Thích Nữ Như Huyền
Phật Học Viện Quốc Tế Xuất Bản 1996
61. Tạo hình người
Giáo đồ của đạo Bà-la-môn thường tuyên truyền với mọi người rằng: Ðai Phạm Thiên Vương là chú tể tạo ra muôn vật, tất cả muôn vật đều từ kia tạo ra.
Phạm Thiên có một đệ tử có ý tưởng muốn tạo người, ngày nọ tự mình nắn một hình người kỳ dị: cổ thì nhỏ, đầu thì to, bàn tay rất lớn, mà cánh tay lại nhỏ phi thường, bàn chân nhỏ tí mà gót chân thì lớn kinh người. Y đem hình người ấy đến hỏi Phạm Thiên:
- Thầy xem con tạo hình người nầy nó giống thứ chi?
Phạm Thiên đáp:
- Nó giống một con quỷ!
** Chuyện nầy tỉ dụ: Ngoại đạo thường thường bắt chước lý vô ngại viên dung, hoạt bát mà cụ thể Phật pháp, nhưng vì bọn họ tu thân không có thức học chân tu, hiểu biết chút ít mà muốn phô trương Phật pháp. Thường thường hình như đúng với Phật pháp mà kỳ thật là sai, trọn thành tà pháp, chấp trước, ngu si, trộm danh dối thể.
Phạm Thiên tạo người chỉ là câu chuyện ngụ ngôn, kỳ thật thân chúng sanh đều do nhân quả nghiệp lực của mọi loài gây tạo, không phải do Phạm Thiên.
Phật
pháp không chấp trước "hai bên" đã không chấp, "đoạn diệt"
cũng không chấp "thường trụ", mà thuyết minh các chúng sanh
các pháp đều từ nhân duyên sanh.
Thuở xưa có một người mắc bệnh trầm trọng, mời vị lương y danh tiếng đến xem mạch.
Lương y bảo:
- Ông nên thường ăn thịt gà con, bệnh sẽ dần dần thuyên giảm.
Người bệnh nghe theo lời lương y, sai người ra mua một con gà con về ăn thịt, y ăn một con rồi không ăn nữa. Lương y đến xem mạch lại cho y, hỏi y sau khi ăn gà con luộc, bịnh tình như thế nào?
Y trả lời:
- Tôi không biết ra sao. Tôi chỉ ăn có một con gà nhỏ, theo tôi tưởng nếm một lần với ăn hoài cũng vậy.
Lương y nói:
- Tại sao ông không ăn nữa? Ông phải ăn luôn mới có thể trị lành, chớ ăn một con làm sao lành được?
**
Chuyện nầy tỉ dụ: Người tu học Phật pháp phải thường
học rộng hỏi nhiều, tinh tấn thật tiến tu mãi mãi. Phàm
phu ngoại đạo, thường chỉ chấp một pháp, hoặc tìm hiểu
chút ít rồi thôi, không có tâm bền bỉ, đương nhiên không
thể trị được bệnh độc phiền não ngu si.
Thuở xưa tại nước Càn Ðà Vệ có một đoàn ca kịch, nhân vì trong nước phát sanh nạn đói hiểm nghèo, bọn họ mới sữa soạn hành lý ra nước ngoài phô diễn. Ðường đi phải trải qua hòn núi Bà La Tan, nghe đồn trong núi có con quỷ la sát, nó thường ăn thịt người; nhưng đến núi thì trời đã tối, không thể lên chợ được, đoàn hát đành phải ngủ lại đó một đêm.
Trên núi gió nhiều càng lúc càng lạnh, bọn họ phải nhúm lửa để hơ, cả bọn đều nằm ngủ bên đống lửa. Trong bọn có một người phát bệnh nóng lạnh không chịu được hơi lạnh bên ngoài, bèn lấy một bộ đồ diễn kịch mặc nhưng lại lấy nhầm bộ đồ diễn lớp quỷ la sát mặc vào, ngồi bên đóng lửa hơ ấm.
Sau đó, một người trong bọn thức dậy, ngốc đầu dòm thấy bên đống lửa có người mặc đồ của quỷ là sát ngồi, sớn sát không chịu xem kỹ lưỡng, tưỡng là quỷ thật ngồi rình, lập tức ba chân bốn giò cắm đầy chạy một mạch, cả bọn nghe ồn ào đều giật mình thức dậy, không rõ đầu đuôi cũng cắm đầy chạy theo. Bây giờ người mặc bộ đồ quỷ la sát thấy cả bọn đồng chạy rất nhanh, không hiểu ất giàp gì cũng chạy theo sau lưng bọn họ. Khi bọn chạy trước vừa chạy vừa nhìn lại sau, thấy phía sau có con quỷ la sát rược theo rất gấp, kinh hoàng phi thường bèn gắng sức chạy như điên, không quản chong gai đã chẳng kể suối sông lạch nguồn, băng chạy trối chết, thân thể cả bọn đều bị thương, tinh thần tán loạn. Bọn họ chạy đến sáng nhìn ngoái lại xem kỹ người mặc đồ la sát chạy theo sau không phải là quỷ thật. Cả bọn hoàn hồn dừng chân lại.
**
Chuyện nầy tỉ dụ: Chúng sanh thường ở trong vòng phiễn
não buộc ràng, trong rừng "ngã kiến" mê muội. Do đấy ở
trong bản tâm thanh tịnh vọng khởi vô minh, lưu chuyển sanh
tử, hằng chịu sự khổ nã sợ sệt vô cùng, không phút nào
được tự do giải thoát. Nếu như co thể phá trừ được
"ngã kiến" mê lầm, tiêu hủy được tạp khí phiền não,
"tâm cuồng vọng nếu hết tức là bồ đề", thì ngay nơi
nhựt dụng hằng ngày, tâm thể chơn như, thanh tịnh, viên
minh, tịch chiếu xưa nay của chúng ta hiển hiện, lại có
gì đáng lo sợ hoảng kinh. Chính nghĩa là: "Trong trời đất
vốn vô sự, người ngu tự quấy nhiểu mình".
Thuở xưa có một cái nhà cũ, không có người ở đã lâu thiên hạ đồn đãi có quỷ ở trong ấy, ai nấy kinh sợ phi thường không dám vào ngủ. Bây giờ có người tự cho mình rất can đảm, tuyên bố với mọi người rằng:
- Tôi không sợ gì cả, chiều nay tôi sẽ vào đó ngũ cho mà coi! Ðến chiều quả thật người ấy đi vào đó ngủ. Người nầy đến nơi chạy vào xô cữa. Người đến trước tưởng là quỷ lại, bèn rinh tấm phên ngăn ngang cửa không cho người kia vào; còn người phía ngoài xô cửa tưởng bên trong nhất định là quỷ, rán sức xô cánh cửa cho bật ra muốn vào đánh nhau với quỷ. Sau đó xô được sấn vào, hai người đánh nhau dữ dội. Ðánh nhau cho đến sáng, hai người nhìn rõ mặt nhau mới biết đều không phải là quỷ, trận ác chiến mới dừng.
** Chuyện nầy tỉ dụ: Trên đời thường có hai đối phương tranh chấp lẫn nhau, ai cũng tự cho mình có lý; kỳ thật cả hai đều là người sai lầm.
Biết
không, tất cả sự vật trên thế gian đều do nhân duyên tạm
thời hòa hợp sanh khởi; nhơn duyên biệt ly phân tán đều
quy về nơi tiêu diệt, bại vong. Phân tẻ cho chín chắn, trong
ấy không có một cái gì cố định, bất biến, có thể tự
làm chủ tể (ngã) tạo thành? Nhưng người đời phần đông
chẳng hiểu đạo lý ấy, ở trong pháp hư vong tụ tán lăng
xăng, đua nhau đấu tranh kiên có, dụ như hai người lầm nhau
là quỷ ẩu đả với nhau, đều là hạng ngu si đáng thương
cả.
Thuở xưa có một người đàn bà không yêu chồng mà lại có ác cảm. Chị ta đòi ly hôn, nhưng pháp luật không cho phép, lòng rất buồn rầu, trong từng giờ phút tìm phương pháp để mưu hại chồng. Chị ta suy đi nghỉ lại, không có cơ hội thuận tiện ra tay.
Ðến hôm nọ, chồng chị sắp đi ngoại quốc, chị ta chụp ngay cơ hội may, bèn làm năm trăm cái bánh, lén trộn thuốc độc vào trong, bảo chồng mang theo làm thức ăn đỡ dạ trên bước đường thiên lý. Chị ta nói với chồng rằng:
- Anh đi ngoại quốc, lúc nào đói bụng lấy bánh nầy mà ăn.
Người chống không rõ tình cảnh ra sao cả, rất cảm kích lòng tốt của vợ mình, ngậm ngùi từ biệt vợ, sốn sang cất bước phương xa.
Ngày thứ nhất, người kia đi rất khỏe, qua ngọ mà đã đến nước ngoài; vì y không đói bụng, nên không ăn đến một cái bánh mang theo. Ðến tối ngủ trong rừng, y rất sợ dã thú nên leo lên cây nằm ngủ cho yên, bỏ quên năm trăm cái bánh dước gốc cây ấy. Ngay trong đêm ấy giữa rừng sâu, có năm trăm tên cường đạo, ăn cướp năm trăm con ngựa và rất nhiều đồ quý báu của vua nước láng giềng. Bọn họ định đến dưới gốc cây ngủ, vì chạy đường xa nhiều nẻo, nên bụng đói như cào, bỗng nhiêu thấy năm trăm cái bánh dưới gốc cây, chia ra vừa vặn mỗi người một cái không thiếu, không thừa. Cả bọn ăn những mẩu bánh có thuốc ấy, đều chết ngủm dước gốc cây.
Người kia ngủ trên cây đến sáng, sau khi thức dậy trông thấy rất nhiều cường đạo chết nằm la liệt dưới gốc cây. Y bèn cầm con dau bén, đến mỗi tên cường đạo chặt trên thi thể vài dao, giả bộ như y giết chết bọn họ. Sau đó y mới thu lượm bảo vật và ngựa đem đến dân cho vua nước láng giềng mong được lảnh thưởng.
Vua đã đích thân đem một đạo binh di truy tầm cường đạo; đi được nửa đường thì gặp người kia dắt ngựa mang bảo vật đến cho vua.
Vua hỏi:
- Ngươi là ai? Bắt năm trăm con ngựa nầy ở đây vậy?
Người kia trả lời:
- Tôi là người ngoại quốc. Khi tôi đi đường gặp năm trăm tên cường đạo, tôi cùng bọn họ đối địch rất hung hăng, rốt cuộc bọn họ đều bị tôi giết chết, hiện thi thể của họ còn nằm ngổn ngang dước gốc cây. Tôi vội vã dắt ngựa và mang bảo vật đến ra mắt vua, xin vua ban thưởng. Nếu vua không tin thì hãy cùng tôi đến gốc cây xem cho tường tận.
Vua lập tức phái người thân tín đến xem, trở về tâu lại qua y như lời người kia, vua nghe xong vui mừng khắp khởi, cho là việc xưa nay chưa từng có; bèn dắt người kia đồng về kinh thành, ban thưởng cho y rất nhiều quí báu, lại phong cho làm quan tại một địa phương.
Nhưng có một số cựu thần trong nước, đối với y rất tật đố, căm hờn, bèn tâu với vua:
- Người ấy là người nước khác lại, bệ hạ không nên quá tin. Hiện tại bệ hạ quá trọng thưởng và ưu đãi hơn tất cả cựu thần, điều ấy e chẳng khỏi có chuyện không ổn đáng.
Người kia nghe bọn họ đến trước vua dèm tâu như vậy, nổi giận đùng đùng, bèn lớn tiếng thị oai với bọn họ:
- Như quả ai có sức mạnh phi thường có thể cùng ta đấu võ, thì xin mời lên võ đài giao chiến để thử xem bản lãnh.
Các cựu thần nghe xong lời hâm dọa kinh người, đều không dám lên tiếng. Nhưng qua ngày thứ hai, bọn họ nghĩ ra một kế. Nhân vì trong nước hiện thời, có một cụm rừng hoang vu nguy hiểm, trong ấy có một con sư tử hung ác phi thường, hay chạy lang ra đường vồ người ăn thịt, không ai có thể tiêu trừ mối tai hại ấy, bọn họ bèn tâu với vua:
- Người ngoại quốc ấy đã là người mạnh mẽ sức lực phi thường, không ai địch nổi, giờ đây xin bệ hạ phái y đi giết cho được con sư tử hung ác kia để trừ đại hại cho nước chúng ta.
Vua chấp nhận ý kiến ấy bèn cấp cho y một con đao và một cây côn bảo y đi giết sư tử. Y đã vâng mệnh lệnh của vua, không thể không đi được, bèn can đảm liều lĩnh một phen vào trong rừng rậm để tìm giết sư tử.
Sư tử thấy y đến lập tức rống lên một tiếng kinh hồn, nhảy bổ đến trước mặt, y hoảng hốt vội vã trèo lên cây trốn. Sư tử hả lớn miệng như chậu huyết dòm lên, rồi cất đầu ngó y rống ầm ỹ. Y ở trên cây run sợ muốn phát điên: Con dao đang cầm trong tay rớt xuống dưới gốc cây hồi nào không biết, nhưng nó rớt khéo lạ lùng, rớt ngay vào trong họng con sư tử. Con sư tử bị thương chết liền.
Người kia vui mừng không thể tả, bèn đem thây con sư tử về ra mắt vua. Vua bèn thưởng cho y nhiều gấp bội lúc trước, đa số quần thần đều kính phục y.
** Trong chuyện nầy bánh bò thuốc độc bỏ dưới gốc cây, thí dụ bố thí không thanh tịnh; giết năm trăm cường đạo dụ như đoạn ngủ dục phiền não chứng được sơ quả Tu Ðã Hoàn. Sau gặp ông vua nước láng giếng dụ như gặp hiền thánh. Cựu thần tật đố mưu hại dụ như ngoại đạo hủy báng và siểm hại hạnh lành. Giết sư tử dụ như chiết phục phiền não, ma oán. Ðược phong thường đại dụ đặng chứng đạo quả.
Chỗ
dụng ý chủ yếu trong câu chuyện nầy là nói ra tuy ban đầu
không có tịnh tâm, nhưng có lúc nhân bắt tịnh bố thí mà
nhờ thiện tri thức giúp đở, có thể gặp được thắng
duyên tấn tu đạo quả. Bất tịnh bố thí còn có lúc cũng
có thể xuất sanh ra công đức pháp lành. Huống chi ta dùng
chánh kiến, thiện tâm, thành ý, hân hoan mà bố thí, thì xuất
sanh công đức lợi lành, đương nhiên là càng thù thắng lợi
ích gấp bội.
Thuở xưa có một người nhà giàu, đem nhiều người xuống biển tìm của báu. Người nhà giàu ấy đã đọc qua rất nhiều sách chỉ cách đi thuyền vượt bể khơi, y nhớ rất kỹ, khoe với mọi người rằng:
- Tình trạng trong biển tôi đều biết. Thí như nói chạm phải đá ngầm, hoặc giả nước biển chảy ngược, trong khi chắc chắn nguy hiểm mười phần, chỉ cần phải cầm cái lái thuyền cho chắc, xem chừng phương hướng cho kỹ càng, kịp thời xoay trở, trong lòng phải luôn luôn bình tỉnh khoan thai, đừng hoảng sợ bối rối thì sẽ được bịnh yên, không có chuyện chi đánh lo ngại. Những phương pháp ấy trong sách có biên chép rõ ràng hiện tại tôi thuôc làu làu không quên một mảy.
Mọi người nghe xong rất tin tưởng nơi y.
Thuyền bọn họ nhổ neo ra giữa biển. Trong thuyền xưa nay vốn có một anh thuyền thưởng chỉ huy, chẳng may ra giữa biển thình lình anh ta mắc bệnh rồi chết. Bây giờ ông nhà giàu kia mới đích thân điều khiển mội việc. Trong lúc thuyền lênh đênh giữa mặt biển, bỗng gặp trận gió to, ba đào chuyển động, khiến chiếc thuyền đảo lộn quay cuồng trong những lần sóng dữ dội không thể tiến tới trước. Mọi người đều nghe ông nhà giàu nói lầm thầm: "Phải nắm chặc mái chèo, phải đổi hướng, phải bình tỉnh". Nhưng trên thực tế y không hiểu chánh xác phải làm cách nào, chẳng biết làm sao đem thuyền ra khỏi cơn sóng gió. Kết quả, sau khi thuyền quay cuống vật lộn với sóng gió một hồi, rồi chìm nhấm xuống đáy biển làm cho mổi người trong thuyền đều bị chết chìm.
**
Chuyện nầy tỉ dụ: Có người chỉ hiểu chút ít văn tự,
danh tướng, nhưng đối với nghĩa lý và thật pháp không có
chổ nhận hiểu chắc chắn tinh tường; chỉ hiểu chút ít,
rồi tự ỷ mình thông minh, cho mình là người trí thức sâu
rộng, bèn đem văn tự trên sách bướng bỉnh dạy người
một cách hỗn loạn. Kết quả chẳng những tự lầm mà đi
hại cho mỗi người không ít. Cho nên trong Phật pháp cốt
yếu phải từ nơi "Văn tự bát nhả" mà khởi công hạnh "quán
chiếu bát nhả" để thực hành. Mỗi chổ đều đem nghĩa
lý văn tự của Phật pháp, áp dụng với sự kinh nghiệm hiểu
biết thật tế của mình, tiêu dùng và thể hội biến thành
sự hiểu biết của chính mình, rồi đem ra áp dụng tu hành
một cách thiết thực, mới có chỗ lợi ích chân thật. Một
số người học Phật cùng với một số học giả hiện nay
dung chút ít văn cú vô dụng mơ hồ, đều là hạng quan niệm
sai lầm không khác.
Thuở xưa có đôi vợ chồng, ngày nọ làm ba cái bánh, mỗi người ăn một cái rồi, còn thừa một cái, hai người đánh cuộc với nhau rằng: Ai muốn ăn cái bánh ấy thì phải không nói một câu; nếu ai nói trước tức là thua cuộc, không được ăn cái bánh còn thừa. Thế rồi hai vợ chồng trọn ngày nín thinh không nói một tiếng. Chợt có tên ăn trộm vào nhà vơ vét hết của tiền đồ đạc, sữa soạn chạy đi, hai vợ chồng vì sợ thua cuộc mất cái bánh, nên cứ lấy con mắt ngó trân trân tên ăn trộm đang vơ vét đồ đạc trong nhà mà không ai nói một tiếng. Tên ăn trộm thấy vậy càng dạn dĩ thêm lên thậm chí muốn xâm phạm đến tiết hạnh người vợ, mà người chồng vẫn đứng xem, không nói một lời. Người vợ đang khi hoảng hốt kêu ầm ỹ:
- Anh thật là ngu, vì một cái bánh mà để cho quân ăn trộm làm nhục tôi quá đỗi, không mỡ miệng nói một lời?
Người chồng bèn vỗ tay cười lớn:
- Ha, ha! Em đã khai khẩu nói trước, thế là thua anh mất rồi, cái bánh về anh ăn. Thích quá!
**
Chuyện nầy tỉ dụ: Người đời vì tham trước chút danh
lợi ở thế gian, thường thường tán mất sự lợi ích rộng
lớn của pháp lành và Phật pháp. Người trí thấy thế, cho
là hạng ngu si đáng thương, giống như người chồng ngu kia
không khác.
Thuở xưa có một người thù địch với một người khác, anh nghĩ không ra phương pháp báo thù, cứ uất ức trong lòng mãi không lúc nào vui. Có người hỏi:
- Anh vì sao uất ức buồn rầu?
Anh trả lời:
- Có một ngùi thường hay nói xấu tôi thậm tệ, tôi tức giận vô cùng, tôi hằng nghĩ cách báo phục mối thâm thù ấy, nhưng nghĩ mãi không ra, cho nên tôi tức giận và khổ buồn vô hạn.
Người kia nói:
- Chỉ cần đọc một câu chú bí mật kêu là Tỳ Ðà La có thể giết người kia chết tức khắc. Nhưng trì chú nầy sẽ có một triệu chứng nguy hiểm, nghĩa là sau khi trị xong thì chính thân anh phải chết trước. Tôi nhận thấy tốt hơn anh đứng trì, thì khỏi bị thảm cảnh người thù chưa hại mà chính thân anh đã bị hại rồi.
Người kia nghe thế không cần tính toán, suy nghĩ, vui vẻ phi thường:
- Xin ông làm ơn dạy tôi câu chú ấy, tâm muốn báo thù của tôi mảnh liệt vô cùng, miển sao kẻ thù của tôi có thể chết, dù thân tôi có chết trước tôi cũng vui lòng.
**
Chuyện nầy tỉ dụ: Tánh sân giận kết oán gây thù, tai hại
không ít, muốn hại người, thường thường chưa bị hại
mà trước đã hại mình; có một ít người vì lòng sân hận
sai khiến, hủy hoại thân mình một cách đáng thương. Bọn
họ bị lòng sân dẩn dắt, luống đưa mình vào con đường
hại mình hại người vô cùng bi thảm, trầm luân vĩnh kiếp
không thôi! Chỉ cần mau mau phân tỉnh dùng pháp từ bi thanh
tịnh hòa bình để sửa đổi trị thân tâm, khiến cho mình
và người đều được an lạc, mới phù hợp với đạo giải
thoát, chơn thường.
Thuở xưa có một người ở phía nam Ấn độ, chính gốc của anh từ bắc Ấn độ lại, vì ở lâu nên cưới vợ miền Nam. Một hôm vợ anh dọn cơm trên bàn; không quản cơm canh nói hổi, anh há miệng lớn lùa húp rất mau, giống như người gần chết đói được thức ăn không khác. Vợ anh th61y thế làm lạ vô cùng, bèn hỏi:
- Không có ai lại dành ăn với anh, cũng không có chuyện gì gấp, tại sao anh không chậm rãi ăn, mà lại ăn mau thế?
Anh trả lời:
- Bí mật lắm! Anh không nói cho em biết đâu.
Chị vợ nghe thế rồi, cho là nhất định có lý do gì đặc biệt lắm, bèn ân cần năn nĩ anh nói ra.
Ban đầu anh không chịu nói, chị vợ kì kèo hoài anh mới chịu nói:
- Tổ tiên của anh nhiều đời đều ăn như vậy, do đó đến đời anh, anh cũng phải y như thế không dám cãi đổi.
**
Chuyện nầy tỉ dụ: Có một ít người thủ cựu, thường
thường không chịu biện biệt lành dử, lợi hại thế nào,
chỉ một bế chấp chặt thói quen mê lầm, tà vạy; dương
dương tự đắc không biết lỗi mình, không biết xấu hổ,
lại cùng không biết cải chánh xả tà. Có ai giúp ý kiến
hay khuyên lơn, họ đã không nghe lời phải mà còn trở lại
nói đó là sự truyền thống hay ho, phải nên bảo thủ.
Thuở xưa có người muốn ăn trái tần bà, bèn sai người làm công đến vườn mua cho được, và dặn rằng:
- Người xem có ngọt thì mua, bằng không ngọt thì đừng mua nhe!
Người làm công mang tiền đến trong vườn trái cây mua.
Người chủ vười nói:
- Tần bà của tôi trái nào cũng ngọt, không có trái nào dở, xin ông hãy nếm thử sẽ biết.
Anh ta nói:
- Tôi nếm thử một trái, làm sao biết được các trái kia, tôi xin nếm từng trái, hể nếm trái nào thì sẽ mua trái ấy, như thế chắc chắn hơn.
Nói xong anh ta tự tay hái trái tần bà, hể hái một trái thì cắn nếm một miếng. Chủ vườn thấy thế không nói gì cả. Quả thật trái nào cũng ngọt không sai; anh ta mua đem về cho chủ. Người chủ thấy trái nào cũng bị cắn dở, không những hết muốn ăn mà lại gớm vô cùng, buồn nôn muốn mửa, do đó không ăn được một trái, bao nhiêu trái tần bà đều quăng.
** Chuyện nầy tỉ dụ: Có một người nghe nói bố thí, trì giới, sẽ được giàu sang, tâm thường an ổn, không bị hoạn nạn tai ương; nhưng không chịu tin là thật, muốn chính mình chứng nghiệm cho rõ ràng. Kết quả tự mình mất cơ hội. Nên biết rằng mọi việc trên đời đều do nhơn đời quá khứ cảm triệu hình thành quả. Bọn họ không chịu từ lý nhân quả, khảo xét cho rõ ràng, chạm việc đều thông suốt, đem một việc mà tỉ lệ nhiều, hiểu rỏ đạo lý nhân quá, tiến tới tu học Phật pháp, tô bồi phước huệ căn lành. Trở lại cố chấp: "Cần yếu mỗi việc chính mình phải thân chứng, mới tin". Cứ phó mặc thời gian trôi qua, một mai gần chết, tất cả đều xe bỏ tan tành, sau ăn năn không kịp!