Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Phần 7

12 Tháng Ba 201100:00(Xem: 12693)
Phần 7

KINH BÁCH DỤ
Thích Nữ Như Huyền
Phật Học Viện Quốc Tế Xuất Bản 1996


61. Tạo hình người

Giáo đồ của đạo Bà-la-môn thường tuyên truyền với mọi người rằng: Ðai Phạm Thiên Vương là chú tể tạo ra muôn vật, tất cả muôn vật đều từ kia tạo ra.

Phạm Thiên có một đệ tửý tưởng muốn tạo người, ngày nọ tự mình nắn một hình người kỳ dị: cổ thì nhỏ, đầu thì to, bàn tay rất lớn, mà cánh tay lại nhỏ phi thường, bàn chân nhỏ tí mà gót chân thì lớn kinh người. Y đem hình người ấy đến hỏi Phạm Thiên:

- Thầy xem con tạo hình người nầy nó giống thứ chi?

Phạm Thiên đáp:

- Nó giống một con quỷ!

** Chuyện nầy tỉ dụ: Ngoại đạo thường thường bắt chước lý vô ngại viên dung, hoạt bátcụ thể Phật pháp, nhưng vì bọn họ tu thân không có thức học chân tu, hiểu biết chút ít mà muốn phô trương Phật pháp. Thường thường hình như đúng với Phật pháp mà kỳ thật là sai, trọn thành tà pháp, chấp trước, ngu si, trộm danh dối thể.

Phạm Thiên tạo người chỉ là câu chuyện ngụ ngôn, kỳ thật thân chúng sanh đều do nhân quả nghiệp lực của mọi loài gây tạo, không phải do Phạm Thiên

Phật pháp không chấp trước "hai bên" đã không chấp, "đoạn diệt" cũng không chấp "thường trụ", mà thuyết minh các chúng sanh các pháp đều từ nhân duyên sanh.
 
 
 

62. Ăn thịt

Thuở xưa có một người mắc bệnh trầm trọng, mời vị lương y danh tiếng đến xem mạch.

Lương y bảo:

- Ông nên thường ăn thịt gà con, bệnh sẽ dần dần thuyên giảm.

Người bệnh nghe theo lời lương y, sai người ra mua một con gà con về ăn thịt, y ăn một con rồi không ăn nữa. Lương y đến xem mạch lại cho y, hỏi y sau khi ăn gà con luộc, bịnh tình như thế nào?

Y trả lời:

- Tôi không biết ra sao. Tôi chỉ ăn có một con gà nhỏ, theo tôi tưởng nếm một lần với ăn hoài cũng vậy.

Lương y nói:

- Tại sao ông không ăn nữa? Ông phải ăn luôn mới có thể trị lành, chớ ăn một con làm sao lành được?

** Chuyện nầy tỉ dụ: Người tu học Phật pháp phải thường học rộng hỏi nhiều, tinh tấn thật tiến tu mãi mãi. Phàm phu ngoại đạo, thường chỉ chấp một pháp, hoặc tìm hiểu chút ít rồi thôi, không có tâm bền bỉ, đương nhiên không thể trị được bệnh độc phiền não ngu si.
 
 

63. Chạy trốn

Thuở xưa tại nước Càn Ðà Vệ có một đoàn ca kịch, nhân vì trong nước phát sanh nạn đói hiểm nghèo, bọn họ mới sữa soạn hành lý ra nước ngoài phô diễn. Ðường đi phải trải qua hòn núi Bà La Tan, nghe đồn trong núi có con quỷ la sát, nó thường ăn thịt người; nhưng đến núi thì trời đã tối, không thể lên chợ được, đoàn hát đành phải ngủ lại đó một đêm.

Trên núi gió nhiều càng lúc càng lạnh, bọn họ phải nhúm lửa để hơ, cả bọn đều nằm ngủ bên đống lửa. Trong bọn có một người phát bệnh nóng lạnh không chịu được hơi lạnh bên ngoài, bèn lấy một bộ đồ diễn kịch mặc nhưng lại lấy nhầm bộ đồ diễn lớp quỷ la sát mặc vào, ngồi bên đóng lửa hơ ấm.

Sau đó, một người trong bọn thức dậy, ngốc đầu dòm thấy bên đống lửa có người mặc đồ của quỷ là sát ngồi, sớn sát không chịu xem kỹ lưỡng, tưỡng là quỷ thật ngồi rình, lập tức ba chân bốn giò cắm đầy chạy một mạch, cả bọn nghe ồn ào đều giật mình thức dậy, không rõ đầu đuôi cũng cắm đầy chạy theo. Bây giờ người mặc bộ đồ quỷ la sát thấy cả bọn đồng chạy rất nhanh, không hiểu ất giàp gì cũng chạy theo sau lưng bọn họ. Khi bọn chạy trước vừa chạy vừa nhìn lại sau, thấy phía sau có con quỷ la sát rược theo rất gấp, kinh hoàng phi thường bèn gắng sức chạy như điên, không quản chong gai đã chẳng kể suối sông lạch nguồn, băng chạy trối chết, thân thể cả bọn đều bị thương, tinh thần tán loạn. Bọn họ chạy đến sáng nhìn ngoái lại xem kỹ người mặc đồ la sát chạy theo sau không phải là quỷ thật. Cả bọn hoàn hồn dừng chân lại.

** Chuyện nầy tỉ dụ: Chúng sanh thường ở trong vòng phiễn não buộc ràng, trong rừng "ngã kiến" mê muội. Do đấy ở trong bản tâm thanh tịnh vọng khởi vô minh, lưu chuyển sanh tử, hằng chịu sự khổ nã sợ sệt vô cùng, không phút nào được tự do giải thoát. Nếu như co thể phá trừ được "ngã kiến" mê lầm, tiêu hủy được tạp khí phiền não, "tâm cuồng vọng nếu hết tức là bồ đề", thì ngay nơi nhựt dụng hằng ngày, tâm thể chơn như, thanh tịnh, viên minh, tịch chiếu xưa nay của chúng ta hiển hiện, lại có gì đáng lo sợ hoảng kinh. Chính nghĩa là: "Trong trời đất vốn vô sự, người ngu tự quấy nhiểu mình".
 
 

64. Quỷ trong nhà cũ

Thuở xưa có một cái nhà cũ, không có người ở đã lâu thiên hạ đồn đãi có quỷ ở trong ấy, ai nấy kinh sợ phi thường không dám vào ngủ. Bây giờ có người tự cho mình rất can đảm, tuyên bố với mọi người rằng:

- Tôi không sợ gì cả, chiều nay tôi sẽ vào đó ngũ cho mà coi! Ðến chiều quả thật người ấy đi vào đó ngủ. Người nầy đến nơi chạy vào xô cữa. Người đến trước tưởng là quỷ lại, bèn rinh tấm phên ngăn ngang cửa không cho người kia vào; còn người phía ngoài xô cửa tưởng bên trong nhất định là quỷ, rán sức xô cánh cửa cho bật ra muốn vào đánh nhau với quỷ. Sau đó xô được sấn vào, hai người đánh nhau dữ dội. Ðánh nhau cho đến sáng, hai người nhìn rõ mặt nhau mới biết đều không phải là quỷ, trận ác chiến mới dừng.

** Chuyện nầy tỉ dụ: Trên đời thường có hai đối phương tranh chấp lẫn nhau, ai cũng tự cho mình có lý; kỳ thật cả hai đều là người sai lầm.

Biết không, tất cả sự vật trên thế gian đều do nhân duyên tạm thời hòa hợp sanh khởi; nhơn duyên biệt ly phân tán đều quy về nơi tiêu diệt, bại vong. Phân tẻ cho chín chắn, trong ấy không có một cái gì cố định, bất biến, có thể tự làm chủ tể (ngã) tạo thành? Nhưng người đời phần đông chẳng hiểu đạo lý ấy, ở trong pháp hư vong tụ tán lăng xăng, đua nhau đấu tranh kiên có, dụ như hai người lầm nhau là quỷ ẩu đả với nhau, đều là hạng ngu si đáng thương cả.
 
 

65. Ăn bánh độc

Thuở xưa có một người đàn bà không yêu chồng mà lại có ác cảm. Chị ta đòi ly hôn, nhưng pháp luật không cho phép, lòng rất buồn rầu, trong từng giờ phút tìm phương pháp để mưu hại chồng. Chị ta suy đi nghỉ lại, không có cơ hội thuận tiện ra tay.

Ðến hôm nọ, chồng chị sắp đi ngoại quốc, chị ta chụp ngay cơ hội may, bèn làm năm trăm cái bánh, lén trộn thuốc độc vào trong, bảo chồng mang theo làm thức ăn đỡ dạ trên bước đường thiên lý. Chị ta nói với chồng rằng:

- Anh đi ngoại quốc, lúc nào đói bụng lấy bánh nầy mà ăn.

Người chống không rõ tình cảnh ra sao cả, rất cảm kích lòng tốt của vợ mình, ngậm ngùi từ biệt vợ, sốn sang cất bước phương xa.

Ngày thứ nhất, người kia đi rất khỏe, qua ngọ mà đã đến nước ngoài; vì y không đói bụng, nên không ăn đến một cái bánh mang theo. Ðến tối ngủ trong rừng, y rất sợ dã thú nên leo lên cây nằm ngủ cho yên, bỏ quên năm trăm cái bánh dước gốc cây ấy. Ngay trong đêm ấy giữa rừng sâu, có năm trăm tên cường đạo, ăn cướp năm trăm con ngựa và rất nhiều đồ quý báu của vua nước láng giềng. Bọn họ định đến dưới gốc cây ngủ, vì chạy đường xa nhiều nẻo, nên bụng đói như cào, bỗng nhiêu thấy năm trăm cái bánh dưới gốc cây, chia ra vừa vặn mỗi người một cái không thiếu, không thừa. Cả bọn ăn những mẩu bánh có thuốc ấy, đều chết ngủm dước gốc cây.

Người kia ngủ trên cây đến sáng, sau khi thức dậy trông thấy rất nhiều cường đạo chết nằm la liệt dưới gốc cây. Y bèn cầm con dau bén, đến mỗi tên cường đạo chặt trên thi thể vài dao, giả bộ như y giết chết bọn họ. Sau đó y mới thu lượm bảo vật và ngựa đem đến dân cho vua nước láng giềng mong được lảnh thưởng.

Vua đã đích thân đem một đạo binh di truy tầm cường đạo; đi được nửa đường thì gặp người kia dắt ngựa mang bảo vật đến cho vua.

Vua hỏi:

- Ngươi là ai? Bắt năm trăm con ngựa nầy ở đây vậy?

Người kia trả lời:

- Tôi là người ngoại quốc. Khi tôi đi đường gặp năm trăm tên cường đạo, tôi cùng bọn họ đối địch rất hung hăng, rốt cuộc bọn họ đều bị tôi giết chết, hiện thi thể của họ còn nằm ngổn ngang dước gốc cây. Tôi vội vã dắt ngựa và mang bảo vật đến ra mắt vua, xin vua ban thưởng. Nếu vua không tin thì hãy cùng tôi đến gốc cây xem cho tường tận.

Vua lập tức phái người thân tín đến xem, trở về tâu lại qua y như lời người kia, vua nghe xong vui mừng khắp khởi, cho là việc xưa nay chưa từng có; bèn dắt người kia đồng về kinh thành, ban thưởng cho y rất nhiều quí báu, lại phong cho làm quan tại một địa phương.

Nhưng có một số cựu thần trong nước, đối với y rất tật đố, căm hờn, bèn tâu với vua:

- Người ấy là người nước khác lại, bệ hạ không nên quá tin. Hiện tại bệ hạ quá trọng thưởngưu đãi hơn tất cả cựu thần, điều ấy e chẳng khỏi có chuyện không ổn đáng.

Người kia nghe bọn họ đến trước vua dèm tâu như vậy, nổi giận đùng đùng, bèn lớn tiếng thị oai với bọn họ:

- Như quả ai có sức mạnh phi thường có thể cùng ta đấu võ, thì xin mời lên võ đài giao chiến để thử xem bản lãnh.

Các cựu thần nghe xong lời hâm dọa kinh người, đều không dám lên tiếng. Nhưng qua ngày thứ hai, bọn họ nghĩ ra một kế. Nhân vì trong nước hiện thời, có một cụm rừng hoang vu nguy hiểm, trong ấy có một con sư tử hung ác phi thường, hay chạy lang ra đường vồ người ăn thịt, không ai có thể tiêu trừ mối tai hại ấy, bọn họ bèn tâu với vua:

- Người ngoại quốc ấy đã là người mạnh mẽ sức lực phi thường, không ai địch nổi, giờ đây xin bệ hạ phái y đi giết cho được con sư tử hung ác kia để trừ đại hại cho nước chúng ta.

Vua chấp nhận ý kiến ấy bèn cấp cho y một con đao và một cây côn bảo y đi giết sư tử. Y đã vâng mệnh lệnh của vua, không thể không đi được, bèn can đảm liều lĩnh một phen vào trong rừng rậm để tìm giết sư tử.

Sư tử thấy y đến lập tức rống lên một tiếng kinh hồn, nhảy bổ đến trước mặt, y hoảng hốt vội vã trèo lên cây trốn. Sư tử hả lớn miệng như chậu huyết dòm lên, rồi cất đầu ngó y rống ầm ỹ. Y ở trên cây run sợ muốn phát điên: Con dao đang cầm trong tay rớt xuống dưới gốc cây hồi nào không biết, nhưng nó rớt khéo lạ lùng, rớt ngay vào trong họng con sư tử. Con sư tử bị thương chết liền.

Người kia vui mừng không thể tả, bèn đem thây con sư tử về ra mắt vua. Vua bèn thưởng cho y nhiều gấp bội lúc trước, đa số quần thần đều kính phục y. 

** Trong chuyện nầy bánh bò thuốc độc bỏ dưới gốc cây, thí dụ bố thí không thanh tịnh; giết năm trăm cường đạo dụ như đoạn ngủ dục phiền não chứng được sơ quả Tu Ðã Hoàn. Sau gặp ông vua nước láng giếng dụ như gặp hiền thánh. Cựu thần tật đố mưu hại dụ như ngoại đạo hủy báng và siểm hại hạnh lành. Giết sư tử dụ như chiết phục phiền não, ma oán. Ðược phong thường đại dụ đặng chứng đạo quả.

Chỗ dụng ý chủ yếu trong câu chuyện nầy là nói ra tuy ban đầu không có tịnh tâm, nhưng có lúc nhân bắt tịnh bố thí mà nhờ thiện tri thức giúp đở, có thể gặp được thắng duyên tấn tu đạo quả. Bất tịnh bố thí còn có lúc cũng có thể xuất sanh ra công đức pháp lành. Huống chi ta dùng chánh kiến, thiện tâm, thành ý, hân hoanbố thí, thì xuất sanh công đức lợi lành, đương nhiên là càng thù thắng lợi ích gấp bội.
 
 

66. Chết chìm

Thuở xưa có một người nhà giàu, đem nhiều người xuống biển tìm của báu. Người nhà giàu ấy đã đọc qua rất nhiều sách chỉ cách đi thuyền vượt bể khơi, y nhớ rất kỹ, khoe với mọi người rằng:

- Tình trạng trong biển tôi đều biết. Thí như nói chạm phải đá ngầm, hoặc giả nước biển chảy ngược, trong khi chắc chắn nguy hiểm mười phần, chỉ cần phải cầm cái lái thuyền cho chắc, xem chừng phương hướng cho kỹ càng, kịp thời xoay trở, trong lòng phải luôn luôn bình tỉnh khoan thai, đừng hoảng sợ bối rối thì sẽ được bịnh yên, không có chuyện chi đánh lo ngại. Những phương pháp ấy trong sách có biên chép rõ ràng hiện tại tôi thuôc làu làu không quên một mảy.

Mọi người nghe xong rất tin tưởng nơi y.

Thuyền bọn họ nhổ neo ra giữa biển. Trong thuyền xưa nay vốn có một anh thuyền thưởng chỉ huy, chẳng may ra giữa biển thình lình anh ta mắc bệnh rồi chết. Bây giờ ông nhà giàu kia mới đích thân điều khiển mội việc. Trong lúc thuyền lênh đênh giữa mặt biển, bỗng gặp trận gió to, ba đào chuyển động, khiến chiếc thuyền đảo lộn quay cuồng trong những lần sóng dữ dội không thể tiến tới trước. Mọi người đều nghe ông nhà giàu nói lầm thầm: "Phải nắm chặc mái chèo, phải đổi hướng, phải bình tỉnh". Nhưng trên thực tế y không hiểu chánh xác phải làm cách nào, chẳng biết làm sao đem thuyền ra khỏi cơn sóng gió. Kết quả, sau khi thuyền quay cuống vật lộn với sóng gió một hồi, rồi chìm nhấm xuống đáy biển làm cho mổi người trong thuyền đều bị chết chìm.

** Chuyện nầy tỉ dụ: Có người chỉ hiểu chút ít văn tự, danh tướng, nhưng đối với nghĩa lý và thật pháp không có chổ nhận hiểu chắc chắn tinh tường; chỉ hiểu chút ít, rồi tự ỷ mình thông minh, cho mình là người trí thức sâu rộng, bèn đem văn tự trên sách bướng bỉnh dạy người một cách hỗn loạn. Kết quả chẳng những tự lầm mà đi hại cho mỗi người không ít. Cho nên trong Phật pháp cốt yếu phải từ nơi "Văn tự bát nhả" mà khởi công hạnh "quán chiếu bát nhả" để thực hành. Mỗi chổ đều đem nghĩa lý văn tự của Phật pháp, áp dụng với sự kinh nghiệm hiểu biết thật tế của mình, tiêu dùng và thể hội biến thành sự hiểu biết của chính mình, rồi đem ra áp dụng tu hành một cách thiết thực, mới có chỗ lợi ích chân thật. Một số người học Phật cùng với một số học giả hiện nay dung chút ít văn cú vô dụng mơ hồ, đều là hạng quan niệm sai lầm không khác.
 
 

67. Ðánh cuộc

Thuở xưa có đôi vợ chồng, ngày nọ làm ba cái bánh, mỗi người ăn một cái rồi, còn thừa một cái, hai người đánh cuộc với nhau rằng: Ai muốn ăn cái bánh ấy thì phải không nói một câu; nếu ai nói trước tức là thua cuộc, không được ăn cái bánh còn thừa. Thế rồi hai vợ chồng trọn ngày nín thinh không nói một tiếng. Chợt có tên ăn trộm vào nhà vơ vét hết của tiền đồ đạc, sữa soạn chạy đi, hai vợ chồng vì sợ thua cuộc mất cái bánh, nên cứ lấy con mắt ngó trân trân tên ăn trộm đang vơ vét đồ đạc trong nhà mà không ai nói một tiếng. Tên ăn trộm thấy vậy càng dạn dĩ thêm lên thậm chí muốn xâm phạm đến tiết hạnh người vợ, mà người chồng vẫn đứng xem, không nói một lời. Người vợ đang khi hoảng hốt kêu ầm ỹ:

- Anh thật là ngu, vì một cái bánh mà để cho quân ăn trộm làm nhục tôi quá đỗi, không mỡ miệng nói một lời?

Người chồng bèn vỗ tay cười lớn:

- Ha, ha! Em đã khai khẩu nói trước, thế là thua anh mất rồi, cái bánh về anh ăn. Thích quá!

** Chuyện nầy tỉ dụ: Người đời vì tham trước chút danh lợithế gian, thường thường tán mất sự lợi ích rộng lớn của pháp lành và Phật pháp. Người trí thấy thế, cho là hạng ngu si đáng thương, giống như người chồng ngu kia không khác.
 
 

68. Hại người thành hại mình

Thuở xưa có một người thù địch với một người khác, anh nghĩ không ra phương pháp báo thù, cứ uất ức trong lòng mãi không lúc nào vui. Có người hỏi:

- Anh vì sao uất ức buồn rầu?

Anh trả lời:

- Có một ngùi thường hay nói xấu tôi thậm tệ, tôi tức giận vô cùng, tôi hằng nghĩ cách báo phục mối thâm thù ấy, nhưng nghĩ mãi không ra, cho nên tôi tức giận và khổ buồn vô hạn.

Người kia nói:

- Chỉ cần đọc một câu chú bí mật kêu là Tỳ Ðà La có thể giết người kia chết tức khắc. Nhưng trì chú nầy sẽ có một triệu chứng nguy hiểm, nghĩa là sau khi trị xong thì chính thân anh phải chết trước. Tôi nhận thấy tốt hơn anh đứng trì, thì khỏi bị thảm cảnh người thù chưa hại mà chính thân anh đã bị hại rồi.

Người kia nghe thế không cần tính toán, suy nghĩ, vui vẻ phi thường:

- Xin ông làm ơn dạy tôi câu chú ấy, tâm muốn báo thù của tôi mảnh liệt vô cùng, miển sao kẻ thù của tôi có thể chết, dù thân tôi có chết trước tôi cũng vui lòng.

** Chuyện nầy tỉ dụ: Tánh sân giận kết oán gây thù, tai hại không ít, muốn hại người, thường thường chưa bị hại mà trước đã hại mình; có một ít người vì lòng sân hận sai khiến, hủy hoại thân mình một cách đáng thương. Bọn họ bị lòng sân dẩn dắt, luống đưa mình vào con đường hại mình hại người vô cùng bi thảm, trầm luân vĩnh kiếp không thôi! Chỉ cần mau mau phân tỉnh dùng pháp từ bi thanh tịnh hòa bình để sửa đổi trị thân tâm, khiến cho mình và người đều được an lạc, mới phù hợp với đạo giải thoát, chơn thường.
 
 

69. Tổ truyền ăn mau

Thuở xưa có một người ở phía nam Ấn độ, chính gốc của anh từ bắc Ấn độ lại, vì ở lâu nên cưới vợ miền Nam. Một hôm vợ anh dọn cơm trên bàn; không quản cơm canh nói hổi, anh há miệng lớn lùa húp rất mau, giống như người gần chết đói được thức ăn không khác. Vợ anh th61y thế làm lạ vô cùng, bèn hỏi:

- Không có ai lại dành ăn với anh, cũng không có chuyện gì gấp, tại sao anh không chậm rãi ăn, mà lại ăn mau thế?

Anh trả lời:

- Bí mật lắm! Anh không nói cho em biết đâu. 

Chị vợ nghe thế rồi, cho là nhất địnhlý dođặc biệt lắm, bèn ân cần năn nĩ anh nói ra. 

Ban đầu anh không chịu nói, chị vợ kì kèo hoài anh mới chịu nói:

- Tổ tiên của anh nhiều đời đều ăn như vậy, do đó đến đời anh, anh cũng phải y như thế không dám cãi đổi.

** Chuyện nầy tỉ dụ: Có một ít người thủ cựu, thường thường không chịu biện biệt lành dử, lợi hại thế nào, chỉ một bế chấp chặt thói quen mê lầm, tà vạy; dương dương tự đắc không biết lỗi mình, không biết xấu hổ, lại cùng không biết cải chánh xả tà. Có ai giúp ý kiến hay khuyên lơn, họ đã không nghe lời phải mà còn trở lại nói đó là sự truyền thống hay ho, phải nên bảo thủ.
 
 

70. Nếm trái tần bà

Thuở xưa có người muốn ăn trái tần bà, bèn sai người làm công đến vườn mua cho được, và dặn rằng:

- Người xem có ngọt thì mua, bằng không ngọt thì đừng mua nhe!

Người làm công mang tiền đến trong vườn trái cây mua.

Người chủ vười nói:

- Tần bà của tôi trái nào cũng ngọt, không có trái nào dở, xin ông hãy nếm thử sẽ biết.

Anh ta nói: 

- Tôi nếm thử một trái, làm sao biết được các trái kia, tôi xin nếm từng trái, hể nếm trái nào thì sẽ mua trái ấy, như thế chắc chắn hơn.

Nói xong anh ta tự tay hái trái tần bà, hể hái một trái thì cắn nếm một miếng. Chủ vườn thấy thế không nói gì cả. Quả thật trái nào cũng ngọt không sai; anh ta mua đem về cho chủ. Người chủ thấy trái nào cũng bị cắn dở, không những hết muốn ăn mà lại gớm vô cùng, buồn nôn muốn mửa, do đó không ăn được một trái, bao nhiêu trái tần bà đều quăng.

** Chuyện nầy tỉ dụ: Có một người nghe nói bố thí, trì giới, sẽ được giàu sang, tâm thường an ổn, không bị hoạn nạn tai ương; nhưng không chịu tin là thật, muốn chính mình chứng nghiệm cho rõ ràng. Kết quả tự mình mất cơ hội. Nên biết rằng mọi việc trên đời đều do nhơn đời quá khứ cảm triệu hình thành quả. Bọn họ không chịu từ lý nhân quả, khảo xét cho rõ ràng, chạm việc đều thông suốt, đem một việc mà tỉ lệ nhiều, hiểu rỏ đạo lý nhân quá, tiến tới tu học Phật pháp, tô bồi phước huệ căn lành. Trở lại cố chấp: "Cần yếu mỗi việc chính mình phải thân chứng, mới tin". Cứ phó mặc thời gian trôi qua, một mai gần chết, tất cả đều xe bỏ tan tành, sau ăn năn không kịp!


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11620)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11929)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11098)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11331)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 12058)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12548)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10756)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 17967)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11717)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9937)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10165)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12342)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15330)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11228)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14318)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12088)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15340)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 11988)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12388)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11153)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12073)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10598)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12548)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13153)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14796)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12661)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16539)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19631)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13100)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12648)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12247)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11830)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10886)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13488)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11937)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11834)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11622)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12753)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14498)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12589)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15653)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13603)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12885)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9854)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 18002)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11151)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 9063)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12168)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 13033)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10288)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12176)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15287)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16582)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12201)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11459)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14261)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19682)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14137)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24584)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10676)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant