Thích Thông Huệ
Nhà xuất bản Tôn Giáo, Hà Nội 2006
Lúc bấy giờ, Bồ tát Biện Âm ở trong đại chúng, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ dưới chân Phật, nhiễu bên phải ba vòng, quỳ dài chắp tay mà bạch Phật rằng: “Đại bi Thế Tôn! Pháp môn như thế, thật là hy hữu! Bạch Đức Thế Tôn! Các phương tiện này, tất cả Bồ tát đối với môn Viên Giác, có bao nhiêu phương thức tu tập? Nguyện Đức Thế Tôn vì đại chúng và chúng sanh đời mạt pháp mà phương-tiện khai-thị, khiến ngộ thật-tướng”.
Nói lời ấy rồi, năm vóc gieo xuống đất, thỉnh đi thỉnh lại từ đầu đến cuối như vậy ba lần.
Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo Bồ tát Biện Âm rằng: “Lành thay! Lành thay! Này Thiện nam tử! Các ông mới có thể vì các Bồ tát và chúng sanh đời mạt pháp, hỏi Như Lai về những pháp môn tu tập như thế. Ông hãy lắng nghe, ta sẽ vì ông mà nói”.
Khi ấy, Bồ tát Biện Âm rất đỗi vui mừng, vâng theo lời dạy, cùng đại chúng lắng sâu tâm thức mà nghe.
“Này Thiện nam tử! Tánh Viên Giác thanh tịnh của tất cả Như Lai vốn không có người tu tập và pháp tu tập. Tất cả Bồ tát và chúng sanh đời mạt pháp, nương nơi sức huyễn chưa giác ngộ mà tu hành, lập bày ra hai mươi lăm thứ định-luân thanh-tịnh:
1- Nếu các Bồ tát chỉ giữ sự lặng lẽ cùng cực; do sức lặng lẽ đó, hằng đoạn được phiền não, cứu cánh thành tựu, không rời chỗ ngồi, liền vào Niết bàn. Vị Bồ tát này gọi là “Riêng tu Xa-ma-tha”.
2- Nếu các Bồ tát chỉ quán như huyễn, nhờ Phật lực biến hóa thế giới, có nhiều thứ tác dụng, đầy đủ diệu hạnh thanh tịnh của Bồ tát, đối với Đà-la-ni không mất đi Tịch-niệm và các Tĩnh-huệ. Vị Bồ tát này gọi là “Riêng tu Tam-ma-bát-đề”.
3- Nếu các Bồ tát chỉ diệt các huyễn, không giữ nơi tác dụng, riêng đoạn được phiền não; phiền não đoạn sạch liền chứng thật tướng. Vị Bồ tát này gọi là “Riêng tu Thiền-na”.
4- Nếu các Bồ tát, trước giữ sự chí tĩnh, dùng tâm tịnh-huệ chiếu các pháp huyễn, liền ở trong đó khởi hạnh Bồ-tát. Vị Bồ-tát này gọi là “Trước tu Xa-ma-tha, sau tu Tam-ma-bát-đề”.
5- Nếu các Bồ tát, trước dùng tịnh huệ chứng đến chỗ tánh tĩnh lặng, liền đoạn phiền não, hằng thoát khỏi sanh tử. Vị Bồ tát này gọi là “Trước tu Xa-ma-tha, sau tu Thiền-na”.
6- Nếu các Bồ tát, dùng huệ Tịch tĩnh lại hiện sức huyễn, nhiều thứ biến hóa để độ chúng sanh; sau đó đoạn hết phiền não mà vào Tịch-diệt. Vị Bồ tát này gọi là “Trước tu Xa-ma-tha, giữa tu Tam-ma-bát-đề, sau tu Thiền-na”.
7- Nếu các Bồ tát, dùng sức chí tĩnh đoạn hết phiền não, sau đó khởi lên diệu hạnh thanh tịnh của Bồ tát độ các chúng sanh. Vị Bồ tát này gọi là “Trước tu Xa-ma-tha, giữa tu Thiền-na, sau tu Tam-ma-bát-đề”.
8- Nếu các Bồ tát, dùng sức chí tĩnh tâm đoạn phiền não, lại độ chúng sanh, kiến lập thế giới. Vị Bồ tát này gọi là “Trước tu Xa-ma-tha, sau đồng tu Tam-ma-bát-đề và Thiền-na”.
9- Nếu các Bồ tát, dùng sức chí tĩnh giúp phát biến-hóa, sau đoạn phiền não. Vị Bồ tát này gọi là “Trước đồng tu Xa-ma-tha và Tam-ma-bát-đề, sau tu Thiền-na”.
10- Nếu các Bồ tát, dùng sức chí tĩnh giúp tịch diệt, sau đó khởi tác dụng, biến hóa thế giới. Vị Bồ tát này gọi là “Trước đồng tu Xa-ma-tha và Thiền-na, sau tu Tam-ma-bát-đề”.
11- Nếu các Bồ tát, dùng sức biến hóa mỗi mỗi tùy thuận, mà vẫn giữ được chí tĩnh. Vị Bồ tát này gọi là “Trước tu Tam-ma-bát-đề, sau tu Xa-ma-tha”.
12- Nếu các Bồ tát, dùng sức biến hóa tất cả cảnh giới, mà vẫn giữ được sự tịch diệt. Vị Bồ tát này gọi là “Trước tu Tam-ma-bát-đề, sau tu Thiền-na”.
13- Nếu các Bồ tát, dùng sức biến hóa làm tất cả Phật sự, mà vẫn an trụ nơi tịch tĩnh và đoạn phiền não. Vị Bồ tát này gọi là “Trước tu Tam-ma-bát-đề, giữa tu Xa-ma-tha, sau tu Thiền-na”.
14- Nếu các Bồ tát, dùng sức biến hóa, khởi tác dụng vô ngại đoạn các phiền não, rồi an trụ nơi chí-tĩnh. Vị Bồ tát này gọi là “Trước tu Tam-ma-bát-đề, giữa tu Thiền-na, sau tu Xa-ma-tha”.
15- Nếu các Bồ tát, dùng tác dụng phương tiện của sức biến hóa, đạt đến chỗ chí-tĩnh và tịch- diệt, cả hai đều tùy thuận. Vị Bồ tát này gọi là “Trước tu Tam-ma-bát-đề, sau đồng tu Xa-ma-tha và Thiền-na”.
16- Nếu các Bồ tát, dùng sức biến hóa mỗi mỗi khởi tác dụng, giúp cho chí tĩnh, sau đó đoạn phiền não. Vị Bồ tát này gọi là “Trước đồng tu Tam-ma-bát-đề và Xa-ma-tha, sau tu Thiền-na”.
17- Nếu các Bồ tát, dùng sức biến hóa giúp cho tịch-diệt, sau trụ nơi Vô-tác Tĩnh-lự Thanh- tịnh. Vị Bồ tát này gọi là “Trước đồng tu Tam-ma-bát-đề và Thiền-na, sau tu Xa-ma-tha”.
18- Nếu các Bồ tát, dùng sức tịch diệt mà khởi lên chí tĩnh, an trụ nơi thanh tịnh. Vị Bồ tát này gọi là “Trước tu Thiền-na, sau tu Xa-ma-tha”.
19- Nếu các Bồ tát, dùng sức tịch-diệt mà khởi tác dụng, đối với tất cả cảnh vẫn có công- dụng tịch-diệt tùy-thuận. Vị Bồ tát này gọi là “Trước tu Thiền-na, sau tu Tam-ma-bát-đề”.
20- Nếu các Bồ tát, dùng sức tịch diệt các thứ tự tánh, an nơi tĩnh-lự mà khởi biến hóa. Vị Bồ tát này gọi là “Trước tu Thiền-na, giữa tu Xa-ma-tha, sau tu Tam-ma-bát-đề”.
21- Nếu các Bồ tát, dùng sức tịch-diệt của tự tánh vô tác, khởi lên tác dụng; nơi cảnh giới thanh tịnh, trở về tĩnh-lự. Vị Bồ tát này gọi là “Trước tu Thiền-na, giữa tu Tam-ma-bát-đề, sau tu Xa-ma-tha”.
22- Nếu các Bồ tát, dùng sức tịch diệt mỗi mỗi thanh tịnh, rồi trụ nơi tĩnh lự mà khởi ra các biến hóa. Vị Bồ tát này gọi là “Trước tu Thiền-na, sau đồng tu Xa-ma-tha và Tam-ma-bát-đề”.
23- Nếu các Bồ tát, dùng sức tịch diệt giúp cho chí tĩnh, rồi khởi biến hóa. Vị Bồ tát này gọi là “Trước đồng tu Thiền-na và Xa-ma-tha, sau tu Tam-ma-bát-đề”.
24- Nếu các Bồ tát, dùng sức tịch diệt giúp cho biến hóa, rồi khởi lên chí tĩnh cảnh huệ trong sáng. Vị Bồ tát này gọi là “Trước đồng tu Thiền-na và Tam-ma-bát-đề, sau tu Xa-ma-tha”.
25- Nếu các Bồ tát, dùng Huệ Viên Giác viên hiệp tất cả, đối với các pháp Tánh-Tướng không rời Giác tánh. Vị Bồ tát này gọi là “Tu trọn ba thứ tự tánh, thanh tịnh tùy thuận”.
Này Thiện nam tử! Đây là hai mươi lăm định luân của Bồ tát. Tất cả Bồ tát đều phải tu hành như thế. Nếu các Bồ tát và chúng sanh đời mạt pháp, muốn y theo các luân này, phải giữ gìn phạm hạnh, tịch tĩnh tư duy, thiết tha sám hối, trải qua hai mươi mốt ngày. Ghi rõ tên của hai mươi lăm luân, chí tâm khẩn thiết, tùy tay bốc lấy, mở ra xem liền biết Đốn hay Tiệm. Còn một niệm nghi ngờ thì không thành tựu.
Bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn trùng tuyên lại nghĩa này nên nói kệ rằng :
“Biện
Âm, ông nên biết!
Tất
cả các Bồ tát
Huệ
thanh tịnh không ngại
Đều
nương Thiền định sanh.
Ấy
là: Xa-ma-tha
Tam-ma-đề,
Thiền-na
Tu
ba pháp Đốn-Tiệm
Thành
25 định luân.
Mười
phương các Như Lai
Ba
đời người tu hành
Đều
nhơn nơi pháp này
Thành
tựu được Bồ đề.
Chỉ
trừ người Đốn ngộ
Người
không tùy thuận pháp,
Tất
cả các Bồ tát
Và
chúng sanh đời mạt
Thường
phải theo luân này
Tùy
thuận siêng tu tập,
Nhờ
sức đại bi Phật
Mau
chứng được Niết bàn.
Trong chương này, Bồ tát Biện Âm thỉnh Phật giản trạch về các phương pháp tu tập, y cứ vào ba phương tiện đã nói ở chương trước: Xa-ma-tha, Tam-ma-bát-đề và Thiền-na. Tất cả gồm 25 phương pháp, gọi là định luân, do sự kết hợp của ba phương tiện trên, một cách đa dạng và phức tạp.
Biện là Biện biệt, Âm là âm thanh thuyết pháp của Phật. Biện Âm ở đây nói về khả năng phân tích tư duy khéo léo hiểu được những lời Phật dạy. Có hiểu tỏ tường mới ứng dụng tu tập, thể nhập Viên Giác.
“Lúc bấy giờ, Bồ tát Biện Âm ở trong đại chúng, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ dưới chân Phật, nhiễu bên phải ba vòng, quì dài chắp tay mà bạch Phật rằng: “Đại bi Thế Tôn! Pháp môn như thế, thật là hy hữu !”: Trước tiên, Bồ tát Biện Âm ca ngợi ba pháp môn Xa-ma-tha, Tam-ma-bát-đề và Thiền-na, quả thật hiếm có trên đời.
“Bạch Đức Thế Tôn! Các phương tiện này, tất cả Bồ tát đối với môn Viên Giác, có bao nhiêu phương thức tu tập? Nguyện Đức Thế Tôn vì đại chúng và chúng sanh đời mạt pháp mà phương tiện khai thị, khiến ngộ thật tướng”: Các Bồ tát tu theo Viên Giác, có bao nhiêu cách hạ thủ công phu từ ba pháp môn gốc nói trên? Các vị phải tu từng pháp môn hay tu chung cả ba? “Thật tướng” tức tướng chân thật của tất cả các pháp, là tự tâm Viên Giác - chỗ sở quy của mọi phương tiện công phu.
“Nói lời ấy rồi, năm vóc gieo xuống đất, thỉnh đi thỉnh lại từ đầu đến cuối như vậy ba lần.
Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo Bồ tát Biện Âm rằng: “Lành thay! Lành thay! Này Thiện nam tử! Các ông mới có thể vì các Bồ tát và chúng sanh đời mạt pháp, hỏi Như Lai về những pháp môn tu tập như thế. Ông hãy lắng nghe, ta sẽ vì ông mà nói”.
Khi ấy Bồ tát Biện Âm rất đỗi vui mừng, vâng theo lời dạy, cùng đại chúng lắng sâu tâm thức mà nghe.
Này Thiện nam tử! Tánh Viên Giác thanh tịnh của tất cả Như Lai vốn không có người tu tập và pháp tu tập”: Cũng như các chương trước, khởi đầu bao giờ Đức Phật cũng nhấn mạnh đến tánh Viên Giác thanh tịnh. Đây là thâm ý của kinh Viên Giác, luôn lấy tự tánh của mỗi người làm chỗ y cứ, và cũng là thâm ý của các kinh điển Đại thừa: Kinh Niết bàn gọi đó là Phật tánh, Kinh Pháp Hoa gọi là Tri kiến Phật, Kinh Lăng Nghiêm gọi là Chân tâm thường trụ...
Ở đây, Đức Phật dạy, tánh Viên Giác vốn rời mọi ý niệm năng sở đối đãi, không có người hay tu và pháp được tu, cũng không có người chứng và pháp được chứng.
“Tất cả Bồ tát và chúng sanh đời mạt pháp, nương nơi sức huyễn chưa giác ngộ mà tu hành, lập bày ra hai mươi lăm thứ định luân thanh tịnh”: Nói đến Viên Giác là nói đến trực chỉ, không có người năng tu và pháp sở tu. Nhưng vì chúng sanh chưa giác ngộ các pháp như huyễn, chưa thể nhập Viên Giác, nên Đức Phật phải tạm lập bày ra hai mươi lăm định luân thanh tịnh, căn cứ từ ba pháp môn gốc.
Định luân là gì? Ở đây có hai ý nghĩa: Một là, Định là Thiền định, Luân là bánh xe; dùng ba pháp môn thiền định luân chuyển thay nhau tu tập. Thứ hai, ý nghĩa cao xa hơn, Định là quyết định, Luân là nghiền nát; dùng các phương tiện tu tập quyết định nghiền nát hết vọng tưởng điên đảo, giúp tâm hành giả trở về trạng thái vắng lặng thanh tịnh bản lai. Như vậy, đây tuy là phương tiện tu hành, nhưng cũng hết sức nhiệm mầu, để chứng nhập Viên Giác.
Một điều cần lưu ý: Các định luân được lập ra đều vì những chúng sanh huyễn pháp chưa trừ hết, phiền não chưa đoạn xong. Đối với hành giả đã chứng ngộ các pháp này trở nên thừa, cũng như người đã no thì không cần bất cứ thức ăn nào nữa. Hiểu như vậy, chúng ta thấy có một niềm quí kính vô cùng và sự biết ơn vô hạn đối với Phật Tổ. Các Ngài đã vì những người còn mê muội như chúng ta mà thi thiết bao nhiêu phương tiện, giúp chúng ta có cơ hội tu hành.
Sau đây, Đức Phật lần lượt giảng rõ về các định luân, tùy hành giả thấy mình thích hợp với pháp tu nào thì nỗ lực tu tập theo pháp ấy, cuối cùng đều có kết quả như nhau, là chứng ngộ tự tánh thanh tịnh của chính mình. Trong 25 định luân này, lấy căn bản là ba pháp môn Xa-ma-tha, Tam-ma-bát-đề và Thiền-na, sắp xếp theo ba cách, thay đổi lẫn nhau nên thành 25 phương tiện. Ba cách ấy là :
- Tu
riêng: Chỉ tu một trong ba pháp môn.
-
Tu xen kẽ: Ba pháp môn xen kẽ nhau, thay đổi thứ tự trước
sau hoặc kết hợp đồng thời.
-
Tu trọn vẹn: Tu cả ba pháp môn cùng một lúc, dành cho người
có căn cơ đặc biệt.
I- TU RIÊNG
1-
Riêng
tu Chỉ.
“Nếu
các Bồ tát chỉ giữ sự lặng lẽ cùng cực; do sức lặng
lẽ đó, hằng đoạn được phiền não, cứu cánh thành tựu,
không rời chỗ ngồi, liền vào Niết bàn. Vị Bồ tát này
gọi là “Riêng tu Xa-ma-tha”: Phương pháp này rất phù hợp
với pháp tri vọng của Hòa thượng Trúc Lâm. Hành giả trong
tư thế tọa thiền, buông vọng tưởng sạch đến tận cùng.
Mọi tạo tác của tâm, mọi ý thức phân biệt đều vắng
bặt. Do yên lặng cùng cực nên phiền não dứt hẳn, thẳng
đến Phật quả, nên nói không rời chỗ ngồi mà nhập Niết
bàn.
2-
Riêng
tu Quán.
“Nếu
các Bồ tát chỉ quán như huyễn, nhờ Phật lực biến hóa
thế giới, có nhiều thứ tác dụng, đầy đủ diệu hạnh
thanh tịnh của Bồ tát, đối với Đà-la-ni không mất đi
Tịch niệm và các Tĩnh huệ. Vị Bồ tát này gọi là “Riêng
tu Tam-ma-bát-đề”: Bồ tát quán tất cả các pháp đều như
huyễn. Khi đạt được Như huyễn tam muội, nhờ Phật lực
tự tâm tức là sức gia trì của Phật tánh chính mình, vị
ấy thấy muôn sự muôn vật đều trong trạng thái như huyễn,
đều là phản ảnh của bản tâm. Từ đó, trong mọi oai nghi
đều khởi ra diệu dụng, chuyển Ta-bà thành Tịnh độ, Địa
ngục hóa Thiên cung, nên gọi là “Nhờ Phật lực biến hóa
thế giới”.
Bồ tát tuy quán tất cả thế giới đều là huyễn hóa, nhưng vẫn tùy duyên làm mọi Phật sự để giáo hóa chúng sanh. Các Ngài làm mọi việc với tinh thần vô trú, vô trước, vô nhiễm, nghĩa là luôn luôn an trụ trong Viên Giác. Vì vậy, Phật bảo “đầy đủ diệu hạnh thanh tịnh của Bồ tát”.
“Tịch niệm” là công phu tu Chỉ, “Tĩnh huệ” là công phu tu Thiền-na. Bồ tát tuy riêng tu Quán, nhưng do y cứ nơi Viên Giác mà tu hành, nên đối với Đà-la-ni (là biệt danh của Viên Giác), không mất công phu của hai pháp Chỉ và Thiền-na. Điều này cho thấy, nếu thâm nhập trọn vẹn một pháp thì sẽ thâm nhập cả ba.
3-
Riêng
tu Thiền-na
“Nếu
các Bồ tát chỉ diệt các huyễn, không giữ nơi tác dụng,
riêng đoạn được phiền não; phiền não đoạn sạch liền
chứng thật tướng. Vị Bồ tát này gọi là “Riêng tu Thiền-na”:
Bồ tát tu Thiền-na là Tịnh-Huyễn song vong hay Chỉ Quán bất
nhị. Vị này dùng sức tịch diệt để diệt trừ các huyễn,
nhưng không chấp vào các tác dụng biến hóa của huyễn quán,
tức không chấp vào Tam-ma-bát-đề. Lại nữa, vị ấy dùng
sức tịch diệt để tự đoạn phiền não, nhưng cũng không
giữ nơi tướng tịch lặng, nên không chấp vào Xa-ma-tha. Khi
phiền não đoạn sạch, thật tướng hiển bày, chơn tâm Viên
Giác hiện ra rỡ rỡ.
II- TU XEN KẼ
Trong 21 pháp tu xen kẽ sau đây, nguyên tắc chung là lấy một pháp môn gốc trong ba pháp môn Chỉ, Quán, Thiền-na làm đầu; sau đó kết hợp thêm một hay hai pháp môn còn lại. Nếu chúng ta vận dụng phép hoán vị của Toán học vào đây, có thể hiểu được các pháp tu này không khó. Tựu trung, có ba cách chính :
- Tu
xen kẽ dùng Chỉ làm đầu: Gồm 7 pháp tu tức 7 định-luân.
-
Tu xen kẽ dùng Quán làm đầu: Gồm 7 định-luân.
-
Tu xen kẽ dùng Thiền-na làm đầu: Cũng gồm 7 định-luân.
Tổng
cộng là 21 định-luân. Chúng ta sẽ lần lượt khảo sát từng
định-luân một, dựa theo lời dạy của Phật.
A- Tu xen kẽ dùng Chỉ làm đầu.
4-
Trước tu Chỉ, sau tu Quán.
“Nếu
các Bồ tát, trước giữ sự chí tĩnh, dùng tâm tịnh-huệ
chiếu các pháp huyễn, liền ở trong đó khởi hạnh Bồ tát.
Vị Bồ tát này gọi là “Trước tu Xa-ma-tha, sau tu Tam-ma-bát-đề”:
Người tu pháp này, đầu tiên giữ sự vắng lặng cùng cực,
tức tu Chỉ. Khi tĩnh tột cùng thì huệ phát sinh. Dùng tâm
tịnh-huệ này quán các pháp như huyễn, tức tu Quán. Theo đó
khởi các tác dụng, thượng cầu Bồ đề hạ hóa chúng sanh
cho tròn đầy diệu hạnh của Bồ tát.
5-
Trước
tu Chỉ, sau tu Thiền-na.
“Nếu
các Bồ tát, trước dùng tịnh-huệ chứng đến chỗ tánh
tĩnh lặng, liền đoạn phiền não, hằng thoát khỏi sanh tử.
Vị Bồ tát này gọi là “Trước tu Xa-ma-tha, sau tu Thiền-na”:
Tịnh-huệ là kếtquả của công phu tu Chỉ. Hành giả dùng
sức tịnh-huệ thẳng chứng đến tánh tĩnh lặng trên tâm
Viên Giác, tức công phu tu Thiền-na. Khi thể nhập Giác-tánh,
phiền não được đoạn trừ, Bồ tát thoát khỏi vòng luân
hồi sanh tử.
6-
Trước
tu Chỉ, giữa tu Quán, sau tu Thiền-na.
“Nếu
các Bồ tát, dùng huệ Tịch tĩnh lại hiện sức huyễn, nhiều
thứ biến hóa để độ chúng sanh, sau đó đoạn hết phiền
não mà vào tịch-diệt. Vị Bồ tát này gọi là “Trước
tu Xa-ma-tha, giữa tu Tam-ma-bát-đề, sau tu Thiền-na”: Huệ
tịch-tĩnh thuộc công phu tu Chỉ. Tĩnh đến tột cùng là Tịch,
từ đó sinh ra Huệ. Hành giả dùng Huệ quán các pháp huyễn,
khởi ra các thứ biến hóa nhiêu ích cho muôn loài: Đây là
giai đoạn tu Quán. Sau cùng, đoạn tất cả các phiền não
mà vào Tịch diệt là công phu Thiền-na, vì tu Thiền-na là
đoạn tận phiền não.
7-
Trước
tu Chỉ, giữa tu Thiền-na, sau tu Quán.
“Nếu
các Bồ tát, dùng sức chí-tĩnh đoạn hết phiền não, sau
đó khởi lên Diệu-hạnh thanh-tịnh của Bồ tát độ các
chúng sanh. Vị Bồ tát này gọi là “Trước tu Xa-ma-tha, giữa
tu Thiền-na, sau tu Tam-ma-bát-đề”: Hành giả dùng sức chí
tĩnh là kết quả tu Chỉ, khởi tâm đoạn phiền não tức
tu Thiền-na. Khi phiền não đã tận, vị ấy hòa quang đồng
trần độ chúng sanh như huyễn, ấy là giai đoạn tu Quán.
8-
Trước
tu Chỉ, sau đồng tu Quán và Thiền-na.
“Nếu
các Bồ tát, dùng sức chí tĩnh tâm đoạn phiền não, lại
độ chúng sanh, kiến lập thế giới. Vị Bồ tát này gọi
là “Trước tu Xa-ma-tha, sau đồng tu Tam-ma-bát-đề và Thiền-na”:
Dùng sức chí tĩnh là công phu tu Chỉ. Hành giả quyết tâm
đoạn phiền não nhưng chưa đoạn tận; vì vậy ở giai đoạn
này, phải vừa tu Thiền-na để đoạn phiền não, vừa tu Quán
để kiến lập thế giới, hóa độ chúng sanh. Có thể nói,
giai đoạn đầu tu Chỉ là tự lợi; giai đoạn sau, vừa tu
Thiền-na vừa tu Quán, là tự lợi và lợi tha.
9-
Trước
đồng tu Chỉ và Quán, sau tu Thiền-na.
“Nếu
các Bồ tát, dùng sức chí tĩnh giúp phát biến hóa, sau đoạn
phiền não. Vị Bồ tát này gọi là “Trước đồng tu Xa-ma-tha
và Tam-ma-bát-đề, sau tu Thiền-na”: Hành giả dùng sức chí
tĩnh của Chỉ để giúp phát khởi sức biến hóa của Quán.
Đây là vừa tự lợi vừa khởi hạnh lợi tha. Sau đó, vị
này tu Thiền-na để đoạn tận phiền não, thành tựu Vô thượng
Bồ đề.
10-
Trước
đồng tu Chỉ và Thiền-na, sau tu Quán.
“Nếu
các Bồ tát, dùng sức chí tĩnh giúp tịch diệt, sau đó khởi
tác dụng, biến hóa thế giới. Vị Bồ tát này gọi là “Trước
đồng tu Xa-ma-tha và Thiền-na, sau tu Tam-ma-bát-đề”: Hành
giả dùng sức chí tĩnh của Chỉ để diệt phiền não, tức
đồng thời tu Thiền-na. Khi tĩnh của Chỉ đến tột cùng
thì công phu Thiền-na cũng thành tựu. Phần tự lợi viên mãn,
lúc đó mới khởi hạnh lợi tha. Bồ tát ở giai đoạn sau
tu Quán, biến hóa thế giới để độ chúng sanh.
B- Tu xen kẽ dùng Quán làm đầu.
11-
Trước tu Quán, sau tu Chỉ.
“Nếu
các Bồ tát, dùng sức biến hóa mỗi mỗi tùy thuận, mà vẫn
giữ được chí tĩnh. Vị Bồ tát này gọi là “Trước tu
Tam-ma-bát-đề, sau tu Xa-ma-tha”: Hành giả trước tiên tu Quán,
tùy trình độ và căn cơ của mỗi chúng sanh mà biến hóa
thế giới. Một mặt tùy thuận chúng sanh để giáo hóa, nhưng
mặt khác biết tất cả đều là huyễn hóa, nên vẫn giữ
được chí tĩnh, tức kết quả của tu Chỉ. Đây chính là
tinh thần Tùy duyên mà bất biến, bất biến nhưng vẫn tùy
duyên.
12-
Trước
tu Quán, sau tu Thiền-na.
“Nếu
các Bồ tát, dùng sức biến hóa tất cả cảnh giới, mà vẫn
giữ được sự tịch diệt. Vị Bồ tát này gọi là “Trước
tu Tam-ma-bát-đề, sau tu Thiền-na”: Hành giả trước tiên
tu Quán, khi thành tựu thì khởi công dụng biến hóa tất cả
cảnh giới, thực hiện hạnh lợi tha. Sau đó tu Thiền-na để
đoạn phiền não, an trú nơi tánh thể lặng dứt, gọi là
“giữ được sự tịch diệt”.
13-
Trước
tu Quán, giữa tu Chỉ, sau tu Thiền-na.
“Nếu
các Bồ tát, dùng sức biến hóa làm tất cả Phật sự, mà
vẫn an trụ nơi tịch tĩnh và đoạn phiền não. Vị Bồ tát
này gọi là “Trước tu Tam-ma-bát-đề, giữa tu Xa-ma-tha, sau
tu Thiền-na”: Dùng sức biến hóa làm tất cả Phật sự là
kết quả của tu Quán. Tuy làm tất cả Phật sự hóa độ
chúng sanh, nhưng không thấy pháp để độ, mình là người
độ và chúng sanh là kẻ được độ. Đây là tinh thần Ba-la-mật
của Bồ tát, kết quả của tu Chỉ, gọi là “an trụ nơi
tịch tĩnh”, tức cảnh vắng lặng bất động. Sau cùng, hành
giả dùng pháp tu Thiền-na đoạn tận phiền não, khế nhập
Trung đạo.
14-
Trước
tu Quán, giữa tu Thiền-na, sau tu Chỉ.
“Nếu
các Bồ tát, dùng sức biến hóa, khởi tác dụng vô ngại
đoạn các phiền não, rồi an trụ nơi chí tĩnh. Vị Bồ tát
này gọi là “Trước tu Tam-ma-bát-đề, giữa tu Thiền-na,
sau tu Xa-ma-tha”: Khởi đầu, hành giả dùng sức biến hóa
của tu Quán, khởi tác dụng vô ngại tùy thuận giáo hóa chúng
sanh. Sau đó tiến tu Thiền-na, đoạn tất cả phiền não. Cuối
cùng tu Chỉ an trụ trong cảnh lặng lẽ tột cùng, gọi là
chí tĩnh.
15-
Trước
tu Quán, sau đồng tu Chỉ và Thiền-na.
“Nếu
các Bồ tát, dùng tác dụng phương tiện của sức biến hóa,
đạt đến chỗ chí tĩnh và tịch diệt, cả hai đều tùy
thuận. Vị Bồ tát này gọi là “Trước tu Tam-ma-bát-đề,
sau đồng tu Xa-ma-tha và Thiền-na”: Hành giả trước tiên
tu Quán, khi thành tựu mới dùng tác dụng phương tiện của
sức biến hóa để độ chúng sanh. Sau đó, đồng thời tu
Chỉ để đạt đến chỗ vắng lặng tột cùng và tu Thiền-na
để đoạn tận phiền não.
16-
Trước
đồng tu Quán và Chỉ, sau tu Thiền-na.
“Nếu
các Bồ tát, dùng sức biến hóa mỗi mỗi khởi tác dụng,
giúp cho chí tĩnh, sau đó đoạn phiền não. Vị Bồ tát này
gọi là “Trước đồng tu Tam-ma-bát-đề và Xa-ma-tha, sau tu
Thiền-na”: Dùng sức biến hóa thích hợp với mỗi chúng
sanh, tùy duyên hóa độ, là thành tựu của tu Quán. Đồng
thời, nhờ các thứ tác dụng của Quán trợ giúp cho tánh
chí tĩnh của Chỉ được tự nhiên thành tựu. Như vậy, nhờ
tu Quán có kết quả nên đạt luôn kết quả của Chỉ, nghĩa
là Quán-Chỉ đồng tu.
Cuối cùng, hành giả đoạn tận phiền não bằng tu Thiền-na, thoát khỏi sanh tử, thể nhập đạo Vô thượng.
17-
Trước
đồng tu Quán và Thiền-na, sau tu Chỉ.
“Nếu
các Bồ tát, dùng sức biến hóa giúp cho tịch diệt, sau trụ
nơi Vô tác Tĩnh lự Thanh tịnh. Vị Bồ tát này gọi là “Trước
đồng tu Tam-ma-bát-đề và Thiền-na, sau tu Xa-ma-tha”: Hành
giả dùng sức biến hóa của Quán giúp cho công phu lặng dứt
(tịch-diệt) của Thiền-na tự nhiên thành tựu. Đó là đồng
thời tu cả Quán và Thiền-na.
“Vô tác tĩnh lự thanh tịnh” là sức chí tĩnh mà không cần dụng công. Đây là kết quả của tu Chỉ. Như vậy, người tu pháp này, trước tiên vừa tu Quán vừa tu Thiền-na (dùng sức biến hóa giúp cho tịch diệt); sau đó an trụ trong cảnh giới chí tĩnh của Chỉ (trụ nơi Vô-tác Tĩnh-lự Thanh-tịnh).
C- Tu xen kẽ dùng Thiền-na làm đầu.
18-
Trước tu Thiền-na, sau tu Chỉ.
“Nếu
các Bồ tát, dùng sức tịch diệt mà khởi lên chí tĩnh, an
trụ nơi thanh tịnh. Vị Bồ tát này gọi là “Trước tu Thiền-na,
sau tu Xa-ma-tha”: Bồ tát trước tu Thiền-na đoạn tận phiền
não, thoát khỏi sanh tử. Khi đã thành tựu, dùng sức lặng
dứt của Thiền-na khởi lên chí tĩnh của Chỉ, thọ hưởng
pháp lạc, an trụ nơi cảnh giới thanh tịnh.
19-
Trước
tu Thiền-na, sau tu Quán.
“Nếu
các Bồ tát, dùng sức tịch diệt mà khởi tác dụng, đối
với tất cả cảnh vẫn có công dụng tịch-diệt tùy-thuận.
Vị Bồ tát này gọi là “Trước tu Thiền-na, sau tu Tam-ma-bát-đề”:
Bồ tát tu Thiền-na được thành tựu, tức tự lợi đã tròn,
liền khởi hạnh lợi tha. Vị ấy dùng sức tịch diệt của
Thiền-na khởi các tác dụng biến hóa độ sanh, tức trở
lại tu Quán. Như vậy, tất cả cảnh đều khởi từ tánh
tịch diệt mà có, cho nên nói là “đối với tất cả cảnh
vẫn có công dụng tịch diệt tùy thuận”.
20-
Trước
tu Thiền-na, giữa tu Chỉ, sau tu Quán.
“Nếu
các Bồ tát, dùng sức tịch diệt các thứ tự tánh, an nơi
tĩnh lự mà khởi biến hóa. Vị Bồ tát này gọi là “Trước
tu Thiền-na, giữa tu Xa-ma-tha, sau tu Tam-ma-bát-đề”: Hành
giả tu Thiền-na có kết quả, nhờ sức tịch diệt thấy được
tự tánh của tất cả chúng sanh. Kế đó, vị ấy thực hành
tu Chỉ để an tâm nơi tĩnh lự. Khi tâm đã như-như mới khởi
tác dụng biến hóa của Quán, vào chốn trần lao độ sanh
mà không sợ nhiễm trần.
21-
Trước
tu Thiền-na, giữa tu Quán, sau tu Chỉ.
“Nếu
các Bồ tát, dùng sức tịch diệt của tự tánh vô tác, khởi
lên tác dụng; nơi cảnh giới thanh tịnh, trở về tĩnh lự.
Vị Bồ tát này gọi là “Trước tu Thiền-na, giữa tu Tam-ma-bát-đề,
sau tu Xa-ma-tha”: Tự tánh xưa nay sẵn đủ, không do tạo tác
mà có, nên gọi là “Tự tánh vô tác”. Hành giả tu Thiền-na
được thành tựu, nhờ sức tịch diệt của tự tánh mà khởi
tu Quán. Nơi tác dụng của Quán, vị này biến hóa cảnh trần
lao thành cảnh giới thanh tịnh. Sau cùng, từ cảnh giới thanh
tịnh, bặt tất cả vọng niệm, an trú nơi tĩnh lự của Chỉ.
22-
Trước
tu Thiền-na, sau đồng tu Chỉ và Quán.
“Nếu
các Bồ tát, dùng sức tịch diệt mỗi mỗi thanh tịnh, rồi
trụ nơi tĩnh lự mà khởi ra các biến hóa. Vị Bồ tát này
gọi là “Trước tu Thiền-na, sau đồng tu Xa-ma-tha và Tam-ma-bát-đề”:
Sức tịch diệt mỗi mỗi thanh tịnh là kết quả tu Thiền-na
được thành tựu. Do khởi hạnh lợi tha nên Bồ tát lùi lại
tu Chỉ và Quán đồng thời; vừa an trụ nơi tĩnh lự của
Chỉ, vừa khởi các thứ biến hóa của Quán mà tùy duyên
hóa độ chúng sanh.
23-
Trước
đồng tu Thiền-na và Chỉ, sau tu Quán.
“Nếu
các Bồ tát, dùng sức tịch diệt giúp cho chí tĩnh, rồi khởi
biến hóa. Vị Bồ tát này gọi là “Trước đồng tu Thiền-na
và Xa-ma-tha, sau tu Tam-ma-bát-đề”: Đầu tiên, hành giả đồng
tu Thiền-na và Chỉ để tự lợi. Phật dạy, dùng sức tịch
diệt của Thiền-na giúp cho sức chí tĩnh của Chỉ được
thành tựu, vì khi tu Thiền-na thì kết quả của Chỉ cũng
tự nhiên mà có, do đó gọi là “đồng tu”. Sau đó, hành
giả khởi tác dụng biến hóa để hạnh lợi tha cùng viên
mãn, trọn thành Phật đạo.
24-
Trước
đồng tu Thiền-na và Quán, sau tu Chỉ.
“Nếu
các Bồ tát, dùng sức tịch diệt giúp cho biến hóa, rồi
khởi lên chí tĩnh cảnh huệ trong sáng. Vị Bồ tát này gọi
là “Trước đồng tu Thiền-na và Tam-ma-bát-đề, sau tu Xa-ma-tha”:
Hành giả trước tiên dùng sức tịch diệt của Thiền-na giúp
công phu tu Quán tự nhiên thành tựu, khởi các tác dụng biến
hóa nhiêu ích chúng sanh; ấy gọi là đồng tu Thiền-na và
Quán. Sau đó, hành giả chuyên tâm tu Chỉ để đạt cảnh
giới chí tĩnh, tự lợi và lợi tha như vậy viên thành.
III- TU TRON VEN
25-
Tu cả ba pháp môn cùng một lúc.
“Nếu
các Bồ tát, dùng Huệ Viên Giác viên hiệp tất cả, đối
với các pháp Tánh-Tướng không rời Giác tánh. Vị Bồ tát
này gọi là “Tu trọn ba thứ tự tánh, thanh tịnh tùy thuận”:
Hành giả tu theo định luân này thuộc căn cơ viên đốn, không
cần thứ lớp mà đồng thời viên dung cả ba pháp môn. Các
vị đã ngộ nhập Viên Giác, nên có thể dùng trí huệ thanh
tịnh của mình khế hợp cả Chỉ-Quán và Thiền-na. Đối
với ba pháp môn gốc này (Phật gọi là các pháp Tánh) và
cả 25 định-luân (là các pháp Tướng) đều từ Viên Giác
mà an lập, vì vậy không lúc nào rời Giác tánh. Lại nữa,
dù các pháp Tánh-Tướng kia có sai biệt, nhưng đều tu tập
về môn Viên Giác, đều tùy thuận tự tánh thanh tịnh, cho
nên nói là “thanh tịnh tùy thuận”.
“Này Thiện nam tử! Đây là hai mươi lăm định-luân của Bồ tát. Tất cả Bồ tát đều phải tu hành như thế. Nếu các Bồ tát và chúng sanh đời mạt pháp, muốn y theo các luân này, phải giữ gìn phạm hạnh, tịch tĩnh tư duy, thiết tha sám hối, trải qua hai mươi mốt ngày. Ghi rõ tên của hai mươi lăm luân, chí tâm khẩn thiết, tùy tay bốc lấy, mở ra xem liền biết Đốn hay Tiệm. Còn một niệm nghi ngờ thì không thành tựu”: Trên đây, Phật đã giới thiệu xong hai mươi lăm định-luân để các hàng Bồ tát và chúng sanh theo đó tu hành. Nhưng muốn tu theo các luân này, phải có các điều kiện sau đây :
1- Giữ gìn phạm hạnh: Chữ “Phạm” xuất từ chữ “Phạm-thiên”, là cõi trời dành cho những người có đời sống thanh tịnh. Tu Phạm hạnh là giữ gìn trai giới thanh tịnh, giữ giới luật nghiêm cẩn. Đây là Giới, tức điều kiện tiên quyết.
2- Tịch-tĩnh: Ngăn dứt vọng tình, giữ tâm lặng lẽ. Đây là Định.
3- Tư duy: Lấy tịch tĩnh làm nền tảng để trầm tư vào đạo lý. Có giữ sự lặng lẽ của tâm thì tư duy mới sâu sắc thâm trầm. Đây là Huệ.
4- Thiết tha sám hối: Đối trước Tam Bảo, thiết tha thỉnh cầu gia hộ, sám hối tất cả những lầm lỗi đã phạm trong kiếp này và những kiếp về trước. Trải qua 21 ngày như thế, dọn tâm sẵn để làm trợ duyên cho sự tu tập được dễ dàng.
Sau đó, viết tên 25 luân vào các tấm phiếu, gói riêng thành 25 gói rồi chọn tùy thích một gói theo kiểu bốc thăm. Khi mở ra xem, chúng ta sẽ biết căn cơ mình thuộc Đốn hay Tiệm, dựa vào tên của luân được bốc trúng. Nếu còn một niệm nghi rằng luân này không hợp với mình, hoặc đang tu lại muốn bỏ, thì sự tu hành sẽ không thành tựu.
Ở đây, chúng ta cũng nên để ý một điều: Thường ở Trung Hoa thích chuyện bốc thăm, đoán số, còn Ấn Độ thì ít đặt nặng vấn đề này, nhất là trong các kinh Nguyên-thủy thì không thấy Phật dạy chuyện ấy. Vì thế, việc chọn lựa định luân để theo đó tu tập, chúng ta nên nhận định cho thấu đáo. Nếu thấy phương pháp nào thích hợp với căn cơ trình độ của mình, thì mình cứ tu theo.
“Bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn trùng tuyên lại nghĩa này nên nói kệ rằng :
Biện
Âm, ông nên biết!
Tất
cả các Bồ tát
Huệ
thanh tịnh không ngại
Đều
nương Thiền định sanh”.
Ở đây, Đức Phật lại cho thấy, Thiền-định hết sức cần thiết cho người tu Phật. Nếu nội tâm không an định thì không thể phát sinh trí huệ.
“Ấy
là: Xa-ma-tha,
Tam-ma-đề,
Thiền-na,
Tu
ba pháp Đốn-Tiệm
Thành
25 định luân”.
Xa-ma-tha, Tam-ma-bát-đề và Thiền-na là ba nội dung Thiền định. Các nội dung này kết hợp theo những cách riêng thành 25 định luân.
“Mười
phương các Như Lai
Ba
đời người tu hành
Đều
nhơn nơi pháp này
Thành
tựu được Bồ đề”.
Các Đức Như Lai ở mười phương và những hành giả tu Viên Giác trong ba đời, đều nương vào các pháp này mà viên thành Phật quả.
“Chỉ
trừ người Đốn-ngộ,
Người
không tùy thuận pháp,
Tất
cả các Bồ tát,
Và
chúng sanh đời mạt,
Thường
phải theo luân này,
Tùy
thuận siêng tu tập,
Nhờ
sức đại bi Phật,
Mau
chứng được Niết bàn”.
Chỉ trừ người căn cơ quá đặc biệt, tu lối viên dung thẳng lên Phật đạo; và những người không tin, không tùy thuận theo pháp mà tu; còn tất cả Bồ tát và chúng sanh đời mạt, đều phải y cứ trên các định luân này, tinh tấn tu hành. Nhờ hồng ân Tam bảo tha lực và Tam Bảo tự tâm, hành giả mau thoát vòng sanh tử, chứng được Niết bàn.
Tóm lại, trong chương Biện Âm này, đức Phật giảng rõ về 25 phương pháp tu hành, gọi là 25 định-luân, với ý nghĩa dùng sức thiền định như bánh xe nghiền nát mọi phiền não, thể nhập Viên Giác. Tùy căn cơ mỗi người mà chọn định luân nào phù hợp, theo đó tu hành. Như nhiều lần chúng tôi đã nói, bản ý của kinh là muốn chúng ta phải y nơi tự tánh Viên Giác mà tu, cũng như trăm sông đều đổ ra biển. Cho nên, dù có nhiều phương tiện, tất cả đều phải lấy Viên Giác làm chỗ sở qui, mới khỏi lạc vào ngõ ngách.
Một ví dụ về pháp Quán: Nhị-thừa quán các pháp, thấy các pháp đều vô thường và vô ngã nên tự tánh nó là không. Ở đây, Phật dạy Tam-ma-bát-đề là quán như huyễn - các pháp tuy huyễn nhưng vẫn thường ở trong Như tánh. Tất cả các pháp đều do tâm mà hiện, ngoài tâm không có pháp. Hành giả phải luôn luôn xoay trở lại chính mình, nghĩa là y cứ nơi lý duy tâm mà quán. Khi nhận Phật tánh nơi mình và Pháp-tánh nơi cảnh, châu lưu cả mười phương ba đời, ta thấy Tâm-Pháp trùm khắp mười phương. Phật là Chánh-giác, Pháp là Chánh-kiến và Tăng là tự tánh thanh tịnh của chính mình.