Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Phần 2

12 Tháng Ba 201100:00(Xem: 15158)
Phần 2

KINH BÁCH DỤ
Thích Nữ Như Huyền
Phật Học Viện Quốc Tế Xuất Bản 1996


11. Bà La Môn giết con

Thuở xưa, có một phái ngoại đạo kêu là Bà La Môn, trong bọn họ có một người tự xưng là có thể biết được quá khứ vị lai, đối với các học vấn điều nói trôi chảy không sợ sệt. Chàng muốn phổ trương bản lảnh của mình, bèn đi đến địa phương khác, trước mặt mọi người ôm con khóc lóc thảm thiết.

Có người hỏi:

- Tại sao anh khóc nhiều thế?

Chàng trả lời:

- Con tôi trong bảy ngày nửa sẽ chết, vì thế nên tôi rất đau buồn.

Mọi người khuyên chàng rằng:

- Hiện nay con anh khỏe mạnh như thế, trong bảy ngày nữa làm sao chết được? Có lẽ anh tính lầm, hà chăng phải là sự buồn khổ vô ích sao?

Chàng trả lời:

- Tôi tính rất chánh xác, đối với mặt trời, mặt trăng, vũ trụ, vạn vật, từ xưa nay tôi không tính lầm bao giờ.

Ðến hạn bảy ngày đứa con của chàng không chết, nhưng vì chàng muốn bảo tồn danh dự, bèn giết đức con để chứng minh cho điều dự đoán không lầm, khiến cho mọi người tin phục, mong cầu danh tiếng lợi dưỡng cho mình.

** Chuyện nầy tỉ dụ: Ngoại đạo tự xưng đắc đạo, xong không có thật đức tu hành, vì muốn cho mọi người tin phục, mà không tiếc xử dụng những thủ đoạn độc, giả dối, hủ ngụy, dối thế, trộm danh, cũng như vị Bà La Môn giết con để dối đời như trên không khác.

12. Quạt nước đuờng 

Thuở xưa, có người chuyên môn nấu đường cát, đang lúc nấu đường tại nhà, bỗng có người nhà giàu đến chơi. Muốn xu phụng người ấy, anh bèn mời người nhà giàu uống một chén nước chè.

Anh bỏ một ít đường và rót thêm chút nước vào nồi bắc lên lò nấu.

Chụm lửa rất nhiều nên chẳng bao lâu, nước đường sôi lên sùng sục.

Anh sợ nước đường nóng, rồi người nhà giàu phải chờ lâu mới uống được, liền tính làm nguội bớt nước, bèn nỗ lực quạt nước đường trong nồi, xong anh lính quýnh quên nhắc nồi ra khỏi lửa, vì thế tuy quạt rất lâu mà đường vẫn sôi mãi. Anh nọ lúc quạt mau, khiến mồ hôi chảy dầm dề trên trán.

Mọi người chung quanh thấy thế, đều chê cười anh ta và bảo rằng:

- Anh làm thế chỉ phí công vô ích, không tắt lửa dưới nồi mà chỉ quạt nước trong nồi làm sao nước nguội được?

** Chuyện nầy tỉ dụ: Nếu chúng ta không từ lữa dữ, tham, sân, si phiền não cãn bổn mà diệt trừ, thì không thể nào đạt đến chỗ giải thoát thanh tịnh. Mặc dù chúng ta đem hết sức bình sanh tu theo khổ hạnh vô ích, cũng chỉ luống nhọc vô công, không có sự bổ ích thực tế, tương lai y nhiên trôi lăn trong vòng sanh tử chịu khõ vô cùng.

13. Sự thật chứng minh

Có một nhóm người ngồi trong nhà bình luận phạm hạnh của một người khác. Trong nhóm ấy, có người nói rằng: 

- Người đó cái gì cũng hay cả, chỉ có hai điều không tốt: Ðiều thứ nhất là hay nổi sân, điều thứ hai là chạm việc hay lỗ mãng.

Ðang lúc y nói thế, bất ngờ người kia đi ngang qua cửa nghe lọt vào tai, lập tức nổi giận đùng đùng, nhẩy bổ vào nhà vừa đánh y vừa nói:

- Ta nổi sân hồi nào, ta lỗ mãng với ai đâu?

Bây giờ mọi người đều nói:

- Cữ động của người hiện tại chẳng đủ chứng minh cho sự sân hận và lỗ mãng của người sao?

** Chuyện nầy tỉ dụ: Có một hạng người có lỗi mà không tự nhận, người khác đưa ý kiến giải bày, chẳng những không hết lòng tiếp nhận, trở lại xấu hổ nổi sân, tìm cách báo phục, làm thế không chỉ trở ngại cho sự tiến bộ của tự mình, mà lại làm bộc lộ và phát triển tội ác xưa nay, chịu hậu quả bất lương nữa.

14. Giết kẻ dẩn đường

Thuở xưa, có một đoàn thương gia dự định đến phương xa để tìm kế sanh sống.

Ðường đi phải trải qua một đồng rộng, cả đoàn đều không ràng đường, mới bàn tính với nhau mời một người đi theo chỉ lối; rồi họ cùng nhau khởi cuộc hành trình

Ði được nữa đường, họ đến một cánh đồng bao la bát ngát, gặp một ngôi miếu thần.

Theo tập quán nơi đó, đoàn phải giết một người tế miếu mới đi qua khỏi được.

Ðoàn thương gia cùng nhau bàn luận riêng, ai cũng cho rằng: Trong bọn chúng ta đều là bà con thân thíchđồng hương, chỉ có người dẫn đường là người ngoài chi bằng giết người nầy để cúng tế.

Bàn tính xong xuôi, họ bèn đem người dẫn đường ra giết.

Cúng tế xong, họ lên đường, nhưng vì không có người dẫn lối, nên cả bọn lạc lõng, bơ vơ nơi cánh đồng bát ngát.

Cúng tế xong, họ lên đường, nhưng vì không có người dẫn lối, nên cả bọ lạc lõng, bơ vơ nơi cánh đồng bát ngát.

Sau cùng cả bọn họ đều bị chết ở giữa đường dài.

** Chuyện nầy tỉ dụ: Muốn vào biển Phật pháp để lượm của báu, phải nên tu pháp lành làm vị tiên đạo. Có một ít người xưa nay điên đảo tu hành, không chịu khảo nghiệm sự thật, luôn luôn náo động không an, mạt sát hạnh lành, vong tưởng, mê chấp, mà muốn thủ lấy chân bảo pháp tài. Kết quả chỉ hằng đọa nơi bến mẻ, biển khổ, trọn đời không có nẻo thoát ly.

15. Muốn con mau lớn

Thuở xưa, có một ông vua sanh được nàng Công chúa, vua yêu quí vô cùng, mong muốn nàng mau lớn, bèn mời vị lương y đến thương lượng:

- Người có thuốc gì để cho con gái trẩm uống vào mau lớn chăng? 

Lương y trả lời:

- Hạ thần nhứt định sẽ tìm được thuốc hay nhưng phải đến phương xa mới có. Hạ thần yêu cầu Bệ hạ một điều kiện là trong thời gian hạ thần đi tìm thuốc, Bệ hạ không được đến thăm công chúa. Chừng nào hạ thần đem thuốc về cho công chúa uống rồi, Bệ hạ hãy đến tham.

Vua trả lời ưng thuận.

Vị lương y đi tìm thuốc phương xa kế đã 12 năm chẵng mới đem thuốc trở về.

Sau khi công chúa uống thuốc xong, lương y bèn đem công chúa yết kiến vua trong cung nội.

Vua thấy công chúa đã trưỡng thành, lòng mừng khôn xiết, nói với lương y rằng:

- Người thật là vị lương y đại tài, không người bì kịp; công chúa nhờ uống thuốc của người mà chóng lớn đến thế!

Ðoạn vua bảo quan tả hữu ban thưởng cho lương y rất nhiều tài vật.

Người đương thời đều cười vua là người dại dột, không biết tính tuổi của con mình.

** Chuyện nầy tỉ dụ: Người tu tập Phật pháp cần phải chân thật hành trì, tự hiểu hể nước đến thì ao thành, giòng trong thì tràng hiện, công đức được vẹn toàn. Nếu không chịu hành trì đúng theo Phật pháp, cố gắng chân thật dụng công, mà chỉ mong cầu cho mau có kết quả, thì thật là sai lầm. Hạng người hành động như thế cùng ông vua muốn con mau lớn như kia đều là hạng ngu si đáng chê cười cả.

16. Tưới mía bằng nước mía

Thuở xưa có hai người đều làm nghề trồng mía, họ thi đua với nhau, đưa ra đề nghị: Ai trồng lên tốt thì được thưởng, còn ai trồng xấu thì phải phạt.

Bây giờ một trong hai người tự nghĩ rằng:

- Mía xưa nay vốn ngọt nếu ta dùng nước mía tưới thêm lên, thì mìa chắc chắn là ngọt lắm.

Người kia nghĩ như vậy xong, bèn dùng rất nhiều mía ép lấy nước, rồi đem nước ấy tưới lên mía mới trồng.

Kết quả chẳng những hao tốn, mà lại bao nhiêu mía mới trồng đều hư hoại hết.

** Chuyện nầy tỉ dụ: Có một ít người không chịu noi theo đường chính để tu học Phật pháp, trở lại tư tưởng khác thường, lập dị, cầu kỳ, đui tu mù luyện, mà cho đó là phương pháp giản dị, "Khắc kỳ thủ chứng". Kết quả chẳng những không đạt được mục đích đã dự kỳ, mà còn lãng phí tinh thầnthời gian nữa. chỉ luống nhọc vô công cũng như người dùng mía tưới mía không khác.

17. Vì nhỏ mất lớn

Thuở xưa có một người cho người khác mượn năm đồng, rất lâu mà khôngg trả lại, chàng bèn đi đến nhà đòi.

Ðường đi trải qua một con sông rộng, chàng phải đi đò tốn ba đồng, đến nhà thời người kia đi vắng, khi trở về chàng lại phải tốn ba đồng nữa. Ði đò qua lại hết sáu đồng. Làm như thế chỉ luống nhọc công mà không đi đến đâu cả, số tổn thất bại nhiều hơn số tiền cho mượn.

** Chuyện nầy tỉ dụ: Nếu vì tranh cầu chút lợi, không tiếc làm bại hoại thanh cao của mình. Kết quả thường khi không bù lại được sự tổn thất. Thậm chí, danh lợi đều mất không còn. Hiện tại mang tiếng xấu. Ðời sau mắc quả báo chẳng lành. Hành động như thế thật là ngu si.

18. Trên lầu mài dao

Thuở xưa có một người phục dịch cho vua rất khổ, trải qua một thời gian lâu, thân thể mỏi mệt vô cùng. Vua thấy thế thương hại bèn ban cho con lạc đà chết.

Sau khi chàng lảnh con lạc đà rồi, bèn đem về nhà lột da. Vì dao lụt cắt không đứt, chàng đi tìm một viên đá để mài dao, chàng tìm được một viên đá ở trên lầu. Chàng lên lầu mài dao xong, rồi xuống lầu lột da lạc đà. Cắt một lát dao lụt, chàng lại đi lên lầu mài lại, rồi trở xuống lầu lột da. Vi lên xuống nhiều lần, thân thể mỏi mệt. Chàng bèn nghĩ ra một phương pháp, đem con lạc đà để trên lầu cho tiện, một bên thì mài dao, một bên thì cắt. Chàng tự cho làm thế là rất thông minh. Thật ra ai cũng cười chê chàng người ngu xuẩn.

** Chuyện nầy tỉ dụ: Có một người thường thường hủy phá giới cấm, rồi đem rất nhiều tiền của để tu phước bổ thí, mong đặng sanh thiên. Giống như người mài dao kia, cho dụng công rất nhiều mà chỗ đặng rất ít.

19. Ghi dấu trên thuyền để tìm đồ rơi xuống bể

Thuở xưa có một người vượt thuyền qua bể, sơ ý đánh rơi cái chén bạc trong nước sâu, tức khắc chàng ghi trên be thuyền làm dấu. Ðoạn rồi chèo thuyền đi, trong tâm chàng tự nghĩ: Mình đã ghi kỹ chỗ cái chén bạc rơi trong nước, sau nầy có thể căn cứ nơi lần ghi ấy mà tìm.

Hai tháng sau, ngày nọ chàng đến nước Sư tử là một địa phương rất xa, thấy có một giòng sông, chàng sực nhớ dấu đã ghi trên thuyền, bèn lặn xuống nước tìm cái chén bạc.

Có người thấy thế hỏi rằng:

- Anh lặn vào trong nước để tìm cái gì?

Chàng trả lời:

- Tôi muốn tìm cái chén bạc đã đánh rơi.

Người kia lại hỏi:

- Chén của anh rơi chỗ nào?

Chàng trả lời:

- Tôi đánh rơi khi tôi mới vào biển cách đây hai tháng về trước.

Lúc ấy tôi có ghi, trên be thuyền làm dấu chắc chắn. Ngày nay tôi cứ xem chỗ ghi trên be thuyền mà xuống nước tìm chén.

Mọi người nghe xong, ha hả cưới lớn và nói rằng: 

- Nước tuy giống mà địa phương xa cách ngàn trùng, làm sao mất một nơi rồi lặn một nơi khác tìm đặng?

** Chuyện nầy tỉ dụ: Ngoại đạo không tu chánh hạnh, ở trong pháp làng tương trợ nhau, luống tu theo lối khổ hạnh vô ích. Bọn họ đâu biết sai một ly mất ngàn dậm. Chúng ta cần phải sáng suốt y cứ theo nguyên tắc mà tu học cho đúng chánh pháp, đó là điều trọng yếu của chúng ta.

20. Trả thịt

Ngày xưa có một ông vua nghe đồn có người bình phẩm mình là rất bạo ngược, không hiểu chánh trị là gì, vua tức lắm, tức khắc hạ lệnh bắt cho được con người phạm thượng kia. Những mật thám điều tra không biết là ai cả. Sau khi nghe lời vị hầu cán, vua bắt một người dân lương thiện ra hạch tội, rồi lên án lóc một trăm lượng thịt sau xương sống của y.

Chẳng bao lâu có người biện hộ rằng: Người lương dân ấy không bao giờ dám chê bai, mạt sát nhà vua. Bây giờ vua quá hối hận, thấy rằng không nên kết tội oan cho người hiền, phải mau đền trả tổn thất lại. Vua bèn hạ lệnh dùng một ngàn lượng thịp đắp trả lại nơi xương sống của người hiền kia.

Người kia tuy đã được vua trả thịt, nhưng vẫn vô cùng đau đớn, khóc than rên rỉ suốt đêm. Vua nghe thế, không chịu suy xét cho kỹ, bèn đến họi rằng:

- Tại sao ngươi vẫn còn khóc lóc? Ta lấy của ngươi chỉ có một trăm lượng mà hiện nay ta trả lại một ngàn lượng không đủ sao?

Người lương dân không còn sức lực trả lời lại, kẻ chung quanh thấy thế nói rằng:

- Trời ơi! Tâu đại Vương, giả sử có ai chặt đầu Ðại Vương rồi sau đền lại cho Ðại Vương một ngàn cái, vậy đầy Ðại Vương có thể dính lại được không?

Vua nghe thế rồi lặng thinh không còn đường đáp lại.

** Chuyện nầy tỉ dụ: Chúng ta làm việc chi cần phải có tâm kiên để cẩn thận; chớ không nên làm việc một cách quá hung bạo, lổ mãng. Khi lầm lở rồi, thì không sao bổ cứu lại được.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 22252)
Năng Đoạn Kim Cương Bát-nhã Ba-la-mật Kinh, nguyên văn Sanskrit Devanagari hiện hành là: वज्रच्छेदिका नाम त्रिशतिका प्रज्ञापारमिता। Vajracchedikā nāma triśatikā prajñāpāramitā
(Xem: 15999)
Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập dịch từ Phạn sang Hán, Tỳ Kheo Thích Duy Lực Dịch Từ Hán Sang Việt
(Xem: 15013)
Pháp Hoakinh tối thượng của Phật giáo Đại thừa bởi vì cấu trúc của kinh rất phức tạp, ý nghĩa sâu sắc có lẽ vượt ra ngoài tầm tư duysuy luận của con người bình thường.
(Xem: 18922)
Chắc chắn dù có khen ngợi thì cũng không đủ nêu lên chỗ cao đẹp; dù có bài bác thì cũng chỉ càng mở rộng chỗ ảo diệu luận mà thôi. Luận Vật bất thiên của ngài Tăng Triệu...
(Xem: 14430)
Một thời, Đức Phật và một nghìn hai trăm năm mươi đại chúng tì-kheo cùng trụ ở tinh xá Mỹ Xưng phu nhân của trưởng giả Tu-đạt, rừng cây của thái tử Kì-đà, nước Xá-vệ.
(Xem: 18611)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 14399)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13560)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13539)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 11805)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13220)
Không khởi sinh cũng không hoại diệt, không thường hằng cũng không đứt đoạn. Không đồng nhất cũng không dị biệt, không từ đâu đến cũng không đi mất.
(Xem: 13642)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 13919)
công đức của Pháp tánh là không cùng tận, cho nên công đức của người ấy cũng giống như vậy, không có giới hạn.
(Xem: 13240)
Phật Thích Ca gọi cái pháp của Ngài truyền dạy là pháp bản trụ. Nói bản trụ nghĩa là xưa nay vốn sẵn có.
(Xem: 15012)
Thanh tịnh đạo có thể xem là bộ sách rất quý trong kho tàng văn học thế giới, không thể thiếu trong nguồn tài liệu Phật học bằng tiếng Việt.
(Xem: 16146)
Không và Hữu là hai giáo nghĩa được Đức Phật nói ra để phá trừ mê chấp của các đệ tử.
(Xem: 11075)
Đây là một bộ Đại Tạng đã được nhiều học giả và các nhà nghiên cứu về Phật Học chọn làm bộ Đại Tạng tiêu biểu so với những bộ khác như...
(Xem: 16436)
Đại Thừa Khởi Tín Luận là bộ luận quan trọng, giới thiệu một cách cô đọng và bao quát về triết học đại thừa.
(Xem: 11882)
Công trình biên soạn này trình bày một cách rõ ràng từ lịch sử hình thành và phát triển của hệ thống triết học Trung Quán cho đến khởi nguyên, cấu trúc, sự phát triển...
(Xem: 17577)
Hiện nay tôi giảng Phạm Võng Kinh Bồ Tát Giới Bổn để cho quý vị biết dù rằng muôn pháp đều không, nhưng lý nhân quả rõ ràng, không sai một mảy, cũng không bao giờ hư hoại.
(Xem: 12864)
Tâm hiếu thuậntâm từ bi giống nhau, vì hiếu thuận của Phật pháp không giống như hiếu thuận của thế gian.
(Xem: 13689)
Đức Phật ra đời suốt bốn mươi năm trời thuyết pháp, có đến hơn tám vạn bốn ngàn pháp môn. Pháp môn chính là phương pháp mở cửa tuệ giác tâm linh.
(Xem: 12838)
Nếu có duyên mà thọ và đắc từ Chư Phật và Bồ Tát thì sự thành tựu giới thể rất là vượt bực.
(Xem: 14840)
Trì Giớithực hành những luật lệđức Phật đặt ra cho Phật tử xuất gia thi hành trong khi tu hành, và cho Phật tử tại gia áp dụng trong cuộc sống để có đời sống đạo đức và hưởng quả báo tốt đẹp;
(Xem: 16369)
Chỉ tự quán thân, thiện lực tự nhiên, chánh niệm tự nhiên, giải thoát tự nhiên, vì sao thế? Ví như có người tinh tấn trực tâm, được giải thoát chân chánh, người như thế chẳng cầu giải thoátgiải thoát tự đến.
(Xem: 13117)
Trong nước mỗi mỗi báu ấy đều có sáu mươi ức hoa sen thất bửu. Mỗi mỗi hoa sen tròn đều mười hai do tuần.
(Xem: 12070)
Đối với Phật giáo, các nguồn gốc của mọi hành vi tác hại, thí dụ như ham muốn, thù hận và cảm nhận sai lầm được coi như là cội rể cho mọi sự xung đột của con người.
(Xem: 12742)
Năm Giới Tân Tu là cái thấy của đạo Bụt về một nền Tâm LinhĐạo Đức Toàn Cầu, mà Phật tử chúng ta trong khi thực tập có thể chia sẻ với những truyền thống khác trên thế giới
(Xem: 12877)
Nếu có nghe kinh này thọ trì đọc tụng giảng thuyết tu hành như lời, Bồ Tát này đã là cúng dường chư Phật ba đời rồi.
(Xem: 12755)
Các học giả Tây phương quan niệm hệ thống giáo lý Phật giáo từ các bản Pali, Sanskrit là kinh “gốc” và kinh sau thời đức Phật là kinh phát triển để...
(Xem: 14151)
Ở đây, chúng tôi chỉ cố gắng ghi lại nghĩa Việt theo khả năng học hiểu về cổ ngữ Sanskrit.
(Xem: 14092)
Chánh pháp quý giá của các ngài soi sáng khắp nơi và tuôn xuống như mưa cam-lộ. Tiếng nói của các ngài vi diệu đệ nhất.
(Xem: 16446)
Đây là một bộ kinh rất có ý nghĩalợi lạc vô cùng nếu được thường xuyên tụng đọc, hoặc giảng giải huyền nghĩa đến mọi người tín tâm.
(Xem: 12367)
Cần ban cho luật diện tiền liền ban cho luật diện tiền, cần ban cho luật ức niệm liền ban cho luật ức niệm,
(Xem: 14371)
Trong các pháp, tâm dẫn đầu, tâm làm chủ, tâm tạo tác ; Nếu nói hoặc làm với tâm ô nhiễm, sự khổ sẽ theo nghiệp kéo đến như bánh xe lăn theo chân con vật kéo.
(Xem: 11293)
Người đời thường nghiêng về hai khuynh hướng nhận thức, một là có, hai là không. Đây là hai quan niệm vướng mắc vào cái tri giác sai lầm.
(Xem: 11013)
Tâm bậc giác ngộ được nói là không còn bám trụ vào bất cứ gì trên đời (bất cứ đối tượng nào của thức)
(Xem: 13178)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức...
(Xem: 13879)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức
(Xem: 13145)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức...
(Xem: 12989)
Thế Tôn đã giảng đời sống phạm hạnh chi tiếtrõ ràng, toàn hảo, hoàn toàn tinh khiết.
(Xem: 13483)
Người không sầu muộn, không than vãn, không khóc lóc, không đập ngực, không rơi vào bất tỉnh, đây là hạng người bản tánh bị chết, không sợ hãi, không rơi vào run sợ khi nghĩ đến chết.
(Xem: 12707)
Đức Phật trình bày các điều bất thiện đều bắt nguồn từ tham, sân, si còn điều thiện là do lòng không tham, không sân, không si dẫn tới.
(Xem: 10224)
Đây nói về công đức của Bồ-tát sơ phát tâm, là để phân biệt với những gì đã nói về Nhị thừa...
(Xem: 13951)
Từ ngàn xưa chư Phật ra đời nhằm một mục đíchgiáo hóa chúng sinh với lòng bi nguyện thắm thiết đều muốn cho tất cả thoát ly mọi cảnh giới phiền não khổ đau
(Xem: 10210)
Bát Nhãtrí tuệ, nhưng không giống như trí tuệ thế gian, cho nên thường gọi là Trí Tuệ Bát Nhã.
(Xem: 13685)
Chữ “Viên giác bồ tát” – Viên GiácGiác viên mãn. Từ trước đến đây, Phật đã nhiều lần chỉ dạy phương pháp tu hành để phá trừ Vô minhchứng nhập Viên giác.
(Xem: 16248)
Phẩm Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn thường được gọi đơn giảnphẩm Phổ Môn nghĩa là cánh cửa phổ biến, cánh cửa rộng mở cho mọi loài đi vào.
(Xem: 11945)
Pháp ấn là khuôn dấu của chánh pháp. Khuôn dấu chứng thực tính cách chính thống và đích thực. Giáo lý đích thực của Bụt thì phải mang ba dấu ấn chứng nhận đó.
(Xem: 12955)
Những lời Như Lai thuyết giảng trước các đại đệ tử năm nào cách đây hai mươi lăm thế kỷ hiện nay vẫn hiện tiền cho những ai có cái tâm kính cẩn lắng nghe.
(Xem: 11626)
Xuất sinh pháp Phật không gì hơn Hiển bày pháp giới là bậc nhất Kim cương khó hoại, câu nghĩa hợp Tất cả Thánh nhân không thể nhập.
(Xem: 12650)
Nơi tâm rộng, hơn hết Tột cùng không điên đảo Lợi ích chốn ý lạc Thừa nầy công đức đủ.
(Xem: 10778)
Giáo lý đạo Phật đặt nền tảng trên con người, lấy hạnh phúc con người làm trung tâm điểm để phát huy lý tưởng Bồ-tát đạo.
(Xem: 10971)
Kinh Duy Ma là một tác phẩmgiá trị về mặt văn học. Đó là một văn bản có giá trị giải tỏa mọi ức chế về mặt tư tưởng, giải phóng sự gò bó trói buộc...
(Xem: 10925)
Kinh Duy Ma là cái nôi của Đại thừa Phật giáo, kiến giải giáo lý theo chân tinh thần Đại thừa “Mang đạo vào đời làm sáng đẹp cho đời, mà không bị đời làm ô nhiễm”.
(Xem: 11863)
Duy-ma-cật sở thuyết còn có một tên khác nữa là Bất tư nghị giải thoát. Đó là tên kinh mà cũng là tông chỉ của kinh.
(Xem: 12735)
Bộ Kinh này trình bày cảnh giới chứng nhập của Bồ Tát, có nhiều huyền nghĩa sâu kín nhiệm mầu, cao siêu...
(Xem: 11044)
Đức Phật thuyết Kinh Kim Cang là để dạy cho chúng ta làm thế nào để có được cuộc sống hạnh phúc, cảnh giới niết bàn.
(Xem: 12602)
Trong tập sách nầy gồm các bài giảng về giáo lý kinh Pháp Hoa cùng phân tích phẩm Tựa và phẩm Phương Tiện của kinh.
(Xem: 11298)
Tri kiến Phật là cái thấy biết không thuộc về kiến chấp ngã nơi thân, không thuộc về kiến chấp ngã nơi tâm (vọng tâm).
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant