Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

07. Chương Thanh Tịnh Tuệ

12 Tháng Ba 201100:00(Xem: 8201)
07. Chương Thanh Tịnh Tuệ

KINH VIÊN GIÁC LUẬN GIẢNG
Thích Thông Huệ
Nhà xuất bản Tôn Giáo, Hà Nội 2006

Chánh văn và Lược giải

VII- CHƯƠNG THANH TỊNH HUỆ 

Lúc bấy giờ, Bồ tát Thanh Tịnh Huệ ở trong đại chúng, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ dưới chân Phật, nhiễu bên phải ba vòng, quỳ dài chắp taybạch Phật rằng: “Đức Đại bi Thế Tôn! Ngài đã vì chúng con mà rộng nói những điều bất tư nghì như thế, là điều chưa từng thấy, là điều chưa từng nghe. Chúng con hôm nay nhờ Phật khéo dạy bảothân tâm cảm thấy thơ thới, được nhiều lợi ích. Nguyện Ngài vì tất cả pháp chúng đến trong pháp hội này, trùng tuyên lại tánh Viên mãn giác Pháp Vương của tất cả chúng sanh, của các bậc Bồ tát và của Như Lai Thế Tôn đã chứng đã đắc, khác nhau như thế nào; khiến cho chúng sanh đời mạt pháp, khi nghe được Thánh giáo này mà tùy thuận khai ngộ thứ lớp chứng nhập”. Nói xong, năm vóc gieo xuống đất, thỉnh đi thỉnh lại từ đầu đến cuối như vậy ba lần.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo Bồ tát Thanh Tịnh Huệ rằng: “Lành thay! Lành thay! Này Thiện nam tử! Các ông mới có thể vì chúng sanh đời mạt pháp, thưa hỏi Như Lai về tiệm thứ sai biệt. Nay ông hãy lắng nghe, ta sẽ vì ông mà nói”. Khi ấy, Bồ tát Thanh Tịnh Huệ vui mừng vâng theo lời dạy của Phật, cùng cả đại chúng chú tâm mà nghe.

“Này Thiện nam tử! Tự tánh Viên Giác chẳng phải là tánh, mà tánh vẫn có, theo các tánh khởi, không thủ không chứng. Ở trong thật tướng, thật khôngBồ tátchúng sanh

Vì cớ sao? - Vì Bồ tátchúng sanh đều là huyễn hóa. Khi huyễn hóa diệt, không còn người thủ chứng. Thí như con mắt không tự thấy con mắt, tánh tự bình đẳng, không có người bình đẳng. Bởi vì chúng sanh mê mờ điên đảo, chưa thể trừ diệt tất cả huyễn hóa, ở trong công dụng hư vọng đối với cái đã diệt và cái chưa diệt mà liền có sự sai biệt. Nếu đạt được chỗ tùy thuận tịch diệt của Như Lai, thì thật khôngtịch diệt và người tịch diệt.

Này Thiện nam tử! Tất cả chúng sanh từ vô thỉ kiếp đến nay, do vọng tưởng về ngã và ái ngã, từng không tự biết niệm niệm sanh diệt, nên khởi ra sự yêu ghét, đam mê ngũ dục. Nếu gặp được bạn lành dạy bảo khiến khai ngộ tánh Viên Giác thanh tịnh, hiểu ra được sự sanh diệt, liền biết cái sanh ra này, tánh tự lao lự. Nếu lại có người hằng đoạn lao lự, tự nhiên đạt được pháp giới thanh tịnh, thì tịnh-giải kia làm cho chướng ngại, nên đối với Viên Giác mà không được tự tại. Đây là phàm phu tùy thuận Viên Giác

Này Thiện nam tử! Tất cả Bồ tát bị kiến giải làm ngăn ngại, tuy đoạn được Giải ngại, nhưng còn trụ ở Kiến giác, nên bị Giác ngại làm ngại mà không được tự tại. Đây là những Bồ tát chưa nhập địa tùy thuận Viên Giác

Này Thiện nam tử! Có chiếu có giác đều là chướng ngại, thế nên Bồ tát thường giác mà không trụ, chiếu và người chiếu đồng thời vắng lặng. Thí như có người tự chặt đầu mình, khi đầu đã bị chặt thì không còn thấy có người chặt đầu nữa. Vậy cho nên, khi dùng tâm ngại tự diệt các ngại, khi ngại đã đoạn thì không còn thấy có người diệt ngại. Kinh giáo như ngón tay chỉ mặt trăng, nếu đã thấy trăng, biết rõ mục tiêu được chỉ, không còn lầm ngón tay là mặt trăng nữa. Bao nhiêu ngôn thuyết của Như Lai khai thị cho Bồ tát cũng lại như thế. Đây là Bồ tát đã nhập địa tùy thuận Viên Giác

Này Thiện nam tử! Tất cả chướng ngại đều là cứu cánh giác. Chánh niệm-thất niệm, có gì là không giải thoát; thành pháp hay phá pháp đều là Niết-bàn; trí huệ ngu si chính là Bát nhã; pháp do Bồ tátngoại đạo thành tựu đều là Bồ đề; vô minh - chơn như cảnh giới không khác; Giới-Định-Huệ và Dâm-Nộ-Si đồng là phạm hạnh; Quốc độchúng sanh đồng một pháp tánh; Địa ngục - Thiên cung đều là Tịnh độ; Hữu tánh - Vô tánh đều thành Phật đạo; tất cả phiền não rốt ráogiải thoát. Pháp giới hải huệ chiếu rõ các tướng giống như hư không. Đây là Như Lai tùy thuận Viên Giác

Này Thiện nam tử! Chỉ những Bồ tátchúng sanh đời mạt pháp, trong tất cả thời không khởi vọng niệm, đối với các vọng tâm cũng chẳng trừ diệt; trụ nơi cảnh vọng tưởng mà không thêm hiểu biết; đối với chỗ không hiểu biết, không cần biện minh chân thật. Các chúng sanh kia, nghe pháp môn này mà tin hiểu thọ trì, không sanh lòng kinh sợ. Đó gọi là Tùy thuận Viên Giác

Này Thiện nam tử! Các ông nên biết rằng, các chúng sanh như thế, đã từng cúng dường trăm ngàn muôn ức hằng hà sa chư Phật và Đại Bồ tát, gieo trồng căn lành lớn nhiều đời. Phật gọi người ấy đã thành tựu Nhất-thiết-chủng-trí”.

Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn trùng tuyên lại nghĩa này nên nói kệ rằng:

 “Thanh Tịnh Huệ nên biết!
Tánh Viên mãn Bồ đề

Không thủ cũng không chứng

Không Bồ tát, chúng sanh.

Khi giác cùng chưa giác

Thứ lớp có khác nhau

Chúng sanh do Giải-ngại

Bồ tát chưa lìa giác

Nhập địa hằng tịch diệt

Không trụ tất cả tướng

Đại giác đều viên mãn

Gọi là khắp tùy thuận.

Chúng sinh đời mạt pháp 

Tâm không sanh hư vọng,

Phật nói người như thế

Hiện đời là Bồ tát 

Cúng dường hằng sa Phật

Công đức đã viên mãn.

Tuy có nhiều phương tiện

Đều gọi Tùy-thuận-trí”. 

Vị Bồ tát xuất hiện ở chương này là Thanh Tịnh Huệ, có nghĩa là Trí huệ thanh tịnh, chỉ cho Căn-bản-trí hay Bát-nhã-trí. Chúng ta tu hành từ phàm phu đến quả vị Phật, đều phải nương vào trí Bát Nhã làm đầu, mới khỏi lạc vào tà đạo. Ở đây, Bồ tát Thanh Tịnh Huệ thỉnh Phật giản trạch về công hạnh và những quả vị từ phàm phu đến Phật địa có sai khác như thế nào, để chúng sanh có thể theo đó tu tập, nhờ vậy tùy thuậnngộ nhập Viên Giác

Lúc bấy giờ, Bồ tát Thanh Tịnh Huệ ở trong đại chúng, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ dưới chân Phật, nhiễu bên phải ba vòng, quỳ dài chắp taybạch Phật rằng: “Đức Đại bi Thế Tôn! Ngài đã vì chúng con mà rộng nói những điều bất tư nghì như thế, là điều chưa từng thấy, là điều chưa từng nghe. Chúng con hôm nay nhờ Phật khéo dạy bảothân tâm cảm thấy thơ thới, được nhiều lợi ích”: Trong chương Di Lặc, Đức Phật đã giảng về các chủng tánh chúng sanh, những cấp bậc tu hành theo đạo Bồ đề của Phật, cùng các phương tiện giáo hóa của Bồ tát. Đây là những điều mà hội chúng chưa từng thấy, chưa từng nghe. Hôm nay, nhờ ơn Phật khéo dạy bảo, tất cả đều thấy thân tâm an lạc, được nhiều lợi ích lớn.

Nguyện Ngài vì tất cả pháp chúng đến trong pháp hội này, trùng tuyên lại tánh Viên mãn giác Pháp vương của tất cả chúng sanh, của các bậc Bồ tát và của Như Lai Thế Tôn đã chứng đã đắc, khác nhau như thế nào; khiến cho chúng sanh đời mạt pháp, khi nghe được Thánh giáo này mà tùy thuận khai ngộ thứ lớp chứng nhập. Nói xong, năm vóc gieo xuống đất, thỉnh đi thỉnh lại từ đầu đến cuối như vậy ba lần”: Đây là câu hỏi rất quan trọng, không những đối với các hàng Bồ tát trong pháp hội mà còn với chúng sanh đời mạt pháp. Từ địa vị chúng sanh, trải qua các cấp bậc Bồ tát rồi cuối cùng đến Phật vị; các quả vị ấy khác nhau như thế nào về tánh Viên-mãn-giác? Nghe được lời Phật dạy bảo, những chúng sanh đời mạt pháp có thể nương vào đó mà được khai ngộ.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo Bồ tát Thanh Tịnh Huệ rằng: “‘Lành thay! Lành thay! Này thiện nam tử! Các ông mới có thể vì chúng sanh đời mạt pháp, thưa hỏi Như Lai về tiệm thứ sai biệt. Nay ông hãy lắng nghe, ta sẽ vì ông mà nói”. Khi ấy, Bồ tát Thanh Tịnh Huệ vui mừng vâng theo lời dạy của Phật, cùng cả đại chúng chú tâm mà nghe”: “Tiệm thứ” là thứ lớp tu hành, “Sai biệt” là quả vị tu chứng. Vì câu hỏi của Ngài Thanh Tịnh Huệ nhằm lợi ích cho chúng sanh đời mạt pháp, nên trong lời hứa khả, Đức Phật cũng tán thán Ngài rằng: “Các ông mới có thể vì chúng sanh đời mạt pháp”. Sau đây là những lời Phật giải đáp:

Này Thiện nam tử! Tự tánh Viên Giác chẳng phải là tánh, mà tánh vẫn có”: Khởi đầu Đức Phật đã đề cập thẳng đến cứu cánhtự tánh Viên Giác. Ở nơi cứu cánh, không còn chấp trước lưỡng phân, nên không có cấp bậc tu chứng và thứ lớp tu hành. Phật luôn luôn nhắc đến bổn tâm để chúng sanh không chạy theo những dây mơ rễ má bên ngoài; nhưng do lời thỉnh của Bồ tát Thanh Tịnh Huệ, bất đắc dĩ Phật phải dùng phương tiện thứ lớp.

Đức Phật dạy, tự tánh Viên Giác thật ra không phải là tất cả tánh, nhưng trong mỗi chủng tánh đều có Viên Giác. Chúng ta nhớ, trong chương Di Lặc, Phật nói về 5 chủng tánh của chúng sanh (Thanh văn, Duyên giác, Bồ tát, Bất định tánh và Ngoại đạo chủng tánh). Viên Giác đâu phải là các chủng tánh ấy, nhưng trong mỗi chủng tánh đều có Viên Giác hết. “Phi tánh tánh hữu” là như vậy, vừa phủ định xong liền khẳng định ngay tức khắc.

Theo các tánh khởi, không thủ không chứng”: Tự tánh Viên Giác không phải là các chủng tánh nhưng lại theo các chủng tánh ấy mà khởi ra sự sai biệt. Ví như bản chất của nước là trong, nhưng do có bụi bặm hay các chất màu hòa tan trong đó mà nước trở nên đục hay có màu. Cũng vậy, bản thểtự tánh Viên Giác bình đẳng không khác giữa Phật và mọi loài chúng sanh, trong đó lìa mọi ý niệm nhị biên phân biệt, nên không có năng thủsở thủ, cũng không có năng chứng và sở chứng. Do vì có sự huân tập theo nghiệp riêng biệt của chúng sanh, nên Viên Giác trở thành có nhiều chủng tánh khác nhau.

Ở trong thật tướng, thật khôngBồ tát và chúng sanh”: Mê là chúng sanh, giác là Bồ tát. Có mê và giác là do tâm chúng sanh phân biệt chấp trước; Đức Phật rất từ bi nên cũng thi thiết phương tiện dạy bảo pháp chúng sanh để được pháp Bồ tát, từ phàm phu tiến lên địa vị Bồ tát rồi Phật quả. Đó là vì những chúng sanh sơ cơ mà giảng nói đó thôi, chớ trong Chơn như Thật tướng thật sự không có tướng nào là Bồ tát hay chúng sanh.

Vì cớ sao? - Vì Bồ tátchúng sanh đều là huyễn hóa. Khi huyễn hóa diệt, không còn người thủ chứng”: Trên ý thức đối đãi, Bồ tát khác với chúng sanh. Nhưng trong Đệ nhất nghĩa đế, cả hai đều không thật có. Các kinh hệ Bát nhã diễn tả cái trạng thái huyễn này bằng Tam đoạn luận “Bồ tát không phải là Bồ tát, ấy mới là Bồ tát; chúng sanh không phải là chúng sanh, ấy mới là chúng sanh ...”. Khi thấy tất cả thân tâm cảnh giới, cho đến những lời Phật dạy đều là huyễn; khi vượt thoát được mọi thứ ngôn ngữ đối đãi, là lúc mọi huyễn đều diệt. Lúc ấy, không thấy có Niết-bàn là cảnh giới sở chứng, không có ta là người chứng, tự nhiên khế hợp với tinh thần Ba-la-mật.

Câu chuyện của Ngài Thanh Nguyên Hành Tư có thể minh họa điều này. Khi hay tin Lục tổ đang hóa độTào Khê, Ngài quảy gói đến đảnh lễ Lục tổ, xin học thiền Đốn ngộ. Lúc gặp Tổ, Ngài hỏi: “Người tu hành làm thế nào khỏi rơi vào giai cấp?” Tổ hỏi lại: “Hằng ngày ông làm việc gì?”. Ngài thưa: “Thánh đế còn chẳng làm”. Tổ hỏi thêm: “Nếu vậy thì ông đang ở vào giai cấp nào?” Ngài thưa: “Thánh đế còn chẳng làm, làm gì có giai cấp”.

Thí như con mắt không tự thấy con mắt, tánh tự bình đẳng, không có người bình đẳng”: Đức Phật đưa ra thí dụ: Khi nhìn thấy cảnh vật bên ngoài rõ ràng, chúng ta tự biết mắt mình sáng. Không thể dùng mắt mình để thấy lại mắt, còn nếu nhìn vào gương thì chỉ thấy bóng của đôi mắt mà thôi. Cũng vậy, không thể dùng tánh Viên Giác để thấy được tánh, vì nếu thấy được thì tánh ấy đã ở bên ngoài mình. Đây là chỗ hết sức tinh tế, phải tự mình thầm nhận biết. Do đó, khi dùng chữ “Kiến tánh” thì cũng là gượng nói, chứ không nên hiểu “tánh” là cái bị “kiến”. Tánh Viên Giác tự bình đẳng, ở Phật không thêm ở chúng sanh chẳng bớt, cũng không thể bắt buộc gượng ép cho nó bình đẳng. Vì thế Phật nói, tánh tự bình đẳng mà không có người bình đẳng

Bởi vì chúng sanh mê mờ điên đảo, chưa thể trừ diệt tất cả huyễn hóa, ở trong công dụng hư vọng, đối với cái đã diệt và cái chưa diệt mà liền có sự sai biệt”: Bản chất của tánh Viên Giácbình đẳng, nhưng vì chúng sanhcăn cơ trình độ khác nhau, dụng công tu hành khác nhau nên có sự sai biệt thứ lớp tu tiến. Thật ra, sự dụng công này cũng hư vọng; như khi chúng ta áp dụng phương pháp “Biết vọng không theo”, đó là dùng tâm biết vọng để buông cái vọng, lúc vọng tưởng hết thì cái tâm biết vọng ấy cũng phải buông luôn, vì tâm ấy cũng là vọng. “Cái đã diệt” là công năng diệt trừ được vọng tưởng, “Cái chưa diệt” tức đối với tất cả huyễn hóa chưa trừ diệt được hết. Công năng diệt trừ và chưa diệt trừ được vọng tưởng, không đồng đều giữa các chúng sanh, từ đó mới có sự sai biệt.

Nếu đạt được chỗ tùy thuận tịch diệt của Như Lai, thì thật khôngtịch diệt và người tịch diệt”: Tùy vọng tưởng diệt được nhiều hay ít mà cấp độ tu hành của mỗi người cao thấp khác nhau. Tuy nhiên, ở chỗ tùy thuận Viên Giác tức nơi cứu cánh, thì không còn nhị biên phân biệt, vì vậy không còn có cảnh giới tịch diệt và người tịch diệt.

Tóm lại, trong đoạn trên, Đức Phật chỉ rõ bản chất của Viên Giác là tự bình đẳng, từ Phật đến muôn loài chúng sanh. Nhưng trên hiện tượng lại có sai khác, do chúng sanh căn tánh không đồng, lúc khởi công dụng hạnh thì người nhanh kẻ chậm, thành ra có sự khác nhau về cấp bậc tu chứng. Cũng vì lý do này nên ở đoạn sau, Đức Phật giảng về bốn cấp bậc tùy thuận Viên Giác, từ chúng sanh đến Phật vị :

1- Phàm phu tùy thuận Viên Giác: Bồ tátđịa vị Thập tín. Đức Phật gọi là Phàm phu vì các vị ấy nhận ra sự thật, phát khởi niềm tin mãnh liệt rồi an trú vào đó để tiến tu, nhưng chưa giác ngộ tự tánh, chưa đến địa vị Hiền.

2- Bồ tát chưa nhập địa tùy thuận Viên Giác: Gồm Bồ tát Thập trụ, Thập hạnhThập hồi hướng. Đây là địa vị Tam hiền, tương đương với Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm và A-na-hàm của Phật giáo Nguyên thủy.

3- Bồ tát nhập địa tùy thuận Viên Giác: Bồ tát Thập địa, đã bước lên địa vị Thánh. Các Thiền sư kiến tánhquả vị này. Thập địa gồm 10 quả vị; từ quả vị đầu tiên (Hoan hỷ địa) là người đã chứng được pháp thân thường trụ, không còn thối chuyển nữa, tiến lần đến quả thứ 10 là Pháp-vân-địa. So sánh với Ngyên thủy, quả vị A-la-hán tương đương với Bất-động-địa là quả thứ tám của Thập địa.

Từ quả thứ 10 của Thập địa, muốn lên địa vị Diệu Giác tức Phật quả, phải qua Đẳng giác. Ở quả vị nầy, các Ngài giác ngộ tánh bình đẳng của vạn sự vạn vật, là sự giác ngộ liên tục không gián cách, nhưng vẫn chưa phá hết sở tri chướng vi tếĐức Phật gọi là “Vi tế sở tri ngu”.

4- Như Lai tùy thuận Viên Giác: Đây là địa vị Phật tức Diệu giác. Diệu giác không thuộc quả vị nào hết, vượt mọi quả vị, là sự giác ngộ hết sức nhiệm mầu, cùng khắp pháp giới, nên còn gọi là “Pháp giới hải huệ”.

Này Thiện nam tử! Tất cả chúng sanh từ vô thỉ kiếp đến nay, do vọng tưởng về ngã và ái ngã, từng không tự biết niệm niệm sanh diệt, nên khởi ra sự yêu ghét, đam mê ngũ dục”: Từ vô thỉ, chúng sanh không biết thân tâm đều sinh diệt vô thường, không thật có. Thân này do nhiều yếu tố hợp lại mà thành, thay đổi từng giây phút, có cố định bất biến gì đâu. Tâm vọng tưởng cũng vậy, niệm niệm sanh diệt không ngừng. Chúng sanh mê muội, không rõ thân tâm như huyễn nên chấp có cái tôi này là thật. Từ chấp có cái tôi thật nên sinh ra yêu cái tôi; điều gì hợp với cái tôi thì thích, không hợp thì ghét, từ đó khởi ra đam mê tài - sắc - danh - thực - thùy. Như vậy, tiến trình khởi từ chấp ngã đến ái ngã, tắng ái và rồi đam mê ngũ dục, tạo nghiệp và thọ khổ trong sáu nẻo luân hồi, đều do vô minh là nguồn cội.

Nếu gặp được bạn lành dạy bảo khiến khai ngộ tánh Viên Giác thanh tịnh, hiểu ra được sự sanh diệt, liền biết cái sanh ra này, tánh tự lao lự”: Nhờ Thiện tri thức chỉ bảo, có người nhận ra tự tánh Viên Giác. Vị ấy hiểu rằng, Viên Giácbất sanh bất diệt, là chủ; còn tất cả pháp bên ngoài đều là sanh diệt, là khách. Nhận được chủ, vị ấy không lầm khách nữa. Tuy nhiên, đây chỉ là sự nhận biết bằng thức của Bồ tát Thập tín, chưa chứng nhập hoàn toàn vào Viên Giác. Cái biết lúc này còn thấp thoáng, lúc nhớ lúc quên, chưa đạt đến quả vị bất thối nên vẫn có thể lui sụt nếu không tinh tấn tu hành. Dù sao, đạt đến trạng thái này cũng không phải dễ, vì khi bỗng nhiên phát minh tự tánh Viên Giác chưa từng sanh diệt của mình, vị ấy tự dưng phát sinh một niềm tin mãnh liệt, từ đó tiếp tục tu tiến. Vị ấy sẽ thấy rõ, “cái sanh ra này”, tức cái tâm vọng tưởng lăng xăng ấy, do trái với giác tánh, nhận lầmngã và ngã sở. Vì xa rời bản giác nên chính nó tự nhọc nhằn lao lự, thấy thật có thân, thật có tâm, chấp thân tâm ấy chính là mình.

Nếu lại có người hằng đoạn lao lự, tự nhiên đạt được pháp giới thanh tịnh, thì tịnh giải kia làm cho chướng ngại, nên đối với Viên Giác mà không được tự tại. Đây là phàm phu tùy thuận Viên Giác”: Khi buông mọi cái lao lự, vị ấy không chấp trước vào thân và tâm nữa. Như trong lúc tọa thiền, buông tất cả lao lự vọng tưởng, tâm hoàn toàn vắng lặng, vị ấy thấy rõ tâm lăng xăng sanh diệt không dính dáng gì với tự tánh Viên Giác, bấy giờ liền được pháp giới thanh tịnh. Tuy nhiên, do cái biết này vẫn còn là của ý thức chứ không phải của trí, tức hết kiến giải của phàm tình nhưng vẫn còn thánh giải, nên còn phân biệt năng sở, thấy có cảnh giới thanh tịnh và mình là người có tịnh giải. Chính cái tịnh giải ấy làm chướng ngại, nên dù tùy thuận Viên Giác mà chưa tự tại. Cấp bậc đầu tiên trong bốn cấp này, Đức Phật gọi là “Phàm phu tùy thuận Viên Giác”.

Như vậy, Phàm phu tùy thuận Viên Giác nghĩa là: Chúng sanh lúc đầu không biết Phật pháp, chấp ngãngã sở, đam mê ngũ dục, tạo nghiệp và thọ khổ. Gặp được bạn lành dạy bảo, vị ấy tỉnh ngộ rằng thân tâm này sanh diệt không có thật, vọng lặng dứt. Tuy vậy, vị ấy còn thấy mình lặng lẽ và có kiến giải về sự lặng lẽ đó; cho nên dù đạt được pháp giới thanh tịnh nhưng vẫn còn có đối tượng để mình nhận biết, tự nhiên phân ranh chủ-khách, năng-sở. Lúc này, ngã chấp thô đã phá nhưng pháp chấp vẫn còn, phân-biệt-ngã-chấp đã sạch mà câu-sanh-ngã-chấp chưa phá, tức là còn ngấm ngầm chấp ngã một cách vi tế. Vì thế Phật gọi địa vị này là Phàm phu. Biết rõ điều này, hành giả cần âm thầm cố gắng tiến tu, đừng tưởng lầm mình đã kiến tánh rồi thỏng tay vào chợ. Người chín chắn khi biết mình đến chỗ này, thái độ của họ tự nhiên khiêm cung hẳn; còn nếu ai ngông nghênh ngã mạn, coi trời đất chẳng ra gì, lộ ra sân si đủ chuyện, thì dù họ thuyết giảng hay ho cách mấy, chúng ta vẫn không thể tin được.

“Này Thiện nam tử! Tất cả Bồ tát bị kiến giải làm ngăn ngại, tuy đoạn được Giải ngại nhưng vẫn còn trụ ở Kiến giác, nên bị Giác ngại làm ngại mà không được tự tại. Đây là những Bồ tát chưa nhập địa tùy thuận Viên Giác”: Trong cấp bậc trước, hành giả bị kiến giải làm ngăn ngại, gọi là Giải ngại. Ở địa vị Tam Hiền nầy, các vị đoạn được Giải ngại, nhưng lại thấy mình có chứng có giác, cho nên Phật nói “vẫn còn trụ ở Kiến giác”. Thấy có chứng có giác cũng là chướng ngại, nên gọi là “Giác ngại”. Như vậy, biết mình thanh tịnhKiến giải, cái kiến giải này làm chướng ngại nên nói là Giải ngại. Thấy mình có chứng có giác là Kiến-giác, cái kiến giác này cũng làm chướng ngại nên gọi là Giác-ngại.

Vậy, ở địa vị thứ hai, tuy đã xả trừ được “cái biết mình thanh tịnh”, nhưng vẫn còn “cái biết mình giác” làm ngăn ngại, vì vẫn còn năng giác và sở giác. Chúng ta thấy, cả hai cấp bậc Thập tín (có người biết và cảnh giới bị biết) và Tam hiền (có người giác và cảnh giác) đều chưa vượt khỏi năng sở đối đãi nhị nguyên, chưa đạt được tự do hoàn toàn. Các vị dù đã có Định có Huệ nhưng vẫn chưa nhập địa.

Này Thiện nam tử! Có chiếu có giác đều là chướng ngại, thế nên Bồ tát thường giác mà không trụ, chiếu và người chiếu đồng thời vắng lặng”: Phật nói đến cấp bậc thứ ba. Hành giả biết rõ có chiếu có giác đều là chướng ngại, vì còn năng sở. Các vị buông luôn cái giác ấy, nghĩa là thường giác mà không trụ vào cái giác. Nhà Thiền gọi trạng thái này là liễu liễu thường tri. Đây là quả vị Bồ tát Thập địa, các Thiền sư đã kiến tánh, chứng pháp thân thường trụ. Tuy vậy, vì còn tập khí sâu dầy nên các vị phải trải qua nhiều đời kiếp gột sạch tập khí, tinh tấn tu hành mới có thể thành tựu Phật quả. Cũng cần nhấn mạnh, sự tu hành ở các vị là vô công dụng hạnh, tu vô tu, chứng vô chứng; cho nên thường chiếu giác mà không có người năng chiếu và cảnh sở chiếu. Phật gọi là “chiếu và người chiếu đồng thời vắng lặng”.

Thí như có người tự chặt đầu mình, khi đầu đã bị chặt thì không còn thấy có người chặt đầu nữa”: Đối tượng chặt là cái đầu, người chặt là mình. Khi đầu đã bị chặt là mình đã chết, đâu còn thấy có đầu bị chặt hay có người chặt đầu, bởi vì người chặt và cái đầu chỉ là một. Đây là một ví dụ rất độc đáo để minh họa việc Bồ tát diệt các chướng ngại.

Vậy cho nên, khi dùng tâm ngại tự diệt các ngại, khi ngại đã đoạn thì không còn thấy có người diệt ngại”: Tâm-ngại là tâm có chiếu có giác, lúc đầu dùng tâm này để diệt các chướng ngại, nghĩa là dùng cái tâm hay buông để buông cái vọng bị buông. Đến khi ngại đã đoạn hết, nghĩa là tất cả vọng tưởng đều lặng thì cái tâm-ngại, tức cái tâm hay buông, cũng phải dẹp luôn Năng sở đều đoạn, không còn ngại cũng không còn người diệt ngại nữa.

Kinh giáo như ngón tay chỉ mặt trăng, nếu đã thấy trăng, biết rõ mục tiêu được chỉ, không còn lầm ngón tay là mặt trăng nữa. Bao nhiêu ngôn thuyết của Như Lai khai thị cho Bồ tát cũng lại như thế. Đây là Bồ tát đã nhập địa tùy thuận Viên Giác”: Tam tạng kinh điển đều như ngón tay chỉ mặt trăng. Người học Phật phải biết rõ, kinh điển là ngón tay, tự tâm Viên Giácmặt trăng, nương vào kinh điển để nhận ra tự tâm. Khi biết rõ mục tiêumặt trăng thì không còn lầm ngón tay là mặt trăng; cũng như không lầm tưởng những ngôn thuyết của Phật là cứu cánh nữa.

Như vậy, ở cấp bậc Bồ tát đã nhập địa tùy thuận Viên Giác, các vị đã vào hàng Thánh, không cần y cứ theo kinh điển mà vẫn tùy thuận Giác-tánh. Các vị vẫn dùng huyễn tu huyễn lúc đầu, nhưng khi xả trừ hết các huyễn, đến chỗ thường giác, thì không còn thấy có người chứng và cảnh giới để chứng nữa. Giữa năng và sở đã dung hòa nhất như, trở về tự thể đại đồng, tự nhiên hòa điệu vào pháp giới thanh tịnh. Lúc này, năng sở đều dứt thì còn lại cái gì? - Đây là điều bí mật mà mỗi người phải tự khám phá, không ai có thể chỉ được cho ai. Đến được chỗ này, chúng ta sẽ hiểu ai là người không cùng muôn pháp làm bạn.

Này Thiện nam tử! Tất cả chướng ngại đều là cứu-cánh-giác”: Bắt đầu bước qua địa vị Diệu giác, chúng ta phải hết sức chú tâm mới lãnh hội được vài phần. Tất cả chướng ngại đối với các Ngài bây giờ đều là Cứu-cánh-giác, như thế không cần diệt trừ chướng ngại nữa. Đề-Bà-Đạt-Đa làm ngăn ngại Đức Phật không phải một kiếp này mà đã từ vô số kiếp, vậy mà trong kinh Pháp Hoa, Phật bảo ông là Thiện hữu tri thức bậc nhất của Ngài. Cho nên, càng có chướng ngại, các Ngài càng tu tiến. Các Ngài hóa độ chúng sanh như dạo hoa viên, cảnh giới của các Ngài bình đẳng như ánh sáng mặt trời chiếu soi vạn vật, mọi vật đều được lợi íchbản thân mặt trời không thấy mình đem lại lợi ích cho ai.

Chánh niệm - thất niệm, có gì là không giải thoát”: Trong trí huệ bình đẳng, lìa mọi phân biệt đối đãi nên tất cả các pháp đều không hai không khác. Thông thường, chúng ta cho rằng khi làm việc gì chỉ biết việc đó, không nghĩ đến chuyện khác, ấy là chánh niệm, là giải thoát. Nếu vọng tưởng nổi lên, đó là thất niệm, là bị trói buộc. Ở đây, Giác tánh tuyệt mọi đối đãi nên được-mất đều không khác; chánh niệm hay thất niệm đều là giải thoát.

Thành pháp hay phá pháp đều là Niết-bàn”: Tinh tấn tu theo chánh pháp gọi là Thành pháp, tu hành lui sụt gọi là Phá pháp. Trong Viên Giác không có thành cũng không có phá, nên nói “đều là Niết-bàn”.

Trí huệ-ngu si chính là Bát Nhã”: Kinh Lời Vàng có nói “Ngu mà biết mình ngu là người trí, nếu ngu mà cho mình trí chính là người ngu”. Đức Phật dạy, người trí là người thấy đúng lẽ thật, còn người ngu là người không nhận biết được sự thật của muôn pháp. Đó là trên phương diện Tục đế mà nói. Ở đây, trên Trung-đạo-đế Đệ-nhất-nghĩa-đế, ngu và trí đều là giả lập, không có tự thể, không rời Giác-tánh, cho nên đều là Bát Nhã.

Pháp do Bồ tátngoại đạo thành tựu đều là Bồ đề”: Bồ đề hiểu theo nghĩa là tự tánh Viên Giác sẵn đủ ở mỗi người, dù người ngoại đạo cũng có. Thường chúng ta quan niệm, pháp của Bồ tát thành tựu là Chánh, pháp của ngoại đạo thành tựu là Tà. Ở đây, Chánh-Tà đều đồng có Giác-tánh như nhau, nên Phật bảo “đều là Bồ đề”.

Vô minh Chơn như cảnh giới không khác”: Trong Chứng-Đạo-ca, Thiền sư Huyền Giác nói “Vô minh thật tánh tức Phật tánh, huyễn hóa không thân tức Pháp thân”. Cái thấy của Thiền sư ở đây cũng đồng với cái thấy của Phật, chỉ khác một điều là các Ngài mới giác ngộ Phật nhơn mà chưa thành tựu giác hạnh viên mãn như Phật. Cho nên, Thiền Đốn Ngộ là một nhảy vào liền đất Như Lai, không như Giáo-môn phải trải qua tuần tự nhiều bước. Có người không hiểu thấu điều này, cho Thiền Đốn Ngộ là quái thai của Phật giáo, chẳng biết rằng đây chính là tinh hoa, là cốt tủy của đạo Phật, đòi hỏi người hành trì phải có căn cơ bén nhạy hơn bình thường.

Giới-Định-Huệ và Dâm-Nộ-Si đồng là phạm hạnh”: Giới-Định-Huệ là tam vô lậu học mà mỗi người tu đều phải giữ gìnthực hiện. Thế mà Phật lại nói Giới-Định-Huệ đồng với Dâm-Nộ-Si, làm sao hiểu thấu? Chúng ta phải biết, Giới-Định-Huệ là pháp xuất thế gian, y cứ từ một tâm; Dâm-Nộ-Si là pháp thế gian, cũng y cứ từ tâm ấy. Đó là tự tâm Viên Giác. Với trạng thái tâm chứng của người đã triệt ngộ, bản chất của mọi pháp đều vốn thanh tịnh vì đều y cứ từ tự thể Viên Giác. Cho nên, hai pháp trên đều là phạm hạnh, đối với địa vị Diệu Giác. Còn đối với phàm phu chúng ta, luôn luôn phải hành trì Giới-Định-Huệ, không nên bắt chước nói theo mà sa vào ác đạo.

Quốc độchúng sanh đồng một pháp tánh”: Quốc độkhí thế gian, chúng sanhhữu tình thế gian. Khí thế gian là những thế giới thiên sai vạn biệt bên ngoài; Hữu tình thế gian là mọi hàm linhhình tướng; tất cả cùng một pháp tánh, đó là Giác-tánh vậy.

Địa ngục-Thiên cung đều là Tịnh độ”: Tất cả pháp đều từ tâm sinh, chúng sanh có đồng một nghiệp cảm sẽ cùng nhau ở một cõi giới. Nghiệp đó là dụng mê của tâm. Đến khi giác ngộ, đoạn hoặc chứng chơn, thì đó cũng là dụng của tâm, nhưng là dụng giác. Dụng mê thì đọa vào địa ngục, dụng giác thì đời sống thăng hoa. Thật sự, khi trở về trạng thái bình đẳng nhất như, Địa ngụcThiên cung đâu không phải cùng là Tịnh độ? 

Hữu tánh-Vô tánh đều thành Phật đạo”: Hữu tánh là có chủng tánh Phật, gồm ba thừa Thanh văn-Duyên giác và Bồ tát. Vô tánh là không có chủng tánh Phật, gồm ngoại đạophàm phu. Sự phân chia này chỉ có tính cách tương đối, do hạng vô tánh không tin mình có chủng tánh Phật, chứ thực ra, tất cả chúng sanh đều có Phật tánh. Vì vậy, tất cả đều có thể thành Phật đạo.

Tất cả phiền não rốt ráo là giải thoát”: Lục Tổ nói “An tâm tại vọng tình, ngay đó không ba chướng”. Cái thấy của Lục Tổ cũng đồng với cái thấy của Phật. Không phải loại trừ vọng tình để có cái an tâm riêng, mà ngay nơi vọng tìnhan tâm. Như vậy, phải ngay nơi phiền não mà thấy Bồ đề, ngay nơi sinh tử mà gặp Niết-bàn. Nhận được lẽ này, các Ngài thỏng tay vào chợ, tùy duyên thị hiện mọi hình tướng để hóa độ chúng sanh

Pháp giới hải huệ chiếu rõ các tướng giống như hư không. Đây là Như Lai tùy thuận Viên Giác”: Trí huệ như biển trùm khắp pháp giới, chiếu rõ tất cả các pháp đều như hư không, tất cả tướng sai biệt của phàm phu hay Bồ tát đều dung nhiếp nhau, tự tại vô ngại.

Như vậy, cấp bậc Như Lai tùy thuận Viên Giáccảnh giới cao tột của Phật, lìa mọi ý thức nhị biên phân biệt, siêu việt mọi phạm trù đối đãi, ngay các hàng Bồ tát cũng không lường hết được. Các Ngài đã đạt đến chỗ thật tánh bình đẳng giữa Phật và chúng sanh, giữa Niết-bàn và sanh tử, giữa giải thoátràng buộc. Các Ngài đã hoàn toàn xả hết mọi chấp trước từ thô đến tế, không còn khởi công dụng hạnh, không còn tâm năng chứng và cảnh sở chứng. Ở cảnh giới này, các Ngài an trụ trong Viên Giác tự định tự huệ mà không còn tạo tác - trong Bát Nhã Tâm Kinh gọi là Vô trí diệc vô đắc. Lục Tổ Huệ Năng diễn tả bằng từ “định-huệ đồng thời”, nghĩa là định của tự tánh hằng tịch và huệ của tự tánh hằng soi, tự định và tự huệ một cách tự nhiên, viên mãncùng lúc, không cần khởi công mà có. Đây là tinh thần Đốn tu Đốn chứng của nhà Thiền. Các vị Thiền sư khi đạt đến cấp bậc này, muốn sống muốn chết lúc nào tùy ý. Vì vậy, chúng ta đọc trong Thiền sử, thấy rất nhiều trường hợp các Ngài đọc một bài kệ rồi ngồi kiết già thị tịch một cách tự tại an nhiên.

Này Thiện nam tử! Chỉ những Bồ tátchúng sanh đời mạt pháp, trong tất cả thời không khởi vọng niệm, đối với các vọng tâm cũng chẳng trừ diệt”: Đối với Nhị thừa, phải trừ hết vọng niệm mới đạt được Niết-bàn tịch tịnh. Với Thiền Đốn Ngộ lại khác, Chánh niệm không phải là diệt niệm, mà là tỉnh giác trong đương niệm, ở nơi niệm mà vô niệm. Không khởi vọng niệm nhưng cũng không trừ diệt vọng tâm, vì niệm và vô niệm không hai không khác.

Trụ nơi cảnh vọng tưởng mà không thêm hiểu biết”: Đức Phật nói rất rõ: “Trụ nơi cảnh vọng tưởng” chứ không phải “Trừ vọng tưởng”. Kinh Lăng Nghiêm nói: “Tri kiến lập tri tức vô minh bổn, Tri kiến vô kiến tư tức Niết-bàn” (Nếu thấy biết mà khởi thêm thấy biết là nguồn gốc của vô minh; Thấy biết không thêm hiểu biết ấy là Niết-bàn). Đây là một trạng thái phi trạng thái, chúng ta không diệt vọng tưởng, thấy biết tất cả mà không thêm cái gì. Chúng ta sống rất hồn nhiên, vĩnh viễn an trú trong hiện tại, không đoạn đi cái dụng của tự tánh.

Đối với chỗ không hiểu biết, không cần biện minh chân thật”: Chúng ta trụ nơi cảnh vọng tưởng không thêm hiểu biết và ở chỗ không hiểu biết đó mà không cần biện minh cái này thật cái kia giả nữa. Khi nghe Ngọa Luân có bài kệ :

Ngọa luân có tài khéo
Hay đoạn trăm tư tưởng

Đối cảnh tâm không sanh

Bồ đề ngày càng lớn.

Lục Tổ cho là lối tu diệt niệm làm mất đi diệu dụng của tự tánh, nên Ngài đọc kệ đối lại như sau :

Huệ Năng chẳng tài khéo
Chẳng đoạn trăm tư tưởng

Đối cảnh tâm vẫn sanh

Bồ đề làm gì lớn.

Lỗi của chúng ta ở chỗ, tư tưởng hay thêm bớt. Niệm tùy cảm tùy ứng mà chúng ta cứ lom lom nghĩ về nó và cách dẹp trừ nó. Chúng ta không biết niệm chính là dụng của tự tánh, tự nó sinh diệt một cách tự nhiên; cũng như nước biển thì tự nhiên có sóng, làm gì cần phải dẹp sóng để tìm nước, mà ngay nơi sóng đã là nước rồi. Vì vậy Lục Tổ không cần đoạn trăm tư tưởng như Ngọa Luân. Tâm có sanh diệt cũng không ngoài tự tánh, sanh đó là vô sanh, là toàn thể toàn dụng của tự tánh, nên sợ gì sanh tâm khi đối cảnh. Bồ đề là giác, không hình tướng, xưa nay không một vật thì làm gì ngày càng lớn. Cho nên, vừa có tâm dứt vọng thì đó cũng đã là vọng rồi.

Liên hệ với phương pháp “Biết vọng không theo” của Hòa thượng Trúc Lâm, vì chúng sanh cănthấp kém nên thi thiết phương tiện để mọi người đều có thể tu hành. Khi niệm khởi lên, ta biết đó là vọng, niệm ấy tự lặng; nhưng chính cái “biết” đó cũng là vọng. Nhiều người mới nghe đến chỗ này, vội vàng chỉ trích ngài dạy đệ tử không đúng yếu chỉ Thiền Tông. Họ không biết rằng, đó mới là giai đoạn đầu, phải dùng tâm vọng để buông vọng, cũng như dùng gai lễ gai. Khi vọng lặng hết, cái tâm biết vọng ấy cũng phải buông luôn. Lúc ấy không còn năng sở, hoàn toàn rỗng rang thì còn lại cái gì? Cái không thể buông được là tạng bí mật của chư Phật ba đời.

Cũng cần nói thêm một điều: Phương pháp biết vọng thật ra có hai cách, tùy trình độ căn cơ của thiền sinháp dụng: “Pháp biết vọng” là theo đúng phương pháp Hòa thượng dạy, đã nói ở trên, tuần tự qua từng giai đoạn. “Tánh biết vọng” là đốn tu đốn chứng, ngay vọng nhận ra chơn và hằng sống, không gián cách. Đây là điều rất sâu mầu, hàng trung hạ căn chúng ta khó thể hiểu thấu.

“Các chúng sanh kia, nghe pháp này mà tin hiểu thọ trì, không sanh lòng kinh sợ. Đó gọi là Tùy thuận Viên Giác”: Chúng sanh nào nghe được pháp môn chẳng trừ chẳng dẹp vọng này mà không kinh sợ, tin hiểu theo đó tu hành, phải biết đó là hàng căn cơ Viên đốn, ít người bì kịp. Các vị ấy được gọi là Tùy thuận Viên Giác

Này Thiện nam tử! Các ông nên biết rằng, các chúng sanh như thế, đã từng cúng dường trăm ngàn muôn ức hằng hà sa chư Phật và Đại Bồ tát, gieo trồng căn lành lớn nhiều đời. Phật gọi người ấy đã thành tựu Nhất thiết chủng trí”: Mới nghe qua đoạn này, chúng ta thấy thắc mắc. Một vị Phật xuất hiệnthế gian là một điều vô cùng hy hữu, trăm ngàn ức kiếp chưa chắc đã gặp được một lần. Vậy mà ở đây Phật bảo, hàng chúng sanh cănViên đốn như thế đã từng gặp và cúng dường hằng hà sa chư Phật. Điều này có mâu thuẫn không? Chúng ta cần hiểu, Phật ở đây có nghĩa là Giác. Bồ táthữu tình giác. Cả Phật và đại Bồ tát đều có nghĩa là Giác. Những chúng sanh tu theo Đại thừa Đốn giáo này là chúng sanh đã hằng tỉnh hằng giác từ lâu lắm rồi. Mỗi niệm tỉnh là một lần đối diện với Phật tự tâm của chính mình, thì trong suốt cuộc đời tu chân chính, rõ ràng chúng sanh ấy đã gặp và cúng dường vô lượng chư Phật và đại Bồ tát. Phật bảo chúng sanh ấy đã thành tựu Nhất-thiết-chủng-trí, tức thành tựu trí huệ Phật.

Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn trùng tuyên lại nghĩa này nên nói kệ rằng :

Thanh Tịnh Huệ nên biết!
Tánh viên mãn Bồ đề

Không thủ cũng không chứng

Không Bồ tát, chúng sanh”. 

Đoạn này, Phật nói về Bản giác, không thủ không chứng và cũng không khác biệt giữa Bồ tátchúng sanh

Khi giác cùng chưa giác
Thứ lớp có khác nhau”.

Nơi cứu cánh thì không sai biệt giữa giác (Bồ tát) và chưa giác (chúng sanh), nhưng nơi phương tiện thì có thứ lớp, tức các quả vị đã nói trên.

Chúng sanh do Giải-ngại”

địa vị Thập tín, chúng sanh biết mình thanh tịnh nhưng bị cái biết ấy làm chướng ngại.

Bồ tát chưa lìa giác”

Bồ tátđịa vị Tam Hiền, đã trừ được Kiến giải nhưng còn phân biệt năng giác và sở giác.

Nhập địa hằng tịch diệt
Không trụ tất cả tướng”

Đây là địa vị Thập thánh đã nhập địa, không còn năng giác sở giác, nhưng còn cái vi tế thường giác. Chỗ này rất nhỏ nhiệm, khó phát hiện, nhưng cũng còn làm chướng ngại Viên Giác

Đại giác đều viên mãn
Gọi là khắp tùy thuận”.

Địa vị cao tột của Phật, hoàn toàn xả trừ tất cả Sở tri chướng vi tế, giác ngộ viên mãnkhông cần dụng công nữa. Đây là cấp bậc tùy thuận Viên Giác hoàn toàn, không còn có gì làm chướng ngại.

Chúng sanh đời mạt pháp 
Tâm không sanh hư vọng,

Phật nói người như thế

Hiện đời là Bồ tát

Cúng dường hằng sa Phật

Công đức đã viên mãn.

Tuy có nhiều phương tiện 

Đều gọi Tùy thuận trí”.

Những chúng sanh đời mạt pháp, khi đối duyên xúc cảnhtâm không khởi chấp ngã chấp pháp, Phật bảo hiện đời những vị ấy đã là Bồ tát, từng gieo trồng công đức nhiều đời, cúng dường vô lượng chư Phật. Do trí tùy thuận Viên Giác, các vị ấy thiết lập nhiều phương tiện giáo hóa chúng sanh; nhưng chính các vị thì ngay trong tiệm thứ mà không cần tiệm thứ, cũng có thể tự nhiên tùy thuận Giác tánh.

Tóm lại, trong chương này có thể phân ra ba phần :

1- Phần đầu: Đức Phật chỉ thẳng tự tâm Viên Giác. Nếu ai nhận ra tự tâm thì không cần trải qua thứ lớp cấp bậc tu hành.

2- Phần giữa: Do lời thỉnh hỏi của Bồ tát Thanh Tịnh Huệchúng sanh đời mạt pháp căn cơ thấp kém, nên Phật giảng về bốn cấp bậc tu chứng cao thấp khác nhau :

- Phàm phu tùy thuận Viên Giác.
- Bồ tát chưa nhập địa tùy thuận Viên Giác
- Bồ tát nhập địa tùy thuận Viên Giác
- Như Lai tùy thuận Viên Giác

3- Phần cuối: Đức Phật nói về hàng căn cơ Viên đốn không có tiệm thứ vẫn tùy thuận được Giác tánh. Ngài ca ngợi những vị này hiện đời đã là Bồ tát, đã thành tựu Nhất-thiết-chủng-trí.

Trong một chương nói về phương tiện thứ lớp tu hànhĐức Phật lại dành phần lớn để nói về đốn tu đốn chứng. Điều này cho thấy toàn bộ bản kinh đều cốt chỉ thẳng tâm người. Ai trực nhận ra tự tánh đều có thể nhanh chóng vào liền đất Như Lai. Tinh thần này rất phù hợp với Thiền đốn ngộ. Tuy vậy, hàng trung hạ căn chúng ta cũng vẫn có phần, vì bên cạnh đó, Đức Phật vẫn chỉ bày cặn kẽ về phương tiện và những hạnh tu. Từ chương này và những chương về sau, chúng ta sẽ học về những phương tiện thứ lớp tu hành. Nếu tinh tấn không lui sụt, nếu có lòng tin vững chắc rằng mình cũng có Phật tánh, kiên trì vượt qua bao khó khăn thử thách để vững tiến trên đường tu, thì một ngày nào đó, chắc chắn chúng ta sẽ thành tựu đạo quả.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12493)
Ấn là chiếc ấn hay khuôn dấu. Pháp có nghĩa là chánh pháp hay toàn bộ hệ thống tư tưởng trong lời dạy của Đức Phật được ghi lại trong ba tạng thánh điển. Pháp ấn có nghĩa là khuôn dấu của chánh pháp
(Xem: 10364)
Đây là Kinh thứ 16 của Nghĩa Túc Kinh và cũng có chủ đề “Mâu Ni”: Một vị mâu ni thấy như thế nào và hành xử như thế nào khi đứng trước tình trạng bạo động và sợ hãi?
(Xem: 12332)
Các nhà học giả Tây phương cũng như Đông phương đều công nhận hệ thống Bát-nhã là cổng chính yếu dẫn vào Đại thừa.
(Xem: 11639)
Mỗi khi nói về vấn đề niềm tin trong đạo Phật, chúng ta thường hay dẫn chứng những lời Phật dạy trong kinh Kalama.
(Xem: 28801)
Kinh Quán Thế Âm bồ tát cứu khổ nằm trong Vạn tự chánh tục tạng kinh, ta quen gọi là tạng chữ Vạn, quyển1, số 34. Kinh này là một trong những kinh Ấn Độ soạn thuật, thuộc Phương đẳng bộ.
(Xem: 12047)
Trong Kinh Kim Cang có câu, “Nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai.” Nghĩa là, nếu thấy các tướng đều xa lìa tướng, tức là thấy Phật.
(Xem: 13002)
Kinh Kim Cương (hay Kim Cang), tên đầy đủ là Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Đa (Vajracchedika-prajñaparamita), là một trong những bài kinh quan trọng nhất của Phật giáo Đại Thừa
(Xem: 11440)
Trong sách Nhật Tụng Thiền Môn, chúng ta có Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 12370)
Kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật là một bộ kinh hoằng dương rất thịnh, phổ biến rất rộng trong các kinh điển đại thừa.
(Xem: 17436)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 53022)
Phương pháp sám hối Từ bi đạo tràng Mục Liên Sám Pháp - Nghi Thức Tụng Niệm
(Xem: 35481)
Từ bi Đạo Tràng, bốn chữ ấy là danh hiệu của pháp sám hối nầy... Thích Viên Giác dịch
(Xem: 21387)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 10676)
Năm 1984 khi bắt đầu lạy kinh Ngũ Bách Danh bằng âm Hán Việt thuở ấy, tôi không để ý mấy về ngữ nghĩa. Vì lúc đó lạy chỉ để lạy theo lời nguyện của mình.
(Xem: 19233)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 12403)
Một trong những bộ kinh quan trọng nhất của hệ tư tưởng Phật giáo Bắc truyền, không những có ảnh hưởng to lớn đối với tín đồ Phật giáo mà còn lôi cuốn được sự quan tâm của giới nghiên cứu, học giả Đông Tây, là Kinh Diệu Pháp Liên Hoa.
(Xem: 26034)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 13311)
Tác phẩm này có thể là hành trang cần thiết cho những ai muốn thực hành Bồ Tát giới theo đúng lời Phật dạy. Vì vậy, tôi trân trọng giới thiệu đến Tăng, Ni, Phật tử.
(Xem: 14375)
Nguyên tác Phạn ngữ Abhidharmakośa của Thế Thân, Bản dịch Hán A-tỳ-đạt-ma-câu-xá luận của Huyền Trang - Việt dịch: Đạo Sinh
(Xem: 16071)
Vào khoảng thời gian Phật ngự tại nước Tỳ Xá Ly, gần đến giờ thọ trai Ngài mới vào thành khất thực. Bấy giờ trong thành Tỳ Xá Ly có một chàng ly xa tên là Tỳ La Tứ Na (Dõng Quân).
(Xem: 13726)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp, Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ, Ngã kim kiến văn đắc thọ trì, Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa.
(Xem: 16827)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ Ngã kim kiến văn đắc thọ trì Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa
(Xem: 17569)
Vào khoảng 150 năm sau khi Bụt nhập Niết bàn, đạo Bụt chia thành nhiều bộ phái, kéo dài mấy trăm năm. Thời kỳ này gọi là thời kỳ Đạo Bụt Bộ Phái.
(Xem: 13114)
Nói đến kinh Pháp Hoa, các vị danh Tăng đều hết lòng ca ngợi. Riêng tôi, từ sơ phát tâm đã có nhân duyên đặc biệt đối với bộ kinh này.
(Xem: 12517)
A-hàm có thể đẩy tan những dục vọng phiền não đang thiêu đốt chúng ta và nuôi lớn giới thân tuệ mạng thánh hiền của chúng ta...
(Xem: 11606)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni sanh ở Ấn Độ, nên thuyết pháp đều dùng Phạn ngữ, Kinh điển do người sau kiết tập cũng bằng Phạn văn. Những bổn Kinh Phật bằng Trung văn đều từ Phạn văn mà dịch lại.
(Xem: 11599)
Có rất nhiều công trình thâm cứu có tính cách học giả về tác phẩm nầy dưới dạng Anh ngữ, Nhật ngữ và Hoa ngữ liên quan đến đời sống, khái niệm nồng cốt của tư tưởng Trí Khải Đại Sư trong mối tương quan với Phật giáo Trung Quán
(Xem: 14500)
Luật học hay giới luật học là môn học thuộc về hành môn, nhằm nghiên cứuthực hành về giới luật do đức Phật chế định cho các đệ tử
(Xem: 20460)
Quyển sách “Giáo Trình Phật Học” quý độc giả đang cầm trên tay là được biên dịch ra tiếng Việt từ quyển “Buddhism Course” của tác giả Chan Khoon San.
(Xem: 18985)
Tam Tạng Thánh Điển là bộ sưu tập Văn Chương Pali lớn trong đó tàng chứa toàn bộ Giáo Pháp của Đức Phật Gotama đã tuyên thuyết trong suốt bốn mươi lăm năm từ lúc ngài Giác Ngộ đến khi nhập Niết Bàn.
(Xem: 19555)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18644)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 12179)
Kinh này dịch từ kinh Pháp Ấn của tạng Hán (kinh 104 của tạng kinh Đại Chính) do thầy Thi Hộ dịch vào đầu thế kỷ thứ mười.
(Xem: 12295)
Đại Chánh Tân Tu số 0158 - 8 Quyển: Hán dịch: Mất tên người dịch - Phụ vào dịch phẩm đời Tần; Việt dịch: Linh-Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
(Xem: 13853)
Là Bộ Luật trong hệ thống Luật-Tạng do Bộ Phái Nhất Thiết Hữu thuộc hệ Thượng Tọa Bộ Ấn Độ kiết tập...Đại Tạng No. 1451
(Xem: 15018)
“Triệu Luận” là một bộ luận Phật Giáo do Tăng Triệu, vị học giả Bát nhã học, bậc cao tăng nổi tiếng đời Hậu Tần Trung Quốc, chủ yếu xiển thuật giáo nghĩa Bát nhã Phật Giáo.
(Xem: 15034)
Bộ chú giải này là một trong năm bộ luận giải thích về luật trong Luật bộ thuộc Hán dịch Bắc truyền Đại tạng kinh lưu hành tại Trung quốc và được đưa vào Đại chính tân tu Đại tạng kinh N.1462, tập 24 do Nhật bản biên tập.
(Xem: 13987)
Dịch theo bản in lần thứ nhất của Hoa Tạng Phật Giáo Đồ Thư Quán, Đài Bắc, tháng 2, năm Dân Quốc 81 - 1992
(Xem: 15508)
Hữu Bộ là một trường phái Phật Giáo quan trọng. Nếu không kể Thượng Toạ Bộ (Theravada, Sthaviravada) thì Hữu Bộbộ phái Phật Giáo duy nhất có được một hệ thống giáo lý gần như nguyên thuỷ...
(Xem: 11391)
Tôi nghe như vầy vào khoảng thời gian đức Phật ngự tại tinh xá Kỳ Hoàn thuộc nước Xá Vệ có ngàn vị tỳ theo tăng và mười ngàn đại Bồ tát theo nghe pháp.
(Xem: 17185)
Biện chứng Phá mê Trừ khổ - Prajnaparamita Hrdaya Sutra (Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm kinh); Thi Vũ dịch và chú giải
(Xem: 14971)
Là 2 bản Kinh: Kinh Phật Thuyết A Di Đà No. 366 và Kinh Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ No. 367
(Xem: 20188)
Bát-nhã tâm kinh (prajñāpāramitāhṛdayasūtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát-nhã ba-la-mật (prajñā-pāramitā). Trong bản Hán dịch của Huyền Trang, kinh gồm 262 chữ.
(Xem: 14609)
Như thật tôi nghe một thuở nọ Phật cùng các Tỳ kheo vân tập tại vườn cây của Trưởng giả Cấp cô ĐộcThái tử Kỳ Đà ở nước Xá Vệ.
(Xem: 13836)
Kinh này dịch từ kinh số 301 trong bộ Tạp A Hàm của tạng Hán. Tạp A Hàm là kinh số 99 của tạng kinh Đại Chính.
(Xem: 11703)
Đây là những điều tôi đã được nghe: Hồi ấy, có những vị thượng tọa khất sĩ cùng cư trú tại vườn Lộc Uyển ở Isipatana thành Vārānasi. Đức Thế tôn vừa mới nhập diệt không lâu.
(Xem: 15053)
Kinh Mục Kiền Liên hỏi năm trăm tội khinh trọng trong Giới Luật; Mất tên người dịch sang Hán văn, Thích Nguyên Lộc dịch Việt
(Xem: 12994)
Hán dịch: Hậu Hán, Tam tạng An Thế Cao người nước An Tức; Việt dịch: Tì-kheo Thích Nguyên Chơn.
(Xem: 22867)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434;, dịch Phạn sang Hán: Nguyên Ngụy Thiên Trúc Tam Tạng Cát-ca-dạ; Dịch Hán sang Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ...
(Xem: 14552)
Người giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không. Giảng tại: Tịnh Tông Học Hội Singapore. Người dịch: Vọng Tây cư sĩ. Biên tập: Phật tử Diệu Hương, Phật tử Diệu Hiền
(Xem: 11646)
Kinh này là kinh thứ mười trong Nghĩa Túc Kinh, nhưng lại là kinh thứ mười một trong Atthaka Vagga, kinh tương đương trong tạng Pali.
(Xem: 13164)
Có thể xem đây là "tập sách đầu giường" hay "đôi tay tỳ-kheo"; rất cần thiết cho mỗi vị Tỳ-kheo mang theo bên mình để mỗi ngày mở ra học tụng cho nhuần luật nghi căn bản.
(Xem: 16882)
Không Sát Sanh là giới thứ nhất trong Ngũ Giới. Chúng ta đang sống trong một thế giới bất toàn, mạnh hiếp yếu, lớn hiếp nhỏ, giết chóc tràn lan khắp nơi.
(Xem: 18337)
Kể từ khi đạo Phật truyền vào nước ta, hàng Phật tử tại gia trong bất cứ thời đại nào và hoàn cảnh nào cũng đã có những đóng góp thiết thực trong sứ mạng hộ trìhoằng dương chánh pháp.
(Xem: 11936)
Tạng Luật (Vinayapiṭaka) thuộc về Tam Tạng (Tipiṭaka) là những lời dạy và quy định của đức Phật về các vấn đềliên quan đến cuộc sống...
(Xem: 11493)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, Trưởng lão Māhakassapa (Ma-ha Ca-diếp) triệu tập 500 vị Tỳ-khưu A-la-hán để trùng tụng Pháp và Luật.
(Xem: 15844)
Bồ Tát Long Thọ - Cưu Ma La Thập Hán dịch; Chân Hiền Tâm Việt dịch & Giải thích; Xuất Bản 2007
(Xem: 12868)
Ngài Long Thọ, tác giả Trung Quán Luận và những kinh sách khác, được chư thiền đức xưng tán là Đệ nhị Thích Ca, đã vạch ra thời kỳ chuyển pháp lần thứ hai.
(Xem: 18903)
Vị Tăng, lấy Phật làm tính, lấy Như-Lai làm nhà, lấy Pháp làm thân, lấy Tuệ làm mệnh, lấy Thiền-duyệt làm thức ăn.
(Xem: 18416)
Trong Vi Diệu Pháp cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant