp

Cứu nhiếp các quần sanh.

Vì được đại từ bi

Và chuyển thắng pháp luân

Nghiêm tịnh Phật quốc độ

Phát tâm tối thắng này.

Một niệm biết tam thế

Mà không có phân biệt

Thời gian sai khác nhau

Ðể hiển thị thế gian

Lược nói cầu Chư Phật

Tất cả thắng công đức

Phát sanh tâm quảng đại

Lượng đồng cõi hư không.

Bi trước, huệ làm chủ

Tương ưng cùng phương tiện

Tâm tín giải thanh tịnh

Phật vô lượng thần lực.

Trí vô ngại hiện tiền

Tự ngộ chẳng do người

Ðầy đủ đồng Chư Phật

Phát tâm tối thắng này.

Phật tử mới phát sanh

Tâm diệu bửu như vậy

Thời siêu hạng phàm phu

Vào chỗ đi của Phật.

Sanh tại nhà Như Lai

Chủng tộc không tội lỗi

Ðồng bình đẳng với Phật

Quyết thành Vô Thượng Giác,

Vừa sanh lòng như vậy

Liền được vào Sơ địa

Chí nguyện chẳng bị động

Dường như núi Tu Di.

Nhiều vui, nhiều ưa thích.

Lại cũng nhiều tịnh tín

Tâm dũng mãnh rất lớn

Và cùng tâm mừng rỡ.

Xa rời sự đấu tránh

Não hại và giận hờn

Kính thuận mà chất trực

Khéo gìn giữ sáu căn.

Ðấng cứu thế vô thượng

Có bao nhiêu trí huệ

Bực này tôi sẽ được

Ghi nhớ sanh hoan hỷ.

Mới được vào Sơ địa.

Liền siêu năm điều sợ :

Chẳng sống, thiếng xấu, chết,

Ác đạo, chúng oai đức.

Vì chẳng tham chấp ngã

Và chẳng chấp ngã sở

Các Phật tử như đây

Xa rời năm điều sợ.

Thường thật hành đại từ

Luôn kính tin tùy thuận.

Ðủ công đức tàm qúy

Ngày đêm thêm pháp lành.

Thích thật lợi chánh pháp

Chẳng ưa thọ dục lạc

Tu duy pháp đã nghe

Rời xa hạnh chấp trước.

Chẳng tham cầu lợi dưỡng

Chỉ thích Phật Bồ đề

Nhứt tâm cầu Phật trí

Chuyên ròng không niệm khác.

Tu tập Ba la mật

Xa rời dua dối gạt

Thật hành đúng lời Phật

An trụ trong thật ngữ.

Chẳng nhơ nhà Chư Phật

Chẳng bỏ giới Bồ Tát

Chẳng thích những thế sự

Thường lợi ích thế gian.

Làm lành không nhàm đủ

Thêm cầu đạo tăng thắng

Ưa thích pháp như vậy

Tương ưng nghĩa công đức.

Thường phát khởi đại nguyện

Nguyện thấy chư Như Lai

Hộ trí Phật chánh pháp

Nhiếp lấy đạo vô thượng.

Thường sanh nguyện như vầy :

Tu hành hạnh tối thắng.

Thành thục mọi quần sanh

Nghiêm tịnh Phật quốc độ.

Tất cả các cõi Phật

Ðều đông dầy Phật tử

Bình đẳng chung một lòng

Việc làm đều chẳng luống.

Nơi tất cả chân lông

Ðồng thời thành Chánh giác

Những đại nguyện như vậy

Vô lượng vô biên tế.

Hư không cùng chúng sanh

Pháp giớiNiết Bàn

Thế gian Phật ra đời

Phật trí tâm cảnh giới,

Trí của Như Lai chứng

Cùng Tam chuyển pháp tận

Tất cả đó có tận

Nguyện của tôi mới tận,

Như đó không cùng tận

Nguyện của tôi cũng vậy,

Phát nguyện lớn như thế

Tâm nhu nhuyến điều thuận.

Hay tin công đức Phật

Quan sát nơi chúng sanh

Biết từ nhơn duyên khởi

Liền sanh lòng từ mẫn :

Chúng sanh khổ như vậy

Nay tôi phải cửu thoát

Vì những chúng sanh này

Thật hành việc bố thí.

Ngôi vua và trân bửu

Nhẫn đến voi, ngựa, xe,

Ðầu, mắt, cùng tay, chân,

Nhẫn đến máu, thịt, xương

Tất cả đều xả thí

Không có lòng hối tiếc.

Cầu các thứ kinh thơ

Không hề biết nhàm mỏi

Khéo hiểu nghĩa thú kia

Hay thuận theo thế gian.

Tàm quý tự trang nghiêm

Tu hành càng kiên cố

Cúng dường vô lượng Phật

Cung kínhtôn trọng.

Thường tu tập như vậy

Ngày đêm không nhàm mỏi

Thiện căn càng sáng sạch

Như lửa luyện chơn kim.

Bồ Tát trụ nơi đây

Tịnh tu mười trí địa

Chỗ làm không chướng ngại

Ðầy đủ chẳng đoạn tuyệt.

Ví như vị thương chủ

Vì lợi cho thương gia

Hỏi rõ đường dễ khó

An ổn đến đại thành

Bồ Tát trụ Sơ địa

Phải biết cũng như vậy.

Dũng mãnh không chướng ngại

Ðến bực đệ Thập địa.

Trụ trong Sơ địa này.

Làm chủ công đức lớn

Ðem pháp dạy chúng sanh

Tâm từ không tổn hại.

Thống lãnh Diêm Phù Ðề

Giáo hóa tất cả chúng

Ðều trụ hạnh đại xả

Thành tựu trí huệ Phật.

Muốn cầu đạo tối thắng

Bỏ ngôi Quốc Vương mình

Hay ở trong Phật giáo

Dũng mãnh siêng tu tập,

Liền được trăm tam muội

Và thấy trăm đức Phật

Chấn động trăm thế giới

Quang minh chiếu trăm cõi,

Ðộ trăm cõi chúng sanh

Chứng nhập trăm pháp môn

Hay biết việc trăm kiếp

Thị hiện trăm thân Phật

Và hiện trăm Bồ Tát

Ðể dùng làm quyến thuộc,

Nếu nguyện lực tự tại

Hơn số này vô lượng.

Ở trong nghĩa Sơ địa

Tôi lược thuật phần ít,

Nếu muốn giảng giải rộng

Ức kiếp chẳng hết được.

Bồ Tát đạo tối thắng

Lợi ích mọi quần sanh

Pháp Sơ địa như vậy

Nay tôi đã nói xong.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11540)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11865)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11037)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11251)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 11979)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12462)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10671)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 17866)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11625)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9853)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10107)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12273)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15252)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11135)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14216)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12004)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15194)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 11888)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12334)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11099)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12004)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10513)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12470)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13049)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14694)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12565)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16423)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19481)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13027)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12572)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12177)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11731)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10811)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13412)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11878)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11749)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11527)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12667)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14396)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12523)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15550)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13503)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12786)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9767)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 17888)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11057)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 8996)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12097)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 12948)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10219)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12095)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15191)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16516)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12124)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11381)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14153)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19537)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14064)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24422)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10595)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant