Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

08. Chương Oai Ðức Tự Tại

12 Tháng Ba 201100:00(Xem: 8970)
08. Chương Oai Ðức Tự Tại

KINH VIÊN GIÁC LUẬN GIẢNG
Thích Thông Huệ
Nhà xuất bản Tôn Giáo, Hà Nội 2006

Chánh văn và Lược giải

VIII. CHƯƠNG OAI ĐỨC TỰ TẠI 

Lúc bấy giờ, Bồ tát Oai Đức Tự Tại ở trong đại chúng, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ dưới chân Phật, nhiễu bên phải ba vòng, quỳ dài chắp taybạch Phật rằng: “Đại bi Thế Tôn! Ngài đã rộng vì chúng con phân biệt tùy thuận Giác-tánh như thế, khiến các Bồ tát Giác-tâm được sáng suốt, nương theo Viên-âm của Phật, không nhơn nơi sự tu tập mà được thiện lợi.

Bạch Đức Thế Tôn! Ví như một thành lớn, ngoài có bốn cửa, tùy những người ở các phương đến, chẳng phải chỉ một con đường. Tất cả Bồ tát trang nghiêm Phật quốcthành tựu Bồ đề, chẳng phải chỉ nhờ một phương tiện. Cúi xin Đức Thế Tôn rộng vì chúng con tuyên nói tất cả thứ lớp phương tiện, và những người tu hành gồm có mấy hạng, khiến các vị Bồ tát trong hội này và chúng sanh cầu Đại thừa đời mạt pháp chóng được khai ngộ, dạo chơi trong biển Đại-tịch-diệt của Như Lai”

Nói lời ấy rồi, năm vóc gieo xuống đất, thỉnh đi thỉnh lại từ đầu đến cuối như vậy ba lần.

Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo Bồ tát Oai Đức Tự Tại rằng: “Lành thay! Lành thay! Này Thiện nam tử! Các ông mới có thể vì các Bồ tátchúng sanh đời mạt pháp, hỏi Như Lai những phương tiện như thế. Ông hãy lắng nghe, ta sẽ vì ông mà nói”.

Khi ấy, Bồ tát Oai Đức Tự Tại rất đỗi vui mừng, vâng theo lời dạy, cùng đại chúng lắng sâu tâm thức mà nghe.

“Này Thiện nam tử! Tâm Diệu-giác vô-thượng trùm khắp mười phương xuất sanh ra Như Lai cùng tất cả các pháp, bình đẳng đồng thể. Đối với người tu hành thật không có hai, mà phương tiện tùy thuận thì vô số. Tuy nhiên, nếu tóm gọn về ý nghĩa “theo tánh sai biệt”, chỉ có ba pháp môn phương tiện.

Này Thiện nam tử! Các Bồ tát khi đã ngộ được Viên Giác thanh tịnh, dùng Giác tâm thanh tịnh đó giữ hạnh lặng lẽ. Do lắng hết các vọng niệm mà biết được thức tâm phiền động. Khi Tịnh Huệ phát sanh, thân tâm khách trần từ đây dứt hẳn, liền được nội tâm sinh ra lặng lẽ khinh an. Vì sự lặng lẽ này nên trong mười phương thế giới, tâm của các Như Lai hiện rõ vào đó, như bóng trong gương. Pháp phương tiện này gọi là Xa-ma-tha. 

Này Thiện nam tử! Khi các Bồ tát ngộ được Giác-tâm thanh tịnh, dùng Giác-tâm thanh tịnh ấy mà rõ được tâm tánh cùng các căn trần đều là huyễn hóa. Lúc ấy liền khởi ra huyễn trí để trừ các huyễn, biến hóa các pháp huyễn để khai thị chúng sanh như huyễn. Do khởi ra các huyễn ấy, nên liền được nội tâm phát ra lòng đại bi khinh an. Tất cả Bồ tát theo đây mà khởi hạnh, thứ lớp tăng tiến. Trí quán huyễn kia chẳng đồng với huyễn, nhưng do cái trí quán được điều ấy cũng là huyễn, nên huyễn tướng hằng dứt, các Bồ tát mới viên mãn được diệu hạnh, cũng như lúa mạ lớn lên nhờ đất. Pháp phương tiện này gọi là Tam-ma-bát-đề.

Này Thiện nam tử! Khi các Bồ tát ngộ được Viên Giác thanh tịnh, dùng Giác tâm thanh tịnh ấy mà không chấp thủ các huyễn hóa và các tướng tĩnh lặng. Lúc này, nhận rõ thân tâm đều là chướng ngại, nhưng Giác-minh vô-tri không y nơi các ngại, hằng siêu vượt qua những cảnh ngại và không ngại. Thọ dụng thế giới cùng với thân tâm, tuy tướng ở trong trần cảnh (nhưng không bị trần cảnh làm ngại) giống như tiếng từ trong chuông vượt thoát ra ngoài, phiền nãoNiết bàn không chướng ngại nhau. Bấy giờ, nội tâm liền phát sinh sự lặng lẽ khinh an. Cảnh giới tịch diệt tùy thuận của Diệu giác, thân và tâm tự tha đều không đến được; chúng sanh, thọ mạng đều là phù tưởng. Pháp phương tiện này gọi là Thiền-na.

Này Thiện nam tử! Ba pháp môn này đều là thân cận tùy thuận với Viên-giác. Mười phương Như Lai nhơn đây thành Phật, cho đến mười phương các Bồ tát tu tập nhiều thứ phương tiện, tất cả có dị đồng, cũng đều y nơi ba thứ sự nghiệp như thế, nếu được chứng ngộ viên mãn thì liền thành tựu Viên-giác. 

Này Thiện nam tử! Giả sử có người tu theo Thánh đạo, giáo hóa cho những người khác, thành tựu được trăm ngàn ức quả vị A-la-hán và Bích Chi Phật, cũng không bằng một người nghe pháp môn Viên-giác vô ngại này, tùy thuận tu tập chỉ trong một sát na”.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn trùng tuyên lại nghĩa này nên nói kệ rằng :

 “Oai Đức! Ông nên biết,
Tâm Đại-giác vô thượng

Xưa nay không hai tướng.

Tùy thuận các phương tiện 

Số kia đến vô lượng.

Như Lai tổng khai thị

Chỉ có ba pháp môn:

Tịch tịnh Xa-ma-tha

Như gương chiếu các tượng.

Như huyễn Tam-ma-đề

Như mạ dần tăng trưởng.

Thiền-na duy tịch diệt

Như tiếng thoát từ chuông.

Ba diệu pháp môn này

Đều tùy thuận Viên Giác

Mười phương các Như Lai 

Và các Đại Bồ tát

Nhơn đây được thành đạo.

Ba pháp được viên chứng

Đạt cứu cánh Niết bàn”. 

Trong chương Thanh Tịnh Huệ, chúng ta đã nghe Đức Phật đề cập đến hạnh tu và những cấp bậc tùy thuận Viên Giác. Chương này giản trạch về những pháp môn phương tiện tùy thuận tánh Viên Giác. Phương tiện thật ra có rất nhiều, nhưng tựu trung gồm ba pháp môn: Xa-ma-tha, Tam-ma-bát-đề và Thiền-na.

Vị Bồ tát đứng đầu bổn chương là Ngài Oai Đức Tự Tại. Oai đức là tướng trang nghiêm bên ngoài, Tự tại chỉ sức tự chủ bên trong. Ai muốn có hai đức tính trên, phải tu theo ba pháp môn được giảng nói trong chương này. 

Lúc bấy giờ, Bồ tát Oai Đức Tự Tại ở trong đại chúng, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ dưới chân Phật, nhiễu bên phải ba vòng, quì dài chắp taybạch Phật rằng: Đại bi Thế Tôn! Ngài đã rộng vì chúng con phân biệt tùy thuận Giác tánh như thế, khiến các Bồ tát Giác tâm được sáng suốt, nương theo Viên âm của Phật, không nhơn nơi sự tu tập mà được thiện lợi”: Ngay phần duyên khởi, Bồ tát Oai Đức Tự Tại đã bạch Phật rằng: Trong chương trước, Phật dạy về 4 cấp bậc tùy thuận Viên Giác và hạnh tu của từng cấp bậc. Khi nghe đến chỗ này, nhiều vị Bồ tát trong pháp hội được khai ngộ, không bao giờ lầm lẫn nữa. Điều đặc biệt là nhờ Viên âm của Phật mà được lợi ích thiện diệu, dù chưa trải qua tu tập. Vì sao được như vậy?

Chúng ta biết rằng, Viên-âm là âm thanh thuyết pháp chứa đựng ý nghĩa nhiệm mầu tròn đầy uy đức. Kinh thường mô tả, Đức Phật khéo thuyết ở đoạn đầu, khéo thuyết ở đoạn giữa và khéo thuyết ở đoạn sau. Danh từ chuyên môn gọi là Sơ thiện, Trung thiện và Hậu thiện. Như vậy từ khi bắt đầu đăng tòa thuyết pháp đến khi kết thúc, lời Phật dạy đều viên mãn vi diệu, nên được gọi là Viên âm, đầy đủ hai ý nghĩa :

- Một là, trong một buổi thuyết pháp của Phật, đại chúng có mặt đều được lợi ích, nhiều hay ít tùy trình độ căn cơ của mỗi người cao thấp khác nhau. Ví như một trận mưa trút xuống, tất cả cây cối thảo mộc đều được tưới nước mưa, nhưng thấm ướt nhiều ít là tùy cây lớn hay nhỏ.

- Hai là, lời dạy của Phật chứa đựng đầy đủ nghĩa lý sâu mầu. Nhà Thiền có câu “Tâm thông thuyết thông”. Người tu lấy tâm làm tông, nên khi một người ngộ được bổn tâm, ngôn ngữ người ấy dùng sẽ rất sinh độngphong phú. Đức Phật đã thành tựu giác ngộ viên mãn, nội lực tu tập bên trong của Ngài đã tròn đầy, nên khi biểu hiện ra ngôn ngữ bên ngoài, thì ngôn ngữ ấy luôn vi diệu. Người được nghe, dù chưa trải qua thời gian tu tập, vẫn có thể phát khởi niềm tin mạnh mẽ.

Bạch Đức Thế Tôn! Ví như một thành lớn, ngoài có bốn cửa, tùy những người ở các phương đến, chẳng phải chỉ một con đường. Tất cả Bồ tát trang nghiêm Phật quốcthành tựu Bồ đề, chẳng phải chỉ nhờ một phương tiện”: Muốn vào thành lớn, người bên ngoài có thể qua một trong bốn cửa. Từ nhiều phương đến, người nơi xa có thể đi rất nhiều đường chớ không phải một. Cũng như vậy, Bồ tát khắp mười phương, muốn dùng công đức trang nghiêm cõi Phậtthành tựu Bồ đề, có thể thiết lập rất nhiều phương tiện

Cúi xin Đức Thế Tôn rộng vì chúng con tuyên nói tất cả thứ lớp phương tiện, và những người tu hành gồm có mấy hạng, khiến các vị Bồ tát trong hội này và chúng sanh cầu Đại thừa đời mạt pháp chóng được khai ngộ, dạo chơi trong biển Đại tịch diệt của Như Lai”: Bồ tát thỉnh Phật tuyên nói những pháp môn phương tiện thứ lớp, và những hạng người tu hành tương ứng với các pháp môn ấy. Nhờ lời dạy của Phật, những người tu Đại thừa mau chóng ngộ tâm Viên Giác, sau đó khởi công tu tập, cuối cùng đạt đến sự tự tại trong vô công dụng hạnh, gọi là dạo chơi trong biển Đại tịch diệt của Như Lai

Nói lời ấy rồi, năm vóc gieo xuống đất, thỉnh đi thỉnh lại từ đầu đến cuối như vậy ba lần.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo Bồ tát Oai Đức Tự Tại rằng: “Lành thay! Lành thay! Này Thiện nam tử! Các ông mới có thể vì các Bồ tátchúng sanh đời mạt pháp hỏi Như Lai những phương tiện như thế. Ông hãy lắng nghe, ta sẽ vì ông mà nói”.

Khi ấy, Bồ tát Oai Đức Tự Tại rất đỗi vui mừng, vâng theo lời dạy, cùng đại chúng lắng sâu tâm thức mà nghe”: Đức Thế Tôn hứa khả sẽ nói về những pháp môn phương tiệnBồ tát Oai Đức Tự Tại cùng đại chúng lắng sâu tâm thức chuẩn bị nghe. Đây là một tư thế thiền tập mà tất cả thiền sinh chúng ta nên biết. Trước khi pháp sư thuyết giảng, người nghe phải bặt hết các duyên, nghĩa là phải dẹp hết mọi nguyên nhân làm tâm ta loạn động. Có như thế mới thẩm thấu được lời giảng dạy, mới có thể hiểu được những ý nghĩa sâu mầu mà nhiều lúc ngôn từ không diễn tả hết.

Kinh Pháp Hoa có nói: “Thập phương Bạt-già phạm, Duy hữu nhất thừa pháp, Vô nhị diệc vô tam”. Mười phương các đấng Như Lai chỉ có pháp nhất thừa, không hai cũng không ba. Đó là cứu cánh Phật thừa. Như vậy, chân lý chỉ có một còn phương tiện để đạt đến cứu cánh lại rất nhiều. Chúng sanh có tám vạn bốn ngàn trần lao phiền não thì Đức Phật cũng có ngần ấy pháp môn đối trị. Nhiều người hay chấp pháp, cho pháp tu của mình hay hơn cả, rồi chỉ trích chê bai pháp tu của người khác. Điều nầy không nên có ở người tu Phật. Chúng ta có quyền khen pháp môn của mình, tôn xưng vị Thầy của mình, nhưng cần tôn trọng pháp môn và vị Thầy của người khác, miễn sao đó là chánh pháp điều trị hết bệnh phiền não cho người. “Qui nguyên tánh vô nhị, phương tiện hữu đa môn”: Tánh bản nguyên của chúng sanh không hai không khác, nhưng phương tiện tu hành lại có nhiều cửa. Đức Phật được tôn xưng là Vô thượng Y Vương vì Ngài biết tùy bệnh cho thuốc, điều trị được mọi tâm bệnh cho chúng sanh

Này Thiện nam tử! Tâm Diệu giác vô thượng trùm khắp mười phương xuất sanh ra Như Lai cùng tất cả các pháp, bình đẳng đồng thể”: Như các chương trước, dù giảng về những phương tiện thứ lớp, nhưng đầu tiên Phật vẫn đi thẳng vào cứu cánh là tâm Viên-Giác. Tâm này trùm khắp mười phương, bình đẳng giữa chư Phật và chúng sanh, giữa tất cả pháp thế gianxuất thế gian. Sở dĩ nói tâm này xuất sanh ra Như Lai, vì tất cả Như Lai do liễu ngộ tâm này mà thành Phật, như kinh Bát Nhã nói: “Bát Nhã là mẹ của chư Phật mười phương ba đời”. Bát Nhã là Căn-bản-trí, chính là tâm Viên-Giác vậy.

Tâm Viên Giác không những xuất sanh tất cả Như Lai, mà còn xuất sanh tất cả các pháp. Bởi vì tất cả pháp đều từ tâm sanh, tâm không chỗ sanh thì pháp không chỗ trụ. Khi tâm biến đổi sanh diệt, các pháp có nhiều hình trạng vô thường; khi tâm ở trong trạng thái nhất như, mọi pháp cũng đều trong tự thể bình đẳng. Nói khác đi, khi ngộ được tâm Viên Giác thì các pháp trở nên thanh tịnh, khi mê tâm Viên Giác thì các pháp biến thành nhiễm ô. Nhưng tất cả pháp dù tịnh hay nhiễm cũng đều lấy Viên Giác làm tự thể, nên Phật nói “Bình đẳng đồng thể”. 

Đối với người tu hành thật không có hai, mà phương tiện tùy thuận thì vô số. Tuy nhiên, nếu tóm gọn về ý nghĩa theo tánh sai biệt, chỉ có ba pháp môn phương tiện”: Vì tất cả pháp đều lấy Viên Giác làm thể, nên người tu hành cũng phải lấy việc ngộ tự tâm Viên Giác làm mục đích rốt ráo, không có mục đích thứ hai nào nữa. Tuy nhiên, do trình độ căn cơ của chúng sanh sai biệt không đồng, nên phương tiện tu hành tương ứng phải nhiều vô số. Dù vậy, tóm tắt cũng không ngoài ba phương pháp thực hành

1- Xa-ma-tha: Là pháp môn tu dừng mọi vọng tâm loạn động. Liên hệ với Nhất-tâm-tam-quán của tông Thiên-thai, thì Xa-ma-tha đồng với quán Không, tức thuộc Chơn đế.

2- Tam-ma-bát-đề: Là pháp môn tu tương đương với quán Giả bên tông Thiên Thai, thuộc về Tục đế.

3- Thiền na: Là Quân bình Chỉ-quán, tức Định-Huệ đẳng trì, đồng với quán Trung của tông Thiên Thai, thuộc về Trung-đạo-đế.

Chúng ta nên phân biệt Xa-ma-tha và Tam-ma-bát-đề, tức Ma-ha-chỉ-quán, với Chỉ và Quán của Tiểu thừa. Chỉ quán của Tiểu thừaTiệm tu, nhờ Chỉ hay Quán được thuần thục, cuối cùng được giải thoát, tức là từ ngoài tu vào. Còn Ma-ha-chỉ-quán của Đại thừa, trước phải ngộ tâm Viên Giác rồi mới tu, tức từ trong tu ra. Cho nên, không phải ngộ rồi là xong việc, mà còn phải trải qua thời gian tu hành, nhanh hay chậm tùy căn cơ và sự tinh tấn của mỗi người.

Này Thiện nam tử! Các Bồ tát khi đã ngộ được Viên Giác thanh tịnh, dùng Giác tâm thanh tịnh đó giữ hạnh lặng lẽ. Do lắng hết các vọng niệm mà biết được thức tâm phiền động. Khi Tịnh Huệ phát sanh, thân tâm khách trần từ đây dứt hẳn, liền được nội tâm sinh ra lặng lẽ khinh an”: Đức Phật bắt đầu dạy về phương pháp Xa-ma-tha. Bồ tát trước tiên phải ngộ tâm Viên Giác, sau mới dùng tâm ấy giữ cái hạnh lặng lẽ. Rõ ràng ở đây Phật dạy tu theo Tánh-biết-vọng, y nơi nhơn không sanh diệtGiác tâm thanh tịnh mà lắng hết các vọng niệm khởi ra trên thức tâm. Khi vọng niệm đã lắng, ta thấy thức tâm phiền động sanh diệt một cách tường tận. Đó là cái bị thấy, thuộc về khách. Một số thiền sinh thắc mắc, sau một thời gian công phu lại thấy mình có quá nhiều vọng tưởng lăng xăng. Do vì tâm yên lặng, chúng ta nhận diện được vọng, đưa vọng ra ánh sáng của tự tâm; vậy là tiến được một bước, trong khi người đời không biết vọng là gì, ngỡ tâm suy nghĩ là mình nên mãi bị vọng kéo lôi. Tu Chỉ ở đây là dùng Giác tâm lắng tất cả ý niệm, nghĩa là từ cái nhân vô sanh mà tu ra. Do dụng công lắng niệm nên phát huệ, vì thế Phật gọi là Tịnh-Huệ phát sanh. Lúc ấy, chúng ta thấy thân tứ đạigiả hợp không phải là mình, tâm vọng duyên ảnh sáu trần, cũng chỉ là khách; thân tâm khách trần sẽ lặng dứt.

Nhưng mà, cái gì biết được thân tâm sanh diệt là khách trần? Chúng ta phải khéo nhận ra cái thường biết đó. Khi nhận ra được nó, chúng ta không còn tu theo lối điểm mặt từng vọng một, như Thạch-Củng thợ săn, một mũi tên chỉ bắn trúng một con mồi; mà phải như Mã-Tổ Đạo-Nhất, một mũi tên bắn trúng một bầy! Lúc này, đi đứng nằm ngồi, mọi trạng thái của thân và tâm, chúng ta đều hằng biết. Những cụm mây vô minh bây giờ không còn làm ngăn ngại nền trời tự tánh nữa, mà tô điểm cho nền trời. Tự nhiên chúng ta sẽ thấy nội lực sung mãn, bên trong cảm thấy lặng lẽ nhẹ nhàng. Nhưng cũng nên lưu ý một điều: Đừng bám vào trạng thái lặng lẽ ấy làm kế sống, vì như vậy chúng ta đã chấp vào những cảm thọ. Kinh Lăng Nghiêm gọi đó là Ma Thọ Ấm, không phải là cứu cánh.

Vì sự lặng lẽ này nên trong mười phương thế giới, tâm của các Như Lai hiện rõ vào đó, như bóng trong gương. Pháp phương tiện này gọi là Xa-ma-tha”: Khi gương hết bụi bặm, những hình ảnh bên ngoài sẽ hiện rõ một cách trung thực. “Hồ đến hiện Hồ, Hán đến hiện Hán”, như câu nói trong nhà Thiền. Cũng vậy, tâm càng an định thì càng nhận rõ các phiền động trên thức tâm, kể cả nhưng vọng vi tế; và ở bất cứ tư thế nào của thân, chớ không phải chỉ trong lúc tọa thiền. Khi đạt được sự lặng lẽ khinh an, vọng niệm dứt sạch, vô minh hằng đoạn, Pháp thân hiện bày. Tâm chúng ta lúc này tương ứng với tâm của chư Phật mười phương, nên tâm Phật hiện rõ trong tâm ta. Tâm gương trong sáng của ta và tâm gương chư Phật chiếu nhau, in bóng lên nhau mà không có sự ngăn ngại.

Này Thiện nam tử! Khi các Bồ tát ngộ được Giác tâm thanh tịnh, dùng Giác tâm thanh tịnh ấy mà rõ được tâm tánh cùng các căn trần đều do huyễn hóa”: Đây là pháp tu thứ hai, Tam-ma-bát-đề tức tu Quán. Bồ tát trước phải ngộ Giác tâm thanh tịnh, sau mới dùng Giác tâm ấy rõ biết sáu căn, sáu trần và sáu thức đều nhơn huyễn hóa mà có. Pháp tu này cũng theo Tánh-biết-vọng như pháp Xa-ma-tha nói trên.

“Lúc ấy liền khởi ra huyễn trí để trừ các huyễn, biến hóa các pháp huyễn để khai thị chúng sanh như huyễn. Do khởi ra các huyễn ấy, nên liền được nội tâm phát ra lòng đại bi khinh an”: Trong chương Phổ Nhãn, Đức Phật đã giảng về lý như huyễn rất cặn kẽ. Ở đây, Phật dạy chúng ta phương tiện dùng huyễn để trừ huyễn. Bởi vì ở giai đoạn đầu đang dụng công, nếu không dùng tâm năng huyễn để trừ cảnh sở huyễn thì chúng ta biết lấy gì để tu? Cho nên, lần lượt theo thứ tự, khởi đầu ta biết căn-trần-thức là do huyễn hóa, dùng trí như huyễn phá sạch vô minh. Sau đó, huyễn trí này phát ra diệu dụng, thi thiết phương tiện giáo hóa chúng sanh như huyễn

Bồ tát nhơn nơi huyễn trí, hiểu được tất cả chúng sanh đều bình đẳng cùng chư Phật, chỉ vì bị các huyễn quay cuồng mà quên đi Giác tánh. Quán sâu như vậy, Bồ tát thành tựu quán trí, phát ra sự khinh an từ nội tâmlòng từ bi rộng lớn đối với muôn loài. Công phu càng sâu thì tình thương trang trải cho chúng sanh càng tự nhiên và sự cảm thông càng nẩy nở.

Tất cả Bồ tát theo đây mà khởi hạnh, thứ lớp tăng tiến. Trí quán huyễn kia chẳng đồng với huyễn, nhưng do cái trí quán được điều ấy cũng là huyễn, nên huyễn tướng hằng dứt, các Bồ tát mới viên mãn được diệu hạnh, cũng như lúa mạ lớn lên nhờ đất. Pháp phương tiện này gọi là Tam-ma-bát-đề”: Bồ tát khởi hạnh quán như huyễn theo thứ lớp như trên, càng lúc càng tăng tiến. Đến một lúc nào đó, Bồ tát lại thấy rằng cái huyễn trí chẳng đồng với huyễn hóa kia, cuối cùng cũng là huyễn. Đã biết là huyễn nên lại xa lìa. Cứ như thế mà tiến sâu vào, đến mức độ không xa lìa được nữa, gọi là “huyễn tướng hằng dứt”, Tuy vậy, Bồ tát phải y cứ vào đất tâm của mình mới viên mãn diệu hạnh, như lúa mạ phải nhờ đất mới lớn lên được.

Liên hệ đến phương pháp “Biết vọng không theo”, chúng ta thấy có sự tương đồng. Lúc tọa thiền, thấy vọng khởi lên, chúng ta biết là vọng liền buông. Đó là dùng cái tâm-năng-biết để buông cái vọng-bị-biết. Khi vọng-bị-biết đã hết, phải buông luôn cái tâm-năng-biết, vì đó không phải là cứu cánh mà chỉ dùng tạm thời làm phương tiện, trong giai đoạn đầu tu tập, chính là huyễn-trí được diễn tả trong kinh này.

Tuy nhiên, nếu còn nằm trong vòng đối đãi năng và sở thì chúng ta cứ buông vọng mãi, không bao giờ hết vọng được. Chỉ khi nào chúng ta liễu hội được rằng, phải y cứ nơi tự thể mà buông, nghĩa là từ trong tu ra, thì mới dứt được vọng và sự tu hành rất nhẹ nhàng. Kinh Lăng Nghiêm nói “Thức tâm thường trụ”, không bao giờ dẹp sạch thức-tâm. Trong kinh Lăng Già, Phật dạy: “Tức vọng tức chơn”. Cho nên, trong giai đoạn sau, khi liễu vọng, chuyển thức thành trí, chúng ta mới biết, dụng công đối trị chỉ là tạm thời điều phục tâm. Bởi vì, ngay vọng đã là chơn, không thể tìm chơn ở ngoài vọng; cũng như ngay sóng đã là nước, không cần dẹp sóng mới có nước. Sau 49 ngày đêm thiền định, khi sao Mai vừa mọc, Đức Phật hoát nhiên đại ngộ chính là nhận ra tự tâm Viên Giác có sẵn trong thân ngũ uẩn sanh diệt này.

Như vậy, khi tu theo phương tiện Tam-ma-bát-đề này, nếu còn đối đãi giữa tâm và cảnh, giữa năng và sở thì quán chưa được rốt ráo. Khi xa lìa hết các huyễn, không còn tâm năng-quán và cảnh sở-quán, tánh Viên Giác phi huyễn mới hiện bày. Tánh Viên Giác không đồng với huyễn, nhưng nó là tự thể của tất cả các huyễn. Khi nhận ra được điều này, chúng ta mới biết các pháp là huyễn nhưng vẫn thường Như, vì mọi pháp đều ở trong Như tánh, đều từ tâm Viên Giác phát sinh ra. Lúc này, ta không còn khởi quán nữa, đến chỗ vô công dụng hạnh là pháp quán thành tựu viên mãn.

Này Thiện nam tử! Khi các Bồ tát ngộ được Viên Giác thanh tịnh, dùng Giác tâm thanh tịnh ấy mà không chấp thủ các huyễn hóa và các tướng tĩnh lặng”: Đức Phật giảng về pháp thứ ba, gọi là Thiền na. Bồ tát sau khi ngộ được Viên Giác thanh tịnh, một mặt không chấp giữ các huyễn hóa tức không dính mắc vào pháp Quán; mặt khác, không chấp vào các tướng tĩnh lặng do tu Chỉ. Đây chính là quân bình Chỉ quán, khiến cho Định và Huệ đồng đều.

Lúc này, nhận rõ thân tâm đều là chướng ngại, nhưng Giác minh vô tri không y nơi các ngại, hằng siêu vượt qua những cảnh ngại và không ngại”: Bồ tát tu Thiền na, vừa dứt được vọng tưởng lăng xăng, vừa quán các pháp như huyễn một cách sâu xa, nên nhận rõ rằng, cả thân lẫn tâm đều là chướng ngại. Lúc này, Bồ tát thấy rõ cái Giác minh vô tri của mình ở ngay nơi các ngại ấy mà không vướng mắc ngại. Từ “vô tri” ở đây không phải là không biết gì, mà là đồng nghĩa với vô tâm. Giác minhGiác tâm sáng tỏ, đó là Huệ; Vô tri là Định; chính là Tự tánh Định và Tự tánh Huệ. 

Các ngại” là chỉ chung các tướng đối đãi: “Cảnh ngại” chính là các Căn, Trần và Thức, đồng với phiền não; “Không ngại” là nội tâm tịch tịnh của mình, đồng với Niết bàn. Phiền nãoNiết bàn, cả hai đều không nhiễm. Như vậy, không vướng vào các pháp là vượt qua cảnh ngại, tức lìa được sự chướng, dứt tận phiền não; không dính vào chỗ lặng lẽvượt qua cảnh không ngại, tức lìa được Lý-chướng, chẳng thủ Niết bàn.

Thọ dụng thế giới cùng với thân tâm, tuy tướng ở trong trần cảnh (nhưng không bị trần cảnh làm ngại), giống như tiếng từ trong chuông vượt thoát ra ngoài, phiền nãoNiết bàn không chướng ngại nhau”: Vì đã lìa được hai chướng, nên dù còn mang thân ngũ uẩn, còn ở trong trần lao, nhưng Bồ tát không thấy ngăn ngại. Giống như khi đánh chuông, tiếng trong chuông thoát ra ngoài một cách dễ dàng. Thức tâm của ta cũng vậy, dù gá trong thân ràng buộc, khi được chuyển hóa đến rốt ráo, nó sẽ không bị giới hạn trong thân. Lúc ấy ta thấy mình chính là vũ trụ vạn hữu, ta và muôn pháp đều hòa trong thế giới đại đồng. Tất cả là một và một là tất cả. Vì thế, các Bồ tát dù ở trần lao mà vẫn tự tại, hành Bồ tát đạo giáo hóa chúng sanh trong tinh thần Ba-la-mật. 

Bấy giờ, nội tâm liền phát sinh sự lặng lẽ khinh an. Cảnh giới tịch diệt tùy thuận của Diệu giác, thân và tâm tự tha đều không đến được; chúng sanh, thọ mạng đều là phù tưởng. Pháp phương tiện này gọi là Thiền na”: Không đọa vào phiền não của pháp thế gian, cũng không sa vào Niết bàn của pháp xuất thế gian, nội tâm liền phát sinh sự lặng lẽ khinh an. Đây là trạng thái đại định, trở về với tự tánh thanh tịnh, khác với sự lặng lẽ của người tu Chỉ.

cảnh giới tịch diệt này, chỉ có địa vị Diệu giác mới có thể tùy thuận; thân tâm của ta và người không làm sao tạo tác hay phân biệt nổi. “Thân và tâm tự tha” là hai tướng Nhơn và Ngã, hợp với “Chúng sanh và thọ mạng” thành Tứ tướng, theo tinh thần của kinh Kim Cang. Cả bốn tướng này đều là con đẻ của vọng tưởng, chỉ là tướng hư phù trôi nổi trên nền trời tự tánh.

Như vậy, tu Thiền na là Chỉ Quán song vong hay quân bình Chỉ quán. Hành giả không kẹt trong tịch tịnh của Chỉ, cũng không rơi vào chấp các huyễn của Quán. Tự tánh Viên Giác vốn tự tịnh tự định, tự chiếu tự soi mà không do tạo tác, cho nên hành giảthể đạt đến trạng thái vô công dụng hạnh.

Này Thiện nam tử! Ba pháp môn này đều là thân cận tùy thuận với Viên Giác. Mười phương Như Lai nhơn đây thành Phật, cho đến mười phương các Bồ tát tu tập nhiều thứ phương tiện, tất cả có dị đồng, cũng đều y nơi ba thứ sự nghiệp như thế, nếu được chứng ngộ viên mãn thì liền thành tựu Viên Giác”: Trong ba pháp môn nói trên, nếu ai tùy thuận tu tập bất cứ pháp môn nào, cũng có thể thành tựu Viên Giác. Mười phương các Đức Như Lai cũng nhờ ba pháp môn này mà thành Phật quả. Các vị Bồ tát, dù tu bao nhiêu phương tiện khác nhau, cũng đều y nơi ba sự nghiệp này. Ai chứng ngộ được viên mãn thì đều thành tựu đạo nghiệp.

Này Thiện nam tử! Giả sử có người tu theo Thánh đạo, giáo hóa cho những người khác, thành tựu được trăm ngàn ức quả vị A-la-hán và Bích Chi Phật, cũng không bằng một người nghe pháp môn Viên Giác vô ngại này, tùy thuận tu tập chỉ trong một sát na”: Ở đây có sự so sánh giữa tinh thần Nhị thừaBồ tát Đại thừa. Hàng Nhị-thừa, nếu tu theo Tứ đế thì thành tựu A-la-hán, nếu tu theo Thập nhị nhơn duyên thì thành Duyên-giác. Các vị khi chứng Niết bàn, bản thân mình được giải thoát nhưng chỉ là tròn hạnh tự lợi, không có chí lợi tha. Bồ tát Đại thừa, khi nhận ra bổn tâm chân thật của chính mình, thấy mình và mọi chúng sanh đều đồng một thể tánh. Từ đó phát sinh đồng thể đại bi, phát đại nguyện vào tất cả các cõi giáo hóa chúng sanh. Các vị tu tập Lục độ theo tinh thần Ba-la-mật, vừa tự lợi vừa lợi tha qua nhiều đời kiếp không biết mệt mỏi, cho đến ngày công hạnh viên mãn. Do vậy, giữa hai hạnh tu, Đức Phật cho thấy sự khác biệt một trời một vực giữa Bồ tát đạo và Nhị-thừa đạo. 

Bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn trùng tuyên lại nghĩa này nên nói kệ rằng :

Oai Đức! Ông nên biết,
Tâm Đại giác vô thượng

Xưa nay không hai tướng”.

Tâm Viên Giác sẵn đủ ở mỗi chúng sanh, không có gì hơn. Từ xưa đến nay chỉ có một Phật thừa, không hai cũng không ba. 

Tùy thuận các phương tiện
Số kia đến vô lượng.

Như Lai tổng khai thị

Chỉ có ba pháp môn”.

Do chúng sanh căn tánh không đồng nên phương tiện tu hành tương ưng cũng nhiều vô kể. Tuy vậy, Đức Phật gom lại tựu trung chỉ có ba pháp môn

Tịch tịnh Xa-ma-tha
Như gương chiếu các tượng”.

Pháp môn thứ nhất là Xa-ma-tha, dùng Giác tâm lắng tất cả ý niệm. Khi vọng tưởng dứt sạch, gương tâm trong sáng in rõ thế giới vạn hữu cùng tâm của mười phương các Đức Như Lai.

Như huyễn Tam-ma-đề
Như mạ dần tăng trưởng”.

Pháp môn thứ hai là Tam-ma-bát-đề, quán như huyễn theo thứ lớp, cũng y cứ vào Giác tâm thanh tịnh, càng ngày càng tăng tiến, như lúa mạ ngày càng lớn.

“Thiền na duy tịch diệt
Như tiếng thoát từ chuông”.

Pháp môn thứ ba là Thiền na. Bồ tát cũng dùng Giác tâm, vừa dứt vọng tưởng vừa quán các pháp như huyễn đến mức độ siêu việt được cả Sự chướngLý chướng. Lúc này, dù còn có thân ngũ uẩn, còn trong trần lao, nhưng Bồ tát đã được tự tại, như tiếng trong chuông thoát ra ngoài một cách dễ dàng khi đánh chuông.

Ba diệu-pháp-môn này 
Đều tùy thuận Viên Giác 

Mười phương các Như Lai

Và các Đại-Bồ-tát

Nhơn đây được thành đạo.

Ba pháp được viên chứng

Đạt cứu cánh Niết-bàn”. 

Ba pháp môn vi diệu này, nếu ai viên dung tu chứng cũng đều thành tựu Phật đạo. Mười phương Như Lai và các Đại Bồ tát cũng nhơn đây tu tậpthành đạo quả.

Để đúc kết bổn chương, chúng ta cần nắm vững ba pháp tu theo Viên Giác này. Có hiểu rõ từng pháp môn, khi học đến chương sau, chúng ta mới không bị rối rắm :

1- XA-MA-THA.

Trung Hoa dịch là Tác Chỉ, thuộc về Tịnh hạnh, tu theo Vô-vi nên là Tịnh-quán.

Tác Chỉ nghĩa là dừng mọi tạo tác của tâm thức, Chỉ tự nhiên đưa đến Định. Thuộc về Tịnh-hạnh vì dừng mọi loạn động của tâm, trả tâm về trạng thái thanh tịnh. Xa-ma-tha an tâm ở nơi Vô-vi, quét sạch mọi tạo tác sanh diệt của tâm thức, cho nên thuộc Tịnh-quán, nghĩa là Quán về trạng thái thanh tịnh

Đối chiếu với Nhất tâm tam quán của Tông Thiên-Thai, Xa-ma-tha tương đương Không-Quán, thuộc về Chơn đế. Đây là quán về Không, tâm trở nên tịch tịnh lặng lẽ.

2- TAM-MA-BÁT-ĐỀ.

Trung Hoa dịch là Tác Quán, thuộc về Huyễn hạnh, tu theo Hữu-vi nên là Huyễn-quán.

Tác Quán nghĩa là Quán các pháp đều như huyễn, từ đó dừng hết mọi tạo tác của tâm. Thuộc về Huyễn-hạnh vì đây là hạnh tu trực tiếp vào mọi sự vật hiện tượng, thấy các pháp đều là huyễn, không còn chấp vào thân-tâm và cảnh. Do y cứ vào các pháp có hình tướng nên tu theo Hữu-vi, thuộc Huyễn quán, nghĩa là Quán về tính chất như huyễn của các pháp.

So sánh bên Tông Thiên Thai, Tam-ma-bát-đề tương đương Giả-Quán, thuộc về Tục-đế. Đây là quán mọi sự vật đều giả hợp, không thật có.

3- THIỀN-NA.

Trung Hoa dịch là Tác-Tư-duy, thuộc về Tịch-hạnh. Đây tu theo Tịnh-Huyễn song vong hoặc Chỉ Quán bất nhị nên thuộc Tịch quán, tương đương với Trung quán bên Tông Thiên Thai, thuộc Trung đế.

Tác-Tư-duy nghĩa là do tư duy mà dừng mọi tạo tác. Kinh Di Giáo nói, Đức Phật tư- duy về việc độ sanh. Đây chính là tư-duy theo nghĩa này. Tư-duy ở đây là diệu dụng của tự tánh, nên dù có tư-duy mà không tạo tác. Tâm khởi niệm đều xứng theo tự tánh, không rơi vào tình trạng đầu thêm đầu, đuôi thêm đuôi. Nơi tri kiến mà không thêm tri kiến, biết tất cả mà không thêm hiểu biết. Điều này rất phù hợp với tinh thần Thiền Đốn-ngộ, cũng là tu theo Tánh biết vọng

Tịch-hạnh là hạnh tu bằng trạng thái lặng lẽ bản lai của tự tánh. Tịnh-Huyễn song vong nghĩa là không tu theo Chỉ, cũng không theo Quán mà điều hợp cả hai để xứng với Giác tâm. Đây là lối tu tuyệt kỹ, không còn pháp đối trị, bởi vì nhận rõ mọi đối đãi nhị nguyên đều là con đẻ của vọng tưởng. “Chỉ” là trạng thái yên định của tự tánh, “Quán” là dụng chiếu soi của tự tánh. Chỉ là thể, Quán là dụng. Thể và dụng chỉ là hai mặt của một thực thể nhiệm mầu, cho nên nói Chỉ-Quán bất nhị.

Ngài Thần Hội nói “Vô niệm niệm ấy tức niệm chân như, Vô sanh sanh ấy tức sanh thật tướng” - Vô niệm mà vẫn hằng niệm, Vô sanh nhưng vẫn cứ sanh. Cũng như Lục Tổ “Đối cảnh tâm cứ sanh” bởi vì “An tâm tại vọng tình. Ngay đó không ba chướng”. Nếu chúng ta đi vào con đường Trung-đạo-đế, Đệ-nhất-nghĩa-đế này, nhận ra Vọng tức chơn, Thể tức Dụng - Dụng tức thể, ta sẽ rõ tinh thần của Bát Nhã Tâm kinh “Sắc tức thị không, không tức thị Sắc”. Ta sẽ rõ, Sắc ở đây là Chơn Sắc, là diệu dụng; Không ở đây là Chơn Không, chính là bản thể

Học đến đây, chúng ta càng thấy tinh thần thiền Đốn Ngộ phù hợp vô cùng với giáo điển. Có thể nói, Thiền là tâm của Phật, mà Giáo là miệng của Phật. Từ đó, chúng ta lại càng có niềm tin vững chắc vào đường lối tu hành của mình. Vấn đề còn lại là chúng taquyết tâm đi theo con đường đó hay không. Nếu chúng ta cứ kiên trì đi mãi, đi không biết mệt mỏi và cũng không cần biết bao giờ sẽ đến đích, nhất định có ngày chúng ta sẽ thành tựu Phật quả.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11631)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11945)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11101)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11340)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 12060)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12551)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10761)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 17972)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11722)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9942)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10167)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12348)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15336)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11238)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14325)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12094)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15356)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 11997)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12400)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11171)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12084)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10602)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12553)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13158)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14834)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12675)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16567)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19657)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13104)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12661)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12251)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11842)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10897)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13518)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11944)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11839)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11627)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12761)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14513)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12611)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15663)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13620)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12892)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9859)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 18014)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11161)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 9076)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12171)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 13041)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10297)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12184)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15303)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16605)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12212)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11463)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14265)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19696)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14145)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24603)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10679)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant