Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Phần 3

12 Tháng Ba 201100:00(Xem: 13352)
Phần 3

KINH BÁCH DỤ
Thích Nữ Như Huyền
Phật Học Viện Quốc Tế Xuất Bản 1996


21. Cầu con

Thuở xưa có một người đàn bà đã sanh được đứa con, lại muốn có thêm một đứa bèn hỏi những người đàn bà khác rằng: 

- Ai có phương pháp gì làm cho tôi sanh đứa con nữa không?

Bây giờ có bà lão trả lời:

- Ta có phương pháp giúp ngươi sanh con nữa, nhưng ngươi phải giết con lấy máu tế thiên thần, rồi ngươi mới được như ý.

Người đàn bà kia rất tin lời bà lão và định sẽ làm theo lời bà. May có người lối xóm hay được, cản ngăn và quở trách rằng:

- Chị sao dại dột thế? Hy vọng sanh thêm một đứa nữa, mà lại đem đứa con hiện có giết đi; thế là đứa kia chưa sanh mà đứa nầy đã chết, rốt cuộc không có đứa nào cả.

Hành động ấy đáng làm hay không, chị cần nên xét lại.

** Chuyện nầy tỉ dụ: Có đa số người mê tín, dị đoan, tin theo tả thuyết của ngoại đạo một cách mù quáng. Họ chủ trương rằng: Muốn tương lai được hạnh phúc, thì phải tu theo lối khổ hạnh như là: Nhẩy vào hầm lửa, nằm trên gai, đứng một chân v.v... Họ tu theo các phương pháp sai lạc như thế, chỉ luống nhọc vô công, khổ thân tự hại, chẳng những không mong gì được phước báo sanh thiên, mà lại rất tương phản với nguyên lý Phật Giáo.

22. Bán trầm hương 

Thuở xưa có người lặn lội ra biển tìm trầm hương, trải qua nhiều năm tháng mới được một xe đem về bầy ra chợ để bán. Vì giá cao nên bán không được, chàng rất băn khoản trong tâm khổ sở vô cùng.

Bây giờ thấy nhiều người gánh than ra chợ bán, vừa gánh ra là có người mua. Chàng tự nghỉ: "Ta đem trầm hương đốt thành than, đem bán chắc đắt lắm". Thế rồi chàng đốt hết trầm hương thành than gánh ra chợ bán, quả nhiên bán chạy vô cùng. Nhưng giá tiền một xe trầm hương không giá tiền của nửa xe than củi.

** Chuyện nầy tỉ dụ: Người tu hành mong cầu Phật quả không nên sợ khó mà thối tâm, hay cầu kỳ, lập dị, hoặc trở lại cầu quả tiểu thừa. Kết quả tự mất lợi lớn, cũng như người đốt trầm hương ra than để bán cho mau. Hành vi như vậy, thật đáng thương xót vô cùng.

23. Trộm mền

Thuở xưa có một kẻ trộm lấy của người nhà giàu một mớ hàng gấm đáng giá, rồi ra ngoài nhà vơ vét một cái mền rách và một ít quần áo củ. Sau khi trộm xong, y mới đem hàng gấm bao cái mền rách và mớ y phục củ gói thành một gói mang đi cung khắp. Sau mọi ngượi biết được đều che cười.

** Chuyện nầy tỉ dụ: Người đã phát tâm chánh tín tu học Phật pháp, không nên trở lại tham lam danh lợithế gian, phá giới luật thanh tịnh. Nên làm việc điên đảo như vậy, thì không khỏi tổn thương đức hạnh của mình và làm trò cười cho kẻ bàng quan.

24. Gieo mè

Thuở xưa có người ăn mè sống thấy không ngon bằng mè rang chín. Người kia tự nghĩ: "Mè rang chín ăn ngon như thế, ta nên đem gieo hột mè đã rang, sau có hột chắc chắn sẽ ngon lắm". Y bèn rang mè rồi đem gieo, kết quả không mọc cây nào cả.

** Chuyện nầy tỉ dụ: Hột giống đã rang, thi không làm sao sinh ra cây, kết trái được. Cũng như nhiều kiếp hành đạo Bồ tát khổ hạnh cần tu, mới mong trưởng thành chủng tử Phật quả, mà muốn để tu mau chứng, lại tu theo hạnh tiểu thừa, chung kết không thể thành Phật quả. Phật thường quở hàng tiểu thừa là thứ "giống rang mần hư" chính là ý nghĩa đấy vậy.

25. Nước và lửa

Thuở xưa có người đang ở trong nhà làm việc, cần dùng cả nước lạnh và lửa, dùng cái chén sành đựng, lửa để trong phòng, lại dùng cái lọ thiếc dùng nước để trên chén lửa. Người kia tự nghĩ: "Ta đã dự bị lửa và nước xong rồi"; vài giờ sau người kia dùng đến lửa, thì lửa đã tắt; dùng đến nước thì nước đã nóng. Cả hai đều không dùng được.

** Chuyện nầy tỉ dụ: Có một hạng người đã xuất gia cầu học Phật pháp, nhưng lại quyến luyến gia đình, say mê thú dục lạc, niệm niêm không rồi; do đó không thể thoát ly biển ái, mà lại vụt tắc lửa công đức của mình, mất nước trì giới nữa. Chung kết công đức tu hànhsự nghiệpthế gian, cả hai đều mất.

26. Bắt chước vua

Ngày xưa có một người muốn tâm mình cũng sung sướng vui vẻ như vua, bèn hỏi người quen rằng:

- Ta làm cách nào được hạnh phúc như vua?

Người kia bày:

- Nếu anh muốn hoan lạc như ngài vậy, thì nên bắt chước điều bộ của ngài.

Chành cho điếu ấy là chí lý, bèn đi đến trước mặt nhà vua xem từng củ động, chăm chú bắt chước bộ điệu của vua. Bây giờ vua nháy mắt không ngớt, chàng cũng nhái giọng như in. Vua thấy thế rất lấy làm quái lạ, hỏi rằng:

- Mắt ngươi có lông cặm, hay bị bụi rớt vào?

Chàng trả lời:

- Không, mắt tôi không sao cả, chỉ vì tôi muốn hạnh phúc như ngài, nên cố bắt chước điệu bộ của ngài đây.

Vua nghe xong, nổi giận lôi đình:

- Ngươi thật là người hỗn sược!

Rồi sai quân lính đem ra đánh một trận nên thân, đoạn đuổi ra khỏi nước.

** Chuyện nầy tỉ dụ: Có một ít người được nghe Phật pháp muốn gần gũi học tu, nhưng không hiểu nguyên lý căn bản của Phật pháp. Ðức Như Lai là bậc toàn trí, toàn năng vì muốn cứu độ chúng sanh khỏi khổ, nên tìm đủ mọi phương tiện dắt dìu. Có lúc nói lý thuyết cạn cột để độ những hạng người trình độ thấp kém, hoặc cũng mạng thân người cũng làm mọi việc, hoặc đem thân đến nợ trước như oan báo: "bị gươm vàng đâm và ăn lúa ngựa".

Bọn họ lại chấp chặt, hoặc bắt chước theo, hoặc chê cười hủy báng. Chung kết ở trong Phật pháp hằng mất sự lợi íchchứng ngộ, trở lại bị đọa lạc vào ba đường dữ chịu đủ mọi khổ hình.

27. Trị vết thương

Thuở xưa có một ông già bị vua đánh đập tàn nhẩn, bị thương sâu nặng vô cùng. Ông bèn dùng phân ngựa xoa vào đấy, vài hôm vết thương lành. Khi ấy có một người ngu thấy thế, lòng rất vui mừng, bèn hỏi:

- May quá! Ta vừa biết được một phương thuốc trị vết thương rất hay!

Y lập tức về nhà nói với con rằng: 

- Ta có thuốc hay lắm, con bằng lòng để cha đánh sau lưng cho bị thương rồi đem thoa thử, chắc chắn hiệu nghiệm vô cùng.

Người con vâng lời cha dạy.

Y đánh sau lưng co cho bị thương rồi dùng phân ngựa thoa vào. Hành động như vậy mà tự xưng cho mình là rất thông minh, thật đánh làm trò cười cho hàng thức giả.

** Chuyện nầy tỉ dụ: Như người chấp thuộc thành bịnh, chúng ta tu học Phật pháp không chịu dùng phương pháp đối trị quen thói lầm mê, trở lại để cho phiền não, sân, si tự do phát khởi.

Như nghe nói "Bất tịnh quán" có thể bỏ thân phàm, thoát ly sanh tử, bèn có ý lăng loàn, rồi quán "Bất tịnh". Chung kết chẳng những "Quán Bất Tịnh" không thành mà trở lại bị sắc dục lầm hoặc, kết thêm nghiệp báo trôi lăn trong vòng sanh tử mãi không thôi!

Không khéo dùng thuốc, thì thuốc trở lại thành bịnh; không khéo tu pháp lành, thì càng tăng thêm nghiệp luỵ. Ðó là điều quan trọng, chúng ta cần xem đây để tự răng mình.

28. Xẻo mũi

Thuở xưa có một người sánh duyên với nàng con gái nhan sắc xinh đẹp, nhưng chỉ có cái mũi hơi khó coi.

Sau đó người kia gặp cô gái khác, chẳng những dung mạo đẹp đẽ lạ lùng, mà cái mũi rất ngay thẳng, khả ái. Người kia tự nghĩ: "Ước gì ta có cái mũi đẹp của cô ấy để thay vào cái mũi của vợ ta, có phải vợ ta sẽ hoàn toàn xinh đẹp không?".

Thế rồi y cắt mũi cô gái đẹp, cầm chạy về nhà khoe với vợ rằng:

- Em ơi! Nay anh sung sướng được ban cho em cái mũi đẹp!

Y bèn cắt mũi vợ quăng đi, rồi chắp cái mũi kia lại. Rốt cuộc, không ráp được mà vợ y lại bị mất mũi càng thêm xấu xí vô cùng. Y làm hại cả hai hàng con gái đẹp.

** Chuyện nầy tỉ dụ: Người đời nghe biết các bậc Sa môn, Bà la môn kỳ cựuđại oai đức, được mọi người cùng kính cúng dường, bèn nghĩ: Ta cùng các vị kia có khác gì nhau; rồi tự giả xưng vong nói mình có đức. Làm thế đã bất lợi, lại còn tổn thương phẩm hạnh của mình, cùng người xẻo mũi vợ kia không khác.

29. Ðốt áo

Thuở xưa có một người nghèo, làm thuê để dành tiền may được một cái áo ngắn bằng vải to. Khi y mặc ra đường, có người khác thấy hỏi rằng:

- Hình dung mặt mũi của anh xinh đẹp như vậy, chắc là con nhàu giàu sang, tại sao lại mặc áo vải? Tôi nay có biện pháp giúp anh có quần áo tốt, nhưng nha phải tin tôi, tôi không bao giờ đòi anh cả.

Người nghèo nghe xong rất vui mừng:

- Tôi nhứt định nghe theo lời anh.

Người kia bèn đốt lửa bên đường rồi bảo người nghèo:

- Anh hãy đem cái áo vải xấu bỏ vào lửa đốt đi, sau khi áo vải cháy rồi, anh nên đứng đợi một chút, tức khắc có quần áo đẹp cho anh. 

Người nghèo y lời đem áo xấu bỏ vào lửa đốt. Ðốt xong, đi qua đi lại đợi chờ mà vẫn không thấy áo quần đẹp hiện ra.

** Chuyện nầy tỉ dụ: Y cứ lời Phật nói rằng: Thân người khó được, chúng ta đã được thân người, phải nên tấn tu đạo đức, vun bồi cội phúc về sau, y theo chánh pháp đúng như lý tu hành. Nhưng ngoại đạo vọng lập tà thuyết để dối người; Thân nầy nên hủy hoại nhẩy vào hầm lửa, thì có thể sanh lên cỏi trời v.v...

Lời nói vô lý đây không thể tin được. Nếu làm theo như vậy, chẳng những đời nầy bị tổn hại mà lại, mê hoặc cho đời sau; cũng như người nghèo bị lừa dối không khác.

30. Nuôi dê

Thuở xưa có một người nuôi dê, nuôi rất đúng phương pháp, nên mỗi ngày sanh sãn rất nhiều, từ ngàn con đến vạn con. Nhưng người kia rất hà tiện, không dám giết một con ăn thịt, hoặc là đãi khách. Người khác năn nỉ xin hoặc mua bớt, nói cách gì y cũng không chịu mất một con.

Bây giờ có người rất mánh lời gian dối, thường qua lại làm quen, dùng lời ngon ngọt kết bạn thân với y. Y tin là người chân thật. Một hôm người kia nói với y rằng:

- Tôi và anh đã thành bạn thân với nhau, nên có điều chi tôi cũng muốn bàn với anh cả. Anh nay chưa vợ con, rất cô đơn hiu quạnh. Tôi được nghe xóm nhà ở hướng đông, có một cô gái rất đẹp, nếu anh cưới nàng làm vợ thì xứng đôi vừa lứa vô cùng. Tôi xin làm người giới thiệu thì chắc chắn thành công.

Người nuôi dê nghe thế mừng rỡ vô cùng, bèn giao cho người kia rất nhiều dê và một ít lễ vật làm đồ sính lễ đầu tiên.

Cách vài hôm sau, người kia trở lại bảo anh rằng: 

- Cô ấy đã bằng lòng sánh duyên cùng anh, và may quá, vợ anh nay đã sanh được một đứa con rất ngộ nghỉnh, tôi lại báo tin mừng cho anh hay!

Người nuôi dê chưa bao giờ thấy mặt vị hôn thê, nhưng nghe nói vừa sanh một đứa con thì lòng mừng không thể tả! Vội vàng cấp cho người kia rất nhiều dê. Hai bên từ biệt.

Cách vài hôm sau nữa, người kia lại trở về nói rằng:

- Anh ơi! Thê thảm đau đớn quá, con anh đã chết rồi! Tôi đến đây thành thực chia buồn cùng anh, để tỏ tình bạn hữu.

Người nuôi dê nghe xong, vật vã khóc lóc thảm thiết, buồn khổ mãi không nguôi.

** Chuyện nầy tỉa dụ: Trong Phật giáo có những hạng người đa vạn, không mong tâm danh lợi, không ham mê sắc đẹp vị ngon, nhưng lại tham trước dục lạc thế gian, trở lại bị nó làm mê hoặc, đành qảng tài bảo pháp lành công đức, lơ lảng sự tu hành. Kết quả, không những làm hư hỏng pháp lành, mà lại tiêu tan cả thân mạng, tài sãn, thật đáng tủi nhục đau lòng, chính mình chuốc lấy sự đau khổ cho chính mình một cách oan uổng.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12394)
Ấn là chiếc ấn hay khuôn dấu. Pháp có nghĩa là chánh pháp hay toàn bộ hệ thống tư tưởng trong lời dạy của Đức Phật được ghi lại trong ba tạng thánh điển. Pháp ấn có nghĩa là khuôn dấu của chánh pháp
(Xem: 10252)
Đây là Kinh thứ 16 của Nghĩa Túc Kinh và cũng có chủ đề “Mâu Ni”: Một vị mâu ni thấy như thế nào và hành xử như thế nào khi đứng trước tình trạng bạo động và sợ hãi?
(Xem: 12234)
Các nhà học giả Tây phương cũng như Đông phương đều công nhận hệ thống Bát-nhã là cổng chính yếu dẫn vào Đại thừa.
(Xem: 11529)
Mỗi khi nói về vấn đề niềm tin trong đạo Phật, chúng ta thường hay dẫn chứng những lời Phật dạy trong kinh Kalama.
(Xem: 28682)
Kinh Quán Thế Âm bồ tát cứu khổ nằm trong Vạn tự chánh tục tạng kinh, ta quen gọi là tạng chữ Vạn, quyển1, số 34. Kinh này là một trong những kinh Ấn Độ soạn thuật, thuộc Phương đẳng bộ.
(Xem: 11929)
Trong Kinh Kim Cang có câu, “Nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai.” Nghĩa là, nếu thấy các tướng đều xa lìa tướng, tức là thấy Phật.
(Xem: 12902)
Kinh Kim Cương (hay Kim Cang), tên đầy đủ là Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Đa (Vajracchedika-prajñaparamita), là một trong những bài kinh quan trọng nhất của Phật giáo Đại Thừa
(Xem: 11344)
Trong sách Nhật Tụng Thiền Môn, chúng ta có Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 12257)
Kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật là một bộ kinh hoằng dương rất thịnh, phổ biến rất rộng trong các kinh điển đại thừa.
(Xem: 17279)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 52698)
Phương pháp sám hối Từ bi đạo tràng Mục Liên Sám Pháp - Nghi Thức Tụng Niệm
(Xem: 35369)
Từ bi Đạo Tràng, bốn chữ ấy là danh hiệu của pháp sám hối nầy... Thích Viên Giác dịch
(Xem: 21216)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 10589)
Năm 1984 khi bắt đầu lạy kinh Ngũ Bách Danh bằng âm Hán Việt thuở ấy, tôi không để ý mấy về ngữ nghĩa. Vì lúc đó lạy chỉ để lạy theo lời nguyện của mình.
(Xem: 19098)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 12307)
Một trong những bộ kinh quan trọng nhất của hệ tư tưởng Phật giáo Bắc truyền, không những có ảnh hưởng to lớn đối với tín đồ Phật giáo mà còn lôi cuốn được sự quan tâm của giới nghiên cứu, học giả Đông Tây, là Kinh Diệu Pháp Liên Hoa.
(Xem: 25831)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 13210)
Tác phẩm này có thể là hành trang cần thiết cho những ai muốn thực hành Bồ Tát giới theo đúng lời Phật dạy. Vì vậy, tôi trân trọng giới thiệu đến Tăng, Ni, Phật tử.
(Xem: 14272)
Nguyên tác Phạn ngữ Abhidharmakośa của Thế Thân, Bản dịch Hán A-tỳ-đạt-ma-câu-xá luận của Huyền Trang - Việt dịch: Đạo Sinh
(Xem: 15960)
Vào khoảng thời gian Phật ngự tại nước Tỳ Xá Ly, gần đến giờ thọ trai Ngài mới vào thành khất thực. Bấy giờ trong thành Tỳ Xá Ly có một chàng ly xa tên là Tỳ La Tứ Na (Dõng Quân).
(Xem: 13628)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp, Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ, Ngã kim kiến văn đắc thọ trì, Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa.
(Xem: 16713)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ Ngã kim kiến văn đắc thọ trì Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa
(Xem: 17403)
Vào khoảng 150 năm sau khi Bụt nhập Niết bàn, đạo Bụt chia thành nhiều bộ phái, kéo dài mấy trăm năm. Thời kỳ này gọi là thời kỳ Đạo Bụt Bộ Phái.
(Xem: 13017)
Nói đến kinh Pháp Hoa, các vị danh Tăng đều hết lòng ca ngợi. Riêng tôi, từ sơ phát tâm đã có nhân duyên đặc biệt đối với bộ kinh này.
(Xem: 12434)
A-hàm có thể đẩy tan những dục vọng phiền não đang thiêu đốt chúng ta và nuôi lớn giới thân tuệ mạng thánh hiền của chúng ta...
(Xem: 11522)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni sanh ở Ấn Độ, nên thuyết pháp đều dùng Phạn ngữ, Kinh điển do người sau kiết tập cũng bằng Phạn văn. Những bổn Kinh Phật bằng Trung văn đều từ Phạn văn mà dịch lại.
(Xem: 11474)
Có rất nhiều công trình thâm cứu có tính cách học giả về tác phẩm nầy dưới dạng Anh ngữ, Nhật ngữ và Hoa ngữ liên quan đến đời sống, khái niệm nồng cốt của tư tưởng Trí Khải Đại Sư trong mối tương quan với Phật giáo Trung Quán
(Xem: 14409)
Luật học hay giới luật học là môn học thuộc về hành môn, nhằm nghiên cứuthực hành về giới luật do đức Phật chế định cho các đệ tử
(Xem: 20260)
Quyển sách “Giáo Trình Phật Học” quý độc giả đang cầm trên tay là được biên dịch ra tiếng Việt từ quyển “Buddhism Course” của tác giả Chan Khoon San.
(Xem: 18817)
Tam Tạng Thánh Điển là bộ sưu tập Văn Chương Pali lớn trong đó tàng chứa toàn bộ Giáo Pháp của Đức Phật Gotama đã tuyên thuyết trong suốt bốn mươi lăm năm từ lúc ngài Giác Ngộ đến khi nhập Niết Bàn.
(Xem: 19421)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18492)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 12108)
Kinh này dịch từ kinh Pháp Ấn của tạng Hán (kinh 104 của tạng kinh Đại Chính) do thầy Thi Hộ dịch vào đầu thế kỷ thứ mười.
(Xem: 12191)
Đại Chánh Tân Tu số 0158 - 8 Quyển: Hán dịch: Mất tên người dịch - Phụ vào dịch phẩm đời Tần; Việt dịch: Linh-Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
(Xem: 13744)
Là Bộ Luật trong hệ thống Luật-Tạng do Bộ Phái Nhất Thiết Hữu thuộc hệ Thượng Tọa Bộ Ấn Độ kiết tập...Đại Tạng No. 1451
(Xem: 14887)
“Triệu Luận” là một bộ luận Phật Giáo do Tăng Triệu, vị học giả Bát nhã học, bậc cao tăng nổi tiếng đời Hậu Tần Trung Quốc, chủ yếu xiển thuật giáo nghĩa Bát nhã Phật Giáo.
(Xem: 14955)
Bộ chú giải này là một trong năm bộ luận giải thích về luật trong Luật bộ thuộc Hán dịch Bắc truyền Đại tạng kinh lưu hành tại Trung quốc và được đưa vào Đại chính tân tu Đại tạng kinh N.1462, tập 24 do Nhật bản biên tập.
(Xem: 13861)
Dịch theo bản in lần thứ nhất của Hoa Tạng Phật Giáo Đồ Thư Quán, Đài Bắc, tháng 2, năm Dân Quốc 81 - 1992
(Xem: 15423)
Hữu Bộ là một trường phái Phật Giáo quan trọng. Nếu không kể Thượng Toạ Bộ (Theravada, Sthaviravada) thì Hữu Bộbộ phái Phật Giáo duy nhất có được một hệ thống giáo lý gần như nguyên thuỷ...
(Xem: 11298)
Tôi nghe như vầy vào khoảng thời gian đức Phật ngự tại tinh xá Kỳ Hoàn thuộc nước Xá Vệ có ngàn vị tỳ theo tăng và mười ngàn đại Bồ tát theo nghe pháp.
(Xem: 17022)
Biện chứng Phá mê Trừ khổ - Prajnaparamita Hrdaya Sutra (Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm kinh); Thi Vũ dịch và chú giải
(Xem: 14829)
Là 2 bản Kinh: Kinh Phật Thuyết A Di Đà No. 366 và Kinh Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ No. 367
(Xem: 20043)
Bát-nhã tâm kinh (prajñāpāramitāhṛdayasūtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát-nhã ba-la-mật (prajñā-pāramitā). Trong bản Hán dịch của Huyền Trang, kinh gồm 262 chữ.
(Xem: 14524)
Như thật tôi nghe một thuở nọ Phật cùng các Tỳ kheo vân tập tại vườn cây của Trưởng giả Cấp cô ĐộcThái tử Kỳ Đà ở nước Xá Vệ.
(Xem: 13748)
Kinh này dịch từ kinh số 301 trong bộ Tạp A Hàm của tạng Hán. Tạp A Hàm là kinh số 99 của tạng kinh Đại Chính.
(Xem: 11631)
Đây là những điều tôi đã được nghe: Hồi ấy, có những vị thượng tọa khất sĩ cùng cư trú tại vườn Lộc Uyển ở Isipatana thành Vārānasi. Đức Thế tôn vừa mới nhập diệt không lâu.
(Xem: 14940)
Kinh Mục Kiền Liên hỏi năm trăm tội khinh trọng trong Giới Luật; Mất tên người dịch sang Hán văn, Thích Nguyên Lộc dịch Việt
(Xem: 12893)
Hán dịch: Hậu Hán, Tam tạng An Thế Cao người nước An Tức; Việt dịch: Tì-kheo Thích Nguyên Chơn.
(Xem: 22751)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434;, dịch Phạn sang Hán: Nguyên Ngụy Thiên Trúc Tam Tạng Cát-ca-dạ; Dịch Hán sang Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ...
(Xem: 14476)
Người giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không. Giảng tại: Tịnh Tông Học Hội Singapore. Người dịch: Vọng Tây cư sĩ. Biên tập: Phật tử Diệu Hương, Phật tử Diệu Hiền
(Xem: 11544)
Kinh này là kinh thứ mười trong Nghĩa Túc Kinh, nhưng lại là kinh thứ mười một trong Atthaka Vagga, kinh tương đương trong tạng Pali.
(Xem: 13078)
Có thể xem đây là "tập sách đầu giường" hay "đôi tay tỳ-kheo"; rất cần thiết cho mỗi vị Tỳ-kheo mang theo bên mình để mỗi ngày mở ra học tụng cho nhuần luật nghi căn bản.
(Xem: 16776)
Không Sát Sanh là giới thứ nhất trong Ngũ Giới. Chúng ta đang sống trong một thế giới bất toàn, mạnh hiếp yếu, lớn hiếp nhỏ, giết chóc tràn lan khắp nơi.
(Xem: 18240)
Kể từ khi đạo Phật truyền vào nước ta, hàng Phật tử tại gia trong bất cứ thời đại nào và hoàn cảnh nào cũng đã có những đóng góp thiết thực trong sứ mạng hộ trìhoằng dương chánh pháp.
(Xem: 11858)
Tạng Luật (Vinayapiṭaka) thuộc về Tam Tạng (Tipiṭaka) là những lời dạy và quy định của đức Phật về các vấn đềliên quan đến cuộc sống...
(Xem: 11413)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, Trưởng lão Māhakassapa (Ma-ha Ca-diếp) triệu tập 500 vị Tỳ-khưu A-la-hán để trùng tụng Pháp và Luật.
(Xem: 15723)
Bồ Tát Long Thọ - Cưu Ma La Thập Hán dịch; Chân Hiền Tâm Việt dịch & Giải thích; Xuất Bản 2007
(Xem: 12789)
Ngài Long Thọ, tác giả Trung Quán Luận và những kinh sách khác, được chư thiền đức xưng tán là Đệ nhị Thích Ca, đã vạch ra thời kỳ chuyển pháp lần thứ hai.
(Xem: 18785)
Vị Tăng, lấy Phật làm tính, lấy Như-Lai làm nhà, lấy Pháp làm thân, lấy Tuệ làm mệnh, lấy Thiền-duyệt làm thức ăn.
(Xem: 18261)
Trong Vi Diệu Pháp cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant