Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

11. Chương Phổ Giác

12 Tháng Ba 201100:00(Xem: 8031)
11. Chương Phổ Giác

KINH VIÊN GIÁC LUẬN GIẢNG
Thích Thông Huệ
Nhà xuất bản Tôn Giáo, Hà Nội 2006

Chánh văn và Lược giải

XI- CHƯƠNG PHỔ GIÁC 

Lúc bấy giờ, Bồ tát Phổ Giác ở trong đại chúng, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ dưới chân Phật, nhiễu bên phải ba vòng, quì dài chắp taybạch Phật rằng: “Đại bi Thế Tôn! Ngài nói đến bệnh của nhà Thiền nghe thật khoái thích, khiến cả đại chúng được điều chưa từng có, làm cho tâm ý rỗng rang, được an ổn rất lớn. Bạch Thế Tôn! Chúng sanh đời mạt pháp cách Phật dần dần càng xa, Thánh Hiền ẩn khuất, tà pháp lại thịnh hành. Chúng sanh phải cầu học ở những người nào? Phải nương vào những pháp nào? Phải thực hành những hạnh gì? Phải trừ khử những bệnh gì? Phải phát tâm làm sao? Để những kẻ mù tối khỏi rơi vào tà kiến?”

Nói lời ấy rồi, năm vóc gieo xuống đất, thỉnh đi thỉnh lại từ đầu đến cuối như vậy ba lần.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo Bồ tát Phổ Giác rằng: “Lành thay! Lành thay! Này Thiện nam tử! Các ông mới có thể thưa hỏi Như Lai việc tu hành như thế, hay thí cho tất cả chúng sanh đời mạt được Đạo nhãn vô úy, khiến chúng sanh được thành Thánh đạo. Ông hãy lắng nghe, ta sẽ vì ông mà nói”.

Khi ấy, Bồ tát Phổ Giác rất đỗi vui mừng, vâng theo lời dạy, cùng đại chúng lắng sâu tâm thức mà nghe.

“Này Thiện nam tử! Chúng sanh đời mạt pháp, người muốn tu hành sắp phát đại tâm, cầu Thiện tri thức, phải cầu tất cả người chánh tri kiến. Người ấy tâm không trụ tướng, không rơi vào cảnh giới Thinh văn, Duyên Giác. Tuy hiện ở trần lao mà tâm vẫn thường thanh tịnh; thị hiện các điều lỗi lầm mà vẫn tán thán phạm hạnh, không khiến chúng sanh vào Bất luật nghi. Cầu người như thế, sẽ được thành tựu Vô thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.

Chúng sanh đời mạt pháp thấy người như thế cần phải cúng dường, không tiếc thân mạng. Vị Thiện tri thức kia, trong bốn oai nghi thường hiện thanh tịnh cho đến giả bày các thứ lỗi lầm mà tâm vẫn không kiêu mạn, huống nữa là đoàn tài, vợ con, quyến thuộc! Nếu Thiện nam tử, đối với người thiện hữu kia, không khởi ác niệm, cuối cùng được thành tựu chánh giác, tâm hoa phát sáng chiếu mười phương cõi nước.

Này Thiện nam tử! Vị Thiện tri thức kia muốn chứng được diệu pháp phải lìa bốn bệnh. Thế nào là bốn? 

Một là Tác bệnh: Nếu có người nói như thế này: “Nơi bổn tâm ta làm nhiều thứ công hạnh, muốn cầu Viên giác”. Nhưng vì tánh Viên giác ấy chẳng phải do tạo tác mà được nên gọi đó là bệnh.

Hai là Nhậm bệnh: Nếu lại có người nói như thế này: “Chúng ta hôm nay không cần đoạn sanh tử, chẳng cầu Niết bàn; Niết bànsanh tử đều không có niệm khởi diệt. Cứ mặc tất cả, tùy các pháp tánh, muốn cầu Viên giác”. Nhưng vì tánh Viên giác ấy chẳng phải do phó mặc mà được, nên gọi đó là bệnh.

Ba là Chỉ bệnh: Nếu lại có người nói như thế này: “Nay tự tâm của ta hằng dứt trừ các niệm, được tất cả tánh: Tịch diệt (Bất động), Bình đẳng (Bất nhị), muốn cầu Viên giác”. Nhưng vì tánh Viên giác ấy chẳng phải do hiệp với tâm chỉ mà được, nên gọi đó là bệnh.

Bốn là Diệt bệnh: Nếu lại có người nói như thế này: “Ta nay hằng đoạn tất cả phiền não, thân tâm hoàn toàn trống rỗng, không còn gì là của mình, huống nữa là cảnh giới hư vọng của căn trần? Tất cả đều lặng lẽ muốn cầu Viên giác”. Nhưng vì tánh Viên giác ấy chẳng phải là tướng lặng lẽ, nên gọi đó là bệnh.

Người lìa được bốn bệnh thì biết đã thanh tịnh. Người quán như thế này gọi là Chánh quán, nếu quán khác đi gọi là tà quán.

Này Thiện nam tử! Chúng sanh đời mạt pháp muốn tu hành, cần hết lòng tận mạng cúng dường thiện hữu, thờ thiện tri thức. Vị Thiện tri thức ấy muốn thân cận với mình, mình phải dứt tâm kiêu mạn. Nếu vị ấy xa lìa, mình phải dứt tâm sân hận. Khi hiện ra thuận cảnh hay nghịch cảnh, cũng giống như hư không; rõ biết thân tâm thảy đều bình đẳng, cùng các chúng sanh đồng thể không khác. Tu hành như thế mới nhập được Viên giác.

Này Thiện nam tử! Chúng sanh đời mạt pháp, không được thành đạo là do tất cả chủng tử “ta-người, thương-ghét...” có từ vô thủy nên chưa được giải thoát. Nếu lại có người quán kẻ oan gia như cha mẹ mình, tâm không có hai, liền trừ các bệnh. Đối với các pháp “ta-người, thương-ghét...” cũng lại như vậy.

Này Thiện nam tử! Chúng sanh đời mạt pháp muốn cầu Viên giác phải phát tâm như thế này: “Tất cả chúng sanh trong cùng khắp hư không ta đều khiến vào hết trong Viên giác. Ở trong Viên giác, không có người thủ giác, trừ tất cả tướng ta-người... Phát tâm như thế, mới khỏi lạc vào tà kiến”.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn trùng tuyên lại nghĩa này nên nói kệ rằng :

Phổ Giác! Ông nên biết! 
Những chúng sanh đời mạt 

Muốn cầu Thiện tri thức 

Phải cầu người chánh kiến,

Tâm xa pháp Nhị thừa.

Trong pháp trừ bốn bệnh,

Là: Tác, Chỉ, Nhậm, Diệt.

Gần gũi không kiêu mạn,

Xa lìa không giận hờn.

Thấy nhiều thứ cảnh giới,

Tâm phải sanh hi hữu,

Xem như Phật ra đời.

Không vi phạm giới luật

Giới căn hằng thanh tịnh 

Độ tất cả chúng sanh 

Rốt ráo nhập Viên giác

Không tướng Ngã, Nhơn kia

Thường nương chánh trí huệ

Siêu vượt được tà kiến

Chánh giác nhập Niết bàn!” 

Đại ý của bổn chương là, do 5 câu hỏi của Bồ tát Phổ Giác, Đức Phật nêu ra những nguyên tắc căn bản trong việc tầm sư học đạo, để khỏi rơi vào tà kiến. Phổ là cùng khắp, Giác là Giác ngộ. Có Giác ngộ cùng khắp mới có sự thấy biết rõ ràng, mới phân biệt ai là thiện tri thức, ai là tà sư. Ngài Phổ Giác có lòng thương xót chúng sanh, sợ những kẻ mù tối vì thiết tha cầu đạo mà chọn thầy lựa bạn sai lầm, suốt đời nương theo tà pháp tu hành, cuối cùng lạc vào đường ma lối quỉ.

Lúc bấy giờ, Bồ tát Phổ Giác ở trong đại chúng, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ dưới chân Phật, nhiễu bên phải ba vòng, quì dài chắp taybạch Phật rằng: “Đại bi Thế Tôn! Ngài nói đến những bệnh của nhà Thiền nghe thật khoái thích, khiến cả đại chúng được điều chưa từng có, làm cho tâm ý rỗng rang, được an ổn rất lớn”: Ngài Phổ Giác khi nghe Đức Phật giảng về bệnh chấp bốn tướng Ngã, Nhơn, Chúng sanhThọ mạng là những điều quá mới mẻ và quá hay ho, từ trước đến giờ chưa từng được nghe, nên Ngài thốt lên lời tán thán. Ở đây dùng từ “Khoái thuyết Thiền bệnh” có thể lột tả được tâm lý của đại chúng lúc bấy giờ. Người thuyết giảngĐức Phật, khéo lý luận thông suốt, chặt chẽ, khiến người nghe thấu triệt được tất cả vấn đề, không còn thắc mắc điều gì, vì thế tâm ý được rỗng rang và được an ổn lớn.

Bạch Thế Tôn! Chúng sanh đời mạt pháp cách Phật dần dần càng xa, Thánh Hiền ẩn khuất, tà pháp lại thịnh hành. Chúng sanh phải cầu học ở những người nào? Phải nương vào những pháp nào? Phải thực hành những hạnh gì? Phải trừ khử những bệnh gì? Phải phát tâm làm sao? Để những kẻ mù tối khỏi rơi vào tà kiến? ”

Nói lời ấy rồi, năm vóc gieo xuống đất, thỉnh đi thỉnh lại từ đầu đến cuối như vậy ba lần”: Nghiệm lại thời đại của chúng ta, rõ ràng lời nhận xét của Bồ tát Phổ Giác quá xác đáng. Trong Qui Sơn Cảnh Sách, Tổ đã than rằng “Sở hận đồng sanh tượng quí, khứ Thánh thời diêu, Phật pháp sanh sơ, nhân đa giải đãi” (Tủi vì sanh vào cuối thời tượng pháp, cách Hiền Thánh đã xa, Phật pháp lưa thưa, người tu đa số biếng nhác). Thời Tổ Qui Sơn là cuối thời Tượng Pháp, nhiều người tinh tấn tu hành, chỉ một số ít trễ nãi mà Ngài còn thốt lên những lời như vậy, huống gì ở thời đại chúng ta. Đức Phật đã nhập diệt trên 2500 năm; các bậc Thánh là những người đã thoát ly sanh tử, chúng ta chưa hề gặp; những người Hiền, tức những vị đã có sở ngộ nhưng chưa rốt ráo cũng thật hiếm hoi. Ngược lại, những kẻ tà kiến lại đầy dẫy, thích làm thầy thiên hạ, lại biết cách khuyến dụ người đời, cho nên ngày càng thịnh hành. Tà pháp không những được truyền bá ở những chỗ hẻo lánh, nơi ánh sáng văn minh chưa rọi đến, mà còn bành trướng ở thành thị, thậm chí ngay trong chùa. Có thể nói, nơi nào người tu không có chánh kiến thì tà pháp thịnh hành. Cho nên, chúng ta phải nương vào giáo lý của Đức Phật, phải chịu khó quán xuyến đời sống tu hành của mình, phải trau dồi chánh kiến để khỏi rơi vào những ngã rẽ không lường trước được.

Trở lại câu hỏi của Bồ tát Phổ Giác. Do ở chương trước, trong bài kệ trùng tụng, Đức Phật có nói “Người cầu Thiện tri thức, chẳng lạc vào tà kiến”, nên Ngài vì những kẻ mù tối - tức chúng sanh đời mạt pháp chưa mở được mắt trí huệ, mà đưa ra 5 câu hỏi. Chúng sanh nương theo lời Phật chỉ dạy không bị rơi vào tà kiến :

1- “Chúng sanh muốn cầu Thiện tri thức, phải cầu học ở những vị Thầy như thế nào?”: Trong thời mạt pháp, chúng ta tu phải có thầy bạn, không thể mò mẫm tu một mình.

2- “Chúng sanh phải nương vào pháp nào của Thiện tri thức?”: Nếu Thầy là người có chánh kiến, thầy sẽ truyền chánh pháp cho ta. Ngược lại, nếu là tà sư thì sẽ dẫn dắt chúng ta vào đường tà.

3- “Đối với Thiện tri thức, chúng sanh phải làm những hạnh gì?”: Chúng ta đối với thầy lành bạn tốt phải biểu hiện lòng biết ơn của mình bằng những hạnh như thế nào? 

4- “Chúng sanh khi tu hành theo chánh pháp, phải trừ khử những bệnh gì?”: Trên đường tu, chúng ta phải luôn luôn xoay lại mình để tự biết mình có bệnh gì cần diệt trừ.

5- “Chúng sanh phải phát tâm ra sao để khỏi lạc vào tà kiến?”

“Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo Bồ tát Phổ Giác rằng: “Lành thay! Lành thay! Này Thiện nam tử! Các ông mới có thể thưa hỏi Như Lai việc tu hành như thế, hay thí cho tất cả chúng sanh đời mạt được Đạo nhãn vô úy, khiến chúng sanh được thành Thánh đạo. Ông hãy lắng nghe, ta sẽ vì ông mà nói”.

Khi ấy, Bồ tát Phổ Giác rất đỗi vui mừng, vâng theo lời dạy, cùng đại chúng lắng sâu tâm thức mà nghe”: Trong lời hứa khả, Đức Phật khen Bồ tát Phổ Giác đã vì chúng sanh đời mạt pháp mà thưa hỏi những vấn đề như thế. Nhờ đó, chúng sanh sẽ có được Đạo nhãn vô úy, tức con mắt thấy rõ đường đi, không còn sợ trở ngại phía trước. Ý Phật muốn nói, có chánh tri kiến thì sẽ không sợ rơi vào tà đạo nữa. Từ đó cứ tiến tu, rốt ráo sẽ thành tựu Thánh quả.

Này Thiện nam tử! Chúng sanh đời mạt pháp, người muốn tu hành sắp phát đại tâm, cầu Thiện tri thức, phải cầu tất cả người chánh tri kiến”: Đại tâm là tâm của Bồ tát Đại thừa, phát tâm lớn-tu hạnh lớn - cầu quả lớn. Chúng sanh đời mạt muốn tu hành sắp phát tâm lớn, điều tiên quyết là phải cầu Thiện tri thức để chỉ cho mình con đường tu chân chánh. Vị Thiện tri thức ấy phải là bậc Chánh-tri Chánh-kiến, cho nên nói “phải cầu tất cả người chánh tri kiến”. Trong Bát chánh đạo, Chánh kiến đi đầu. Người đầy đủ chánh kiến là ai? Đây là một điều khó xét đoán nếu ta không có trí huệ, cứ tin theo một cách mù quáng. Hãy xem lời nóiviệc làm của người ấy có đi đôi với nhau hay không; dĩ nhiên chúng ta không đòi hỏi sự hoàn hảo, nhưng phải có sự khế hợp tương đối giữa lời nóiviệc làm. Người có chánh kiến rất khách quan, vô tư, không có thành kiến với ai, đối với mọi người đều bình đẳng như ánh sáng mặt trời chiếu lên muôn vật không phân biệt. Vị ấy luôn luôn mang đến cho người khác sự bình an, thanh lương. Đôi khi không đợi nghe thuyết giảng, chỉ cần ở gần vị ấy thôi, chúng ta cũng cảm nhận được một sự mát mẻ tươi vui trong tâm hồn.

Có ba bậc Thiện tri thức: Giáo thọ, Đồng hạnh và Ngoại hộ Thiện tri thức, tức người dạy mình, người bạn đồng tu với mình và người hỗ trợ tứ sự giúp mình có điều kiện tu hành. Ở đây, Đức Phật dạy về những tiêu chuẩn để đánh giá một vị Thiện tri thức đầy đủ Chánh tri kiến.

Người ấy tâm không trụ tướng, không rơi vào cảnh giới Thanh văn, Duyên giác”: Đây là hai tiêu chuẩn thuộc thuận hạnh của một Thiện tri thức. Thứ nhất, vị ấy tâm không trụ tướng, tức tâm không chấp vào tướng mà khởi niệm phân biệt. Thứ hai, vị ấy xa lìa được cảnh giới Nhị thừaThanh văn, Duyên giác. Như vậy, một mặt vị ấy không có tâm mong cầu phước báo nhơn thiên, mặt khác ly khai luôn các quả chứng Nhị thừa. Chánh kiến này là của Bồ tát Đại thừa. Bồ tát lăn xả vào các cõi để độ sanh, không còn tâm phân biệt thân-sơ, giàu-nghèo. Các Ngài cứu vớt tất cả mọi loài mà không thấy mình là người ban ơn, chúng sanh là kẻ chịu ơn.

Tuy hiện ở trần lao mà tâm vẫn thường thanh tịnh; thị hiện các điều lỗi lầm mà vẫn tán thán phạm hạnh, không khiến chúng sanh vào Bất luật nghi”: Đây là hai tiêu chuẩn thuộc nghịch hạnh. Thứ nhất, vị ấy ở trong trần nhưng không bị nhiễm trần. Chúng taphàm phu, sống trong cảnh bon chen của vòng danh lợi, rất nhiều khi thấy mỏi mệt vì bị cuốn hút vào guồng máy của xã hội. Các Ngài thì không như thế, dù thân vẫn làm tất cả mọi việc, thọ hưởng mọi dục lạc của thế gian, nhưng tâm vẫn như hư không, luôn luôn thanh tịnh. Hình ảnh của Tuệ Trung Thượng Sĩ, của các vị vua đời Trần như Thái Tông, Nhân Tông.v.v... là những biểu tượng đẹp đẽ nhất của ý nghĩa hòa quang đồng trần, hạnh tu của một vị Bồ tát.

Tiêu chuẩn thứ hai, các vị thị hiện các điều lỗi lầm mà vẫn tán thán phạm hạnh, như trường hợp Hòa thượng Tế Điên. Ngài ăn thịt uống rượu, la cà nơi trà đình tửu điếm để giáo hóa những hạng người ăn chơi trụy lạc. Việc làm của các vị tuy trên hình thức thấy lỗi lầm, nhưng bản thân lại ca ngợi hạnh tốt, khuyến khích người khác giữ gìn giới luật. Đó là vì thực hành Đồng-sự-nhiếp mà phải giả bày những hành động không tốt đó thôi. Hoặc cũng có thể, vì các vị vẫn còn trên đường tu tập, nên đôi khi mắc phải vài sai sót. Tuy vậy, vị ấy vẫn nhận biết mình có lỗi, sẵn sàng lãnh trách nhiệmdạy bảo người khác đừng phạm lỗi ấy. Cho nên, không khiến chúng sanh theo mình làm những điều trái giới luật (Bất-luật-nghi).

Cầu người như thế, sẽ được thành tựu Vô thượng Chánh Đẳng Chánh Giác”: Chúng ta tìm được người như thế làm Thầy, ở trong dòng pháp hóa của vị ấy tu hành đúng chánh pháp, chắc chắn cũng sẽ có đầy đủ chánh kiến. Như vậy, phát Đại tâm là chánh nhơn tu hành, cầu Thiện tri thức là chánh duyên. Chánh nhơn và chánh duyên đầy đủ, cuối cùng thành tựu Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.

Chúng sanh đời mạt pháp thấy người như thế, cần phải cúng dường không tiếc thân mạng”: Khi đã thờ vị ấy làm Thầy, chúng ta cần phảithái độ biết ơnđền ơn. Người tu luôn luôn lấy huệ mạng làm trọng và xem nhẹ thân mạng, cho nên phải hầu hạ cúng dường vị Thầy thật hết lòng hết sức. Nếu cần phải hy sinh cả tính mạng, chúng ta cũng không ngại ngần. Đó là đạo tình của người tu hành chân chính.

Vị Thiện tri thức kia, trong bốn oai nghi thường hiện thanh tịnh, cho đến giả bày các thứ lỗi lầm mà tâm vẫn không kiêu mạn, huống nữa là đoàn tài, vợ con, quyến thuộc !”: Vì vị ấy đã quá thanh tịnh trong mọi lúc đi đứng nằm ngồi, nên dù thị hiện bên ngoài những lỗi lầm giả tạo, tâm vị ấy vẫn không kiêu mạn; huống nữa là thức ăn, tài sản, vợ con, quyến thuộc mà họ lại tham đắm sao? Trong nhà Thiền thường nói đến “từ khước” và “xả ly”. Không phải chối bỏ và xa lìa thế gian, mà là từ khước và xả ly mọi đắm nhiễm đối với những thú vui trần tục. Vì không trốn tránh thế gian nên các Ngài vẫn thọ dụng của cải, có khi thị hiệnvợ con gia đình; nhưng các Ngài hoàn toàn thản nhiên tự tại trước mọi cám dỗ vật chất. Cho nên, chúng ta tu cũng nên xem lại mình có bị đắm nhiễm bởi ngũ dục hay không để biết trình độ tu tập của mình đến đâu. Nếu định lực của mình đã sung mãn, thì mọi địa vị quyền hành, mọi vật chất xa hoa đều chỉ như những giọt sương buổi sớm.

Nếu Thiện nam tử, đối với người Thiện hữu kia, không khởi ác niệm, cuối cùng được thành tựu chánh giác, tâm hoa phát sáng chiếu mười phương cõi nước”:Nếu đối với vị Thiện tri thức thị hiện những cảnh nhiễm như vậy, mà mình vẫn không khởi một niệm xấu ác nào, thì chúng ta biết rằng: Thứ nhất, do chúng tachánh kiến nên mới có lòng tin vững chắc đối với vị Thầy, ta biết Thầy mình vì phương tiện nên giả hiện những lầm lỗi. Thứ hai, do nội tâm chúng ta đã thanh tịnh, nên dù thấy cảnh thuận nghịch của người khác, tâm ta vẫn bất động. Đó là cái nhơn chiêu cảm quả lành. Từ đó tâm hoa bừng nở, khế hợp tự tánh chiếu soi cùng khắp pháp giới. Đây là hình ảnh lung linh mà kinh Di Đà đã mô tả “Hoa khai kiến Phật ngộ vô sanh”. Hoa ở đây tức là hoa tâm, Phật cũng là Phật tâm của chính mình. Ngộ là ngộ vô sanh pháp nhẫn. Tất cả chính là biểu hiện của tâm Viên giác.

Này Thiện nam tử! Vị Thiện tri thức kia, muốn chứng được diệu pháp phải lìa bốn bệnh. Thế nào là bốn? ”: Phần trên, Đức Phật trả lời câu thứ nhất về cách chọn thầy bạn. Đến đây, Phật giải đáp câu thứ hai về cách chọn pháp tu. Nếu vị Thiện tri thức kia dùng pháp sở chứng của mình để dạy bảo người khác, thì pháp tu của vị ấy phải xa lìa bốn bệnh. Lấy bốn bệnh này làm thước đo, xem pháp của vị ấy có tùy thuận Giác tánh hay không, cho nên nói “muốn chứng được diệu pháp phải lìa bốn bệnh”. Thế nào là bốn? - Tác và Nhậm thuộc bệnh của phàm phu, Chỉ và Diệt là bệnh của Nhị thừa. Chúng ta sẽ lần lượt nghe Phật giản trạch sau đây:

Một là Tác bệnh: Nếu có người nói như thế này: “Nơi bổn tâm ta làm nhiều thứ công hạnh, muốn cầu Viên giác”. Nhưng vì Viên giác ấy chẳng do tạo tác mà được, nên gọi đó là bệnh”: Giả sử có vị Thầy nói rằng, tôi tạo nhiều phước báo, làm nhiều công hạnh như xây chùa, tạo tượng để cầu Viên giác. Vị ấy cũng dạy người khác nên tu phước thật nhiều, mong sớm thành chánh quả. Đó chỉ là cái thấy hữu vi, chứng tỏ vị ấy chưa đủ chánh kiến, bởi vì hễ có tạo tác là đã trái với Giác tánh, nên gọi là Tác bệnh (bệnh làm).

Khi Tổ Bồ-Đề-Đạt-Ma sang Trung Hoa, gặp Lương Võ Đế. Đế hỏi Tổ: “Trẫm từ lên ngôi đến nay thường cất chùa, chép kinh... không biết bao nhiêu, vậy có công đức gì chăng? ” Tổ trả lời thẳng: “Không công đức”. Đế tức giận hỏi: “Đối Trẫm là ai?”. Tổ trả lời: “Không biết”. Nếu ai hiểu được ý nghĩa của từ “Không biết” này, sẽ rõ được ai là người không cùng muôn pháp làm bạn. Nhưng vua chưa có đủ chánh kiến trong sự tu tập vô vi nên không hiểu được Tổ đã quá từ bi, vì mình mà mấy phen trả lời cặn kẽ; vì vậy không phải là người xứng đáng để Tổ truyền trao tâm ấn. Chúng ta thấy, các cư sĩ tại gia có thể tu tập phước báo hữu vi, nhưng những người xuất gia thì phải xem việc thoát ly tam giới, đạt đến sự giác ngộ tối thượng làm mục đích tối hậu của đời mình.

Hai là Nhậm bệnh: Nếu lại có người nói như thế này: “Chúng ta hôm nay không cần đoạn sanh tử, chẳng cầu Niết bàn; Niết bànsanh tử đều không có niệm khởi diệt. Cứ mặc tất cả, tùy các pháp tánh, muốn cầu Viên giác”.Nhưng vì tánh Viên giác ấy chẳng phải do phó mặc mà được, nên gọi đó là bệnh”: Nhậm là mặc kệ. Nhậm bệnh trái ngược với Tác bệnh ở trên. Một bên làm tất cả công hạnh, một bên lại phó mặc chẳng làm gì cả, để mong cầu Viên giác. Cả hai đều là bệnh.

Nhiều người đọc sách Thiền, thấy nói phiền não tức Bồ đề, sanh tử tức Niết bàn, Niết bànsanh tử đều là hoa đốm trong hư không, cứ tùy duyên tiêu nghiệp cũ... Họ nghĩ như vậy là không cần làm gì cả, đói ăn mệt ngủ, tọa thiền thì cứ mặc tình để loạn tưởng hoặc hôn trầm chi phối, cho đó là tùy thuận Giác tánh. Đó chỉ là nói suông chớ không phải lẽ thật. Nếu chưa nhận ra bản tâm thanh tịnh của chính mình mà cứ phó mặc cho vọng khởi lẫy lừng, không tránh khỏi bị nghiệp dẫn lôi, cuối cùng đọa ba đường ác.

Đối chiếu với pháp tu Tri vọng: Chúng ta nghe nói, niệm buông vọng cũng là vọng, vậy cứ để mặc tình cho vọng chi phối. Tưởng vậy là tùy duyên mà sống, không biết đó chính là bệnh. Chúng ta tu, phải hiểu cho tường tận. Tạo tác hữu vi cầu Viên giác là lỗi, mà bỏ mặc không công phu muốn cầu Viên giác là lầm. Nhất là những người mới vào đạo, nghe ai nói những chỗ siêu tuyệt thì thường lấy đó làm chỗ y cứ, muốn đi đường chim bay cho nhanh, không ngờ lạc vào ngã rẽ. Cho nên, có khi Phật giảng đến chỗ rốt ráo, có khi chỉ bày phương tiện để phù hợp với chúng sanh cănthấp kém. Một vị Thầy có kinh nghiệm, chỉ cần nhìn dáng điệu, cách sinh hoạt nói năng của học trò là đã biết trình độ tu tập của người ấy đến đâu. Từ đó mới tùy cơsử dụng phương pháp dạy dỗ thích hợp.

Ba là Chỉ bệnh: Nếu lại có người nói như thế này: “Nay tự tâm của ta hằng dứt trừ các niệm, được tất cả tánh: Tịch diệt (Bất động), Bình đẳng (Bất nhị), muốn cầu Viên giác”. Nhưng vì tánh Viên giác ấy chẳng phải do hiệp với tâm chỉ mà được, nên gọi đó là bệnh”: Chỉ là dừng, là ngăn chặn vọng niệm. Dùng tâm dứt vọng là rơi vào đối trị, đem tâm này dẹp cái tâm kia, tất cả đều là vọng, vì vậy không hợp với Viên giác. Khi tọa thiền, có vọng khởi lên ta biết có vọng, không vọng cũng vẫn biết không vọng, chỉ yêu cầu biết rõ vậy thôi. Rõ ràng là không trừ không dứt niệm, vì nếu thấy có vọng niệm đáng trừ là trái với Giác tâm vô niệm. Đây là chỗ tế nhị, chúng ta cần nhận biết tường tận mới khỏi lầm lẫn lúc dụng công.

Bốn là Diệt bệnh: Nếu lại có người nói như thế này: “Ta nay hằng đoạn tất cả phiền não, thân tâm hoàn toàn trống rỗng, không còn gì là của mình, huống nữa là cảnh giới hư vọng của căn trần? Tất cả đều lặng lẽ, muốn cầu Viên giác”. Nhưng vì tánh Viên giác ấy chẳng phải là tướng lặng lẽ, nên gọi đó là bệnh”: Diệt là tận cùng, cả tâm và cảnh đều không. Hành giả đoạn tận phiền não, thân tâm căn trần đều tịch diệt. Những tưởng đạt đến trạng thái này đã là cứu cánh, an thân lập mạng tại đây, đâu ngờ đó cũng còn là bệnh. Nhà Thiền có câu “Mạc vị vô tâm vân thị đạo, Vô tâm du cách nhất trùng quan” (Chớ nghĩ vô tâm chính là đạo, Vô tâm còn cách một lớp rào). Bởi vì, tánh Viên giác vừa tịch vừa chiếu, nghĩa là lặng lẽ mà hằng tri. Ở đây, hành giả mới chỉ được lặng lẽ mà chưa chiếu soi nên chưa hợp với Giác thể. Có thể nói, Diệt bệnh đồng nghĩa với Thọ mạng tướng, tức còn có cái huyễn trí biết mình đang lặng lẽ. Muốn đạt đến rốt ráo, phải buông luôn cả huyễn trí này.

Người lìa được bốn bệnh thì biết đã thanh tịnh. Người quán như thế này gọi là chánh quán, nếu quán khác đi gọi là tà quán”: Chúng ta dùng bốn bệnh Tác, Nhậm, Chỉ, Diệt nêu trên để xem lại pháp của Thầy mình, đồng thời cũng có thể dùng để đánh giá mức độ tu hành của mình đến đâu. Vị Thiện tri thức chúng ta thờ làm Thầy, nếu lìa được bốn bệnh thì pháp sở chứng của vị ấy quả là thanh tịnh, đáng cho mình nương theo tu tập. Chính bốn bệnh này làm sáng tỏ thêm bốn tướng ở chương trước. Khi hiểu rõ, chúng ta không còn lẫm lẫn khi tự tu và hướng dẫn người khác tu hành. Nếu không y cứ theo lời Phật dạy, chúng ta rất dễ lạc vào tà kiến, uổng cả đời tu. Lời Phật nhắc nhở thật vô cùng tha thiết, “quán như thế này gọi là Chánh quán, nếu quán khác đi gọi là tà quán”, chúng ta phải luôn luôn khắc cốt ghi tâm!

Này Thiện nam tử! Chúng sanh đời mạt pháp muốn tu hành, cần hết lòng tận mạng cúng dường Thiện hữu, thờ Thiện tri thức”: Đây là câu trả lời cho lời thưa hỏi thứ ba của Bồ tát Phổ Giác. Sau khi căn cứ vào bốn bệnh để xác định một vị Thiện tri thức, thờ vị ấy làm Thầy, chúng ta phải đối với vị ấy như thế nào để biểu hiện lòng biết ơn? Đức Phật dạy rằng, đối với Thiện hữu là bạn tốt, phải thân cận cúng dường không kể thân mạng; đối với Thầy lành, phải hết lòng phụng thờ, giữ lễ thầy trò đúng mực.

Vị Thiện tri thức ấy muốn thân cận với mình, mình phải dứt tâm kiêu mạn. Nếu vị ấy xa lìa, mình phải dứt tâm sân hận”: Kiêu mạnsân hận là bệnh thường gặp ở người tu, nhất là những người mới vào đạo. Thường khi thấy Thầy muốn thân cận, tới lui dạy dỗ mình, mình hay khởi niệm, có lẽ mình tu hay tu giỏi hơn người khác nên Thầy đặc biệt chú ý đến mình; từ đó sanh tâm kiêu mạn. Ngược lại, nếu Thầy có duyên phải đi xa, không còn lo lắng cho mình, mình lại có tâm giận hờn Thầy. Cả hai đều làm chướng đạo, vì vậy phải dứt trừ.

Khi hiện ra thuận cảnh hay nghịch cảnh, cũng giống như hư không”: Dù vị Thầy dành nhiều ưu đãi hay tỏ vẻ có cảm tình nhiều với mình (thuận cảnh) hoặc ngược lại, gây cho mình nhiều khó khăn, đối xử không tốt với mình (nghịch cảnh), thì tâm mình vẫn không bị xáo trộn. Giống như hư không, dù trời nắng đẹp hay có giông bão, hư không vẫn chẳng bị ảnh hưởng gì. Vì sao được như vậy? - Vì chúng ta tin rằng vị Thiện tri thức ấy có đầy đủ chánh kiến, nên có rất nhiều phương cách để dạy bảo học trò, lúc cương lúc nhu, lúc xa lìa lúc gần gũi, tất cả đều nhằm mục đích làm sao cho việc giáo hóa đạt được kết quả cao nhất.

biết thân tâm thảy đều bình đẳng, cùng các chúng sanh đồng thể không khác. Tu hành như thế mới nhập được Viên giác”: Người tu phải quét sạch hết mọi tâm niệm nhị biên phân biệt, phải dứt bỏ hết mọi dây mơ rễ má trong tâm. Ngay đó, ta thấy muôn sự muôn vật đều bình đẳng nơi Không tánh, phát khởi Đồng thể Đại bi, thâm nhập tinh thần “Tất cả là một, một là tất cả”. Ngay đó là hội nhập Viên giác

Một điều cần nhấn mạnh về thái độ của người học Phật đối với thầy lành bạn tốt cũng như với tất cả các bạn đồng tu. Bởi vì trong thời mạt pháp, tà sư rất nhiều mà Thiện tri thức lại rất hiếm gặp. Nếu chúng ta tìm được minh sư, được sinh hoạt trong đạo tràng với các bạn tốt, đó là phước duyên nhiều đời của chúng ta. Đối với vị Thiện tri thức ấy, chúng ta phải có tâm cung kính, hết lòng thờ phụng, tin chắc rằng càng gần gũi vị ấy, mình sẽ càng thăng tiến trên đường tu. Đã cung kính thì dĩ nhiên phải dứt trừ tâm kiêu mạn, phải hạ mình cầu thị. Như vậy mới có thể học được nhiều điều hay qua ngôn thuyết, qua tư cách, qua phong thái và những kinh nghiệm quí báu của Thầy. Chúng ta phải mở toang cánh cửa nhận thức để sẵn sàng đón nhận những kiến thức mới, những phát minh mới,những kinh nghiệm mới của Thầy và của những người xung quanh. Chúng ta phải trải lòng ra, sống chan hòa với mọi người, nhìn mọi người bằng đôi mắt không định kiến, không phân biệt. Lúc ấy, ta sẽ thấy mình và người không hai không khác, ta sẽ hoàn toàn cảm thông được với người, hoàn toàn thấu hiểu tận ngõ ngách sâu kín của tâm hồn họ. Có hiểu mới có thương. Đó là căn bản để phát sinh Đồng thể Đại bi như đã nói ở đoạn trước.

Này Thiện nam tử! Chúng sanh đời mạt pháp, không được thành đạo là do tất cả chủng tử “ta-người, thương-ghét...” có từ vô thủy nên chưa được giải thoát”: Trả lời câu hỏi thứ tư của Bồ tát Phổ Giác, Đức Phật dạy, chúng sanh từ vô thủy mãi trôi lăn trong luân hồi sanh tử, đó là do tất cả chủng tử “ta-người, thương-ghét” tiềm phục trong A-lại-da thức.

Ở chương trước, Phật đã giảng về ý niệm thương ghét làm cản ngăn sự thể nhập Viên giác. Đó là nói về Hiện-hạnh. Trong chương này, Phật dạy phá một lớp sâu hơn, tức phá trừ chủng tử tiềm ẩn vi tế. Chủng tử này là do không đủ chánh kiến, gặp duyên thì khởi ra ý niệm phân biệt ta và người, thuận với mình thì thương, nghịch với mình sanh ghét. Do có thương có ghét nên sanh phiền não, đau khổ không có ngày cùng.

Nếu lại có người quán kẻ oan gia như cha mẹ mình, tâm không có hai liền trừ các bệnh. Đối với các pháp “ta-người, thương-ghét...” cũng lại như vậy”: Đây là phương pháp diệt trừ các chủng tử ấy. Phật dạy, muốn trị được các bệnh “ta-người, thương-ghét” phải dùng tâm bình đẳng để quán sát người và các pháp. Đối với người, chúng ta phải quán thấy người mình ghét nhất (là oan gia) cũng không khác với người mình thương nhất (là cha mẹ). Không còn phân biệt người thân và kẻ thù, tức không còn ý niệm thương ghét. Ý niệm (hiện hạnh) không còn thì chủng tử cũng bị diệt. Mắt xích Ái trong Thập Nhị Nhân Duyên bị chặt đứt, mặc nhiên giải thoát khỏi vòng sanh tử.

Đối với các pháp, chúng ta cũng thấy bình đẳng không hai: Đẹp không ưa, xấu không ghét; Ai khen không mừng, ai chê không giận; phiền nãoBồ đề, sanh tửNiết bàn cũng chỉ là mộng ảo. Thấy được như vậy là mọi bệnh đều tiêu trừ.

Này Thiện nam tử! Chúng sanh đời mạt pháp muốn cầu Viên giác, phải phát tâm như thế này: “Tất cả chúng sanh trong cùng khắp hư không, ta đều khiến vào hết trong Viên giác. Ở trong Viên giác, không có người thủ giác, trừ tất cả tướng “ta-người...”. Phát tâm như thế, mới khỏi lạc vào tà kiến”: Phật giải đáp câu hỏi cuối cùng: Chúng sanh đời mạt pháp, muốn khỏi lạc vào tà kiến, phải phát Bồ đề tâm. Đây là tâm của Bồ tát, nguyện độ tất cả chúng sanh, không phân biệt một ai. Lời phát nguyện này có 4 ý nghĩa :

- “Tất cả chúng sanh trong cùng khắp hư không”: Tâm nguyện độ sanh không giới hạn, không phân biệt chủng loài, thân sơ. Đây là tâm quảng đại hay tâm bình đẳng. 

- “Ta đều khiến vào hết trong Viên giác”: Nguyện độ tất cả đều được thành Phật, tức quả vị cao tột, rốt ráo Niết bàn.

- “Ở trong Viên giác không có người thủ giác”: Thể nhập Viên giác nhưng không thấy có người năng thủ, Viên giác là pháp sở thủ. Năng sở đều dứt, tâm cảnh không hai.

- “Trừ tất cả tướng ta-người...”: Các tướng điên đảo Ngã, Nhơn, Chúng sanh, Thọ mạng đều bị dẹp trừ, đó mới thật là Cứu-cánh-giác.

Hành giả phát đại tâm như thế, thì dù ở đời mạt pháp, cũng không sợ rơi vào đường tà.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn trùng tuyên lại nghĩa này nên nói kệ rằng :

Phổ Giác, ông nên biết!
Những chúng sanh đời mạt

Muốn cầu Thiện tri thức

Phải cầu người chánh kiến,

Tâm xa pháp Nhị thừa”.

Đức Phật tóm tắt câu trả lời thứ nhất. Muốn cầu Thiện tri thức chỉ dạy chúng ta tu hành, phải chọn người có chánh kiến và tu theo Bồ tát Đại thừa

Trong pháp trừ bốn bệnh
Là: Tác, Chỉ, Nhậm, Diệt”.

Câu trả lời thứ hai: Pháp tu của vị ấy phải xa lìa bốn bệnh Tác-Chỉ-Nhậm-Diệt thì mới tùy thuận được Viên giác.

Gần gũi không kiêu mạn
Xa lìa không giận hờn

Thấy nhiều thứ cảnh giới

Tâm phải sanh hy hữu,

Xem như Phật ra đời”.

Câu thứ ba: Gặp được Thiện tri thứcchánh kiến như vậy là một điều hiếm có, cho nên phải cung kính thờ phụng hết lòng. Chúng ta không được sanh tâm kiêu mạn khi được vị ấy gần gũi dạy dỗ, cũng không giận hờn khi vị ấy rời xa. Vì Bồ tát có rất nhiều phương cách để giáo hóa, để điều phục chúng sanh, nên các Ngài có thể biểu hiện bằng nhiều hình thức, lúc gắt gỏng lúc nhu hòa, có khi thị hiện nhiều cảnh điên đảo của một Bồ tát nghịch hạnh. Lúc ấy, chúng ta phải vui mừng cho là điều hy hữu, phải xem vị ấy là đại diện Phật, như Phật ra đời.

Không vi phạm giới luật
Giới căn hằng thanh tịnh

Độ tất cả chúng sanh

Rốt ráo nhập Viên giác.

Không tướng Ngã, Nhơn kia

Thường nương chánh-trí-huệ

Siêu vượt được tà kiến

Chánh giác nhập Niết bàn !”

Đoạn này gồm chung hai câu trả lời thứ tư và năm. Hành giả phải tu phạm hạnh, giữ gìn giới căn thanh tịnh. Khi phát đại nguyện, phải nguyện độ tất cả chúng sanh đều thành Phật đạo, mà không thấy có người chứng và cảnh chứng. Lìa xa bốn tướng điên đảo Ngã, Nhơn, Chúng sanh, Thọ mạng; nương chánh kiến để diệt sạch các chủng tử “ta-người...”, siêu vượt mọi tà kiến. Được như vậy, hành giả sẽ có ngày thành tựu Viên giác, không có gì ngăn ngại.

Tóm lại, trong chương này, Đức Phật dạy chúng ta rất cặn kẽ về việc chọn thầy lựa bạn khi phát tâm tu hành. Vì sao như thế? - Nếu không chọn lựa cẩn thận thì cả đời tu của chúng ta sẽ chịu ảnh hưởng. Thật sự, giữa thầy và trò có sự liên kết với nhau rất mật thiết, kế đó là bạn đồng tu. Nếu gặp thầy lành bạn tốt, cuộc đời chúng ta sẽ được thăng hoa. Nếu ngay từ đầu lại chọn nhầm thầy tà bạn ác, chúng ta sẽ dần dần nhiễm phải tà kiến lúc nào không hay, rồi cả đời phải lạc vào đường ma lối quỉ. Cho nên, chúng ta phải có trí huệ trong việc tầm sư học đạo. Đáo cùng, mỗi người phải tự định đoạt lấy cuộc đời của mình, tự trau dồi trình độ tâm linh của mình, tự phản tỉnh và tự lo lắng cho mình. Người khác có nhắc nhở, có giúp đỡ mình thì cũng chỉ một phần nào đó mà thôi.

thời đại chúng ta, phương tiện truyền thông hiện đại, phương tiện giao thông phát triển, nên ngoài những tiêu chuẩn Phật dạy để đánh giá một Thiện tri thức, chúng ta còn cần chú trọng hai điều: Thứ nhất, ta xem hàng ngày vị ấy đọc loại sách gì; thứ hai, bạn bè và những người thân cận của vị ấy là người như thế nào? Tục ngữ Tây phương có câu “Hãy nói cho tôi biết anh đang chơi với ai, tôi sẽ bảo anh là người như thế nào” (Dis-moi qui tu hantes, je te dirai qui tu es).

Một điều quan trọng khác cần nhấn mạnh, đó là tu hành như thế nào để diệt trừ bốn bệnh, thể nhập Viên giác? Đức Phật đã dạy về bốn bệnh: Tác là có ý muốn tạo tác hữu vi; Nhậm là phó mặc không cần tu hành gì cả; Chỉ là dứt hết mọi vọng niệm; Diệt là trừ sạch phiền não, tâm hoàn toàn vắng lặng. Cả bốn đều là bệnh, không khế hợp với tự tánh. Nhưng thử hỏi, Tác và Nhậm là quan niệm sai lầm của phàm phu, điều này dễ hiểu; nhưng vì sao Chỉ và Diệt là cách tu của Nhị thừa, cũng lại là bệnh?

Chúng ta biết rằng, hành giả lúc đầu phải dứt hết vọng niệm (Chỉ), sau mới đạt đến trạng thái lặng lẽ trống không (Diệt). Nhưng nếu cho đây là Niết bàn cứu cánh rồi an thân lập mạng ở đó, thì nhà Thiền gọi là “tử thủy” hay “hang động của quỉ”. Bởi vì, tự tánh Viên giác vốn vừa Tịch vừa Chiếu; Tịch là định, là tự tánh lặng lẽ; Chiếu là huệ, là tự tánh chiếu soi. Tịch là thể, Chiếu là dụng. Tịch-Chiếu của Giác tánhvô vi, là vô công dụng hạnh, nếu dùng công hạnh hữu vi thì làm sao thể nhập Viên giác? Lại nữa nếu đạt đến trạng thái lặng lẽ không thôi, thì tự nhiên đánh mất diệu dụng của tự tánh. Cho nên, trên đường tu, chúng ta phải luôn xoay lại mình, khéo nhận ra bản tâm thanh tịnh của chính mình, và hằng sống với nó. Đó gọi là ngộ rồi mới tu. Điều này đạt được dễ hay khó, là tùy phước duyên của mỗi người đối với Phật pháp sâu hay cạn mà thôi.

Đã cần cầu sự giác ngộ tối thượng (Đại trí), hành giả phải phát khởi tâm Đại bi, nguyện độ tận chúng sanh tất cả đều viên thành Phật quả. “Thượng cầu hạ hóa” là hạnh tu của Bồ tát Đại thừa. “Thượng cầu” là chứng được toàn thể toàn dụng của tâm, tức chứng đạt toàn thể toàn dụng của Pháp giới tánh. Từ đó, Bồ tát thấy mình và chúng sanh bình đẳng, không hai không khác, nên tình thương bao la, trang trải vô điều kiện cho chúng sanh muôn loài, thệ nguyện lăn xả vào tam giới giáo hóa tất cả. Đó là ý nghĩa “hạ hóa”.

Chúng ta học kinh Viên giác, thấy ở chương nào Đức Phật cũng có những lời dạy bảo tha thiết, chí tình chí nghĩa đối với chúng hội và với tất cả chúng sanh đời mạt pháp. Cảm niệm ơn đức của Ngài và của các vị Đại Bồ tát, vì chúng ta mà nhiều lần thưa thỉnh Phật, chúng ta phải lập chí vững chắc, nguyện trọn đời vâng theo lời dạy của Phật để phát triển đời sống tâm linh. Đồng thời, phải phát Đại bi tâm, thệ nguyện lăn lộn vào ba cõi sáu đường để giáo hóa mọi chúng sanh hữu duyên với mình. Có như thế, chúng ta mới xứng đáng là con Phật, mới đáp đền trong muôn một công ơn của Ngài. 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12469)
Ấn là chiếc ấn hay khuôn dấu. Pháp có nghĩa là chánh pháp hay toàn bộ hệ thống tư tưởng trong lời dạy của Đức Phật được ghi lại trong ba tạng thánh điển. Pháp ấn có nghĩa là khuôn dấu của chánh pháp
(Xem: 10335)
Đây là Kinh thứ 16 của Nghĩa Túc Kinh và cũng có chủ đề “Mâu Ni”: Một vị mâu ni thấy như thế nào và hành xử như thế nào khi đứng trước tình trạng bạo động và sợ hãi?
(Xem: 12320)
Các nhà học giả Tây phương cũng như Đông phương đều công nhận hệ thống Bát-nhã là cổng chính yếu dẫn vào Đại thừa.
(Xem: 11616)
Mỗi khi nói về vấn đề niềm tin trong đạo Phật, chúng ta thường hay dẫn chứng những lời Phật dạy trong kinh Kalama.
(Xem: 28772)
Kinh Quán Thế Âm bồ tát cứu khổ nằm trong Vạn tự chánh tục tạng kinh, ta quen gọi là tạng chữ Vạn, quyển1, số 34. Kinh này là một trong những kinh Ấn Độ soạn thuật, thuộc Phương đẳng bộ.
(Xem: 12023)
Trong Kinh Kim Cang có câu, “Nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai.” Nghĩa là, nếu thấy các tướng đều xa lìa tướng, tức là thấy Phật.
(Xem: 12979)
Kinh Kim Cương (hay Kim Cang), tên đầy đủ là Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Đa (Vajracchedika-prajñaparamita), là một trong những bài kinh quan trọng nhất của Phật giáo Đại Thừa
(Xem: 11428)
Trong sách Nhật Tụng Thiền Môn, chúng ta có Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 12343)
Kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật là một bộ kinh hoằng dương rất thịnh, phổ biến rất rộng trong các kinh điển đại thừa.
(Xem: 17424)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 52978)
Phương pháp sám hối Từ bi đạo tràng Mục Liên Sám Pháp - Nghi Thức Tụng Niệm
(Xem: 35455)
Từ bi Đạo Tràng, bốn chữ ấy là danh hiệu của pháp sám hối nầy... Thích Viên Giác dịch
(Xem: 21356)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 10663)
Năm 1984 khi bắt đầu lạy kinh Ngũ Bách Danh bằng âm Hán Việt thuở ấy, tôi không để ý mấy về ngữ nghĩa. Vì lúc đó lạy chỉ để lạy theo lời nguyện của mình.
(Xem: 19204)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 12382)
Một trong những bộ kinh quan trọng nhất của hệ tư tưởng Phật giáo Bắc truyền, không những có ảnh hưởng to lớn đối với tín đồ Phật giáo mà còn lôi cuốn được sự quan tâm của giới nghiên cứu, học giả Đông Tây, là Kinh Diệu Pháp Liên Hoa.
(Xem: 25986)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 13294)
Tác phẩm này có thể là hành trang cần thiết cho những ai muốn thực hành Bồ Tát giới theo đúng lời Phật dạy. Vì vậy, tôi trân trọng giới thiệu đến Tăng, Ni, Phật tử.
(Xem: 14344)
Nguyên tác Phạn ngữ Abhidharmakośa của Thế Thân, Bản dịch Hán A-tỳ-đạt-ma-câu-xá luận của Huyền Trang - Việt dịch: Đạo Sinh
(Xem: 16057)
Vào khoảng thời gian Phật ngự tại nước Tỳ Xá Ly, gần đến giờ thọ trai Ngài mới vào thành khất thực. Bấy giờ trong thành Tỳ Xá Ly có một chàng ly xa tên là Tỳ La Tứ Na (Dõng Quân).
(Xem: 13707)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp, Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ, Ngã kim kiến văn đắc thọ trì, Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa.
(Xem: 16813)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ Ngã kim kiến văn đắc thọ trì Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa
(Xem: 17529)
Vào khoảng 150 năm sau khi Bụt nhập Niết bàn, đạo Bụt chia thành nhiều bộ phái, kéo dài mấy trăm năm. Thời kỳ này gọi là thời kỳ Đạo Bụt Bộ Phái.
(Xem: 13105)
Nói đến kinh Pháp Hoa, các vị danh Tăng đều hết lòng ca ngợi. Riêng tôi, từ sơ phát tâm đã có nhân duyên đặc biệt đối với bộ kinh này.
(Xem: 12508)
A-hàm có thể đẩy tan những dục vọng phiền não đang thiêu đốt chúng ta và nuôi lớn giới thân tuệ mạng thánh hiền của chúng ta...
(Xem: 11586)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni sanh ở Ấn Độ, nên thuyết pháp đều dùng Phạn ngữ, Kinh điển do người sau kiết tập cũng bằng Phạn văn. Những bổn Kinh Phật bằng Trung văn đều từ Phạn văn mà dịch lại.
(Xem: 11574)
Có rất nhiều công trình thâm cứu có tính cách học giả về tác phẩm nầy dưới dạng Anh ngữ, Nhật ngữ và Hoa ngữ liên quan đến đời sống, khái niệm nồng cốt của tư tưởng Trí Khải Đại Sư trong mối tương quan với Phật giáo Trung Quán
(Xem: 14475)
Luật học hay giới luật học là môn học thuộc về hành môn, nhằm nghiên cứuthực hành về giới luật do đức Phật chế định cho các đệ tử
(Xem: 20400)
Quyển sách “Giáo Trình Phật Học” quý độc giả đang cầm trên tay là được biên dịch ra tiếng Việt từ quyển “Buddhism Course” của tác giả Chan Khoon San.
(Xem: 18936)
Tam Tạng Thánh Điển là bộ sưu tập Văn Chương Pali lớn trong đó tàng chứa toàn bộ Giáo Pháp của Đức Phật Gotama đã tuyên thuyết trong suốt bốn mươi lăm năm từ lúc ngài Giác Ngộ đến khi nhập Niết Bàn.
(Xem: 19516)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18595)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 12161)
Kinh này dịch từ kinh Pháp Ấn của tạng Hán (kinh 104 của tạng kinh Đại Chính) do thầy Thi Hộ dịch vào đầu thế kỷ thứ mười.
(Xem: 12284)
Đại Chánh Tân Tu số 0158 - 8 Quyển: Hán dịch: Mất tên người dịch - Phụ vào dịch phẩm đời Tần; Việt dịch: Linh-Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
(Xem: 13826)
Là Bộ Luật trong hệ thống Luật-Tạng do Bộ Phái Nhất Thiết Hữu thuộc hệ Thượng Tọa Bộ Ấn Độ kiết tập...Đại Tạng No. 1451
(Xem: 14951)
“Triệu Luận” là một bộ luận Phật Giáo do Tăng Triệu, vị học giả Bát nhã học, bậc cao tăng nổi tiếng đời Hậu Tần Trung Quốc, chủ yếu xiển thuật giáo nghĩa Bát nhã Phật Giáo.
(Xem: 15019)
Bộ chú giải này là một trong năm bộ luận giải thích về luật trong Luật bộ thuộc Hán dịch Bắc truyền Đại tạng kinh lưu hành tại Trung quốc và được đưa vào Đại chính tân tu Đại tạng kinh N.1462, tập 24 do Nhật bản biên tập.
(Xem: 13959)
Dịch theo bản in lần thứ nhất của Hoa Tạng Phật Giáo Đồ Thư Quán, Đài Bắc, tháng 2, năm Dân Quốc 81 - 1992
(Xem: 15499)
Hữu Bộ là một trường phái Phật Giáo quan trọng. Nếu không kể Thượng Toạ Bộ (Theravada, Sthaviravada) thì Hữu Bộbộ phái Phật Giáo duy nhất có được một hệ thống giáo lý gần như nguyên thuỷ...
(Xem: 11375)
Tôi nghe như vầy vào khoảng thời gian đức Phật ngự tại tinh xá Kỳ Hoàn thuộc nước Xá Vệ có ngàn vị tỳ theo tăng và mười ngàn đại Bồ tát theo nghe pháp.
(Xem: 17135)
Biện chứng Phá mê Trừ khổ - Prajnaparamita Hrdaya Sutra (Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm kinh); Thi Vũ dịch và chú giải
(Xem: 14935)
Là 2 bản Kinh: Kinh Phật Thuyết A Di Đà No. 366 và Kinh Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ No. 367
(Xem: 20164)
Bát-nhã tâm kinh (prajñāpāramitāhṛdayasūtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát-nhã ba-la-mật (prajñā-pāramitā). Trong bản Hán dịch của Huyền Trang, kinh gồm 262 chữ.
(Xem: 14592)
Như thật tôi nghe một thuở nọ Phật cùng các Tỳ kheo vân tập tại vườn cây của Trưởng giả Cấp cô ĐộcThái tử Kỳ Đà ở nước Xá Vệ.
(Xem: 13804)
Kinh này dịch từ kinh số 301 trong bộ Tạp A Hàm của tạng Hán. Tạp A Hàm là kinh số 99 của tạng kinh Đại Chính.
(Xem: 11676)
Đây là những điều tôi đã được nghe: Hồi ấy, có những vị thượng tọa khất sĩ cùng cư trú tại vườn Lộc Uyển ở Isipatana thành Vārānasi. Đức Thế tôn vừa mới nhập diệt không lâu.
(Xem: 15024)
Kinh Mục Kiền Liên hỏi năm trăm tội khinh trọng trong Giới Luật; Mất tên người dịch sang Hán văn, Thích Nguyên Lộc dịch Việt
(Xem: 12971)
Hán dịch: Hậu Hán, Tam tạng An Thế Cao người nước An Tức; Việt dịch: Tì-kheo Thích Nguyên Chơn.
(Xem: 22832)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434;, dịch Phạn sang Hán: Nguyên Ngụy Thiên Trúc Tam Tạng Cát-ca-dạ; Dịch Hán sang Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ...
(Xem: 14534)
Người giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không. Giảng tại: Tịnh Tông Học Hội Singapore. Người dịch: Vọng Tây cư sĩ. Biên tập: Phật tử Diệu Hương, Phật tử Diệu Hiền
(Xem: 11620)
Kinh này là kinh thứ mười trong Nghĩa Túc Kinh, nhưng lại là kinh thứ mười một trong Atthaka Vagga, kinh tương đương trong tạng Pali.
(Xem: 13144)
Có thể xem đây là "tập sách đầu giường" hay "đôi tay tỳ-kheo"; rất cần thiết cho mỗi vị Tỳ-kheo mang theo bên mình để mỗi ngày mở ra học tụng cho nhuần luật nghi căn bản.
(Xem: 16849)
Không Sát Sanh là giới thứ nhất trong Ngũ Giới. Chúng ta đang sống trong một thế giới bất toàn, mạnh hiếp yếu, lớn hiếp nhỏ, giết chóc tràn lan khắp nơi.
(Xem: 18314)
Kể từ khi đạo Phật truyền vào nước ta, hàng Phật tử tại gia trong bất cứ thời đại nào và hoàn cảnh nào cũng đã có những đóng góp thiết thực trong sứ mạng hộ trìhoằng dương chánh pháp.
(Xem: 11925)
Tạng Luật (Vinayapiṭaka) thuộc về Tam Tạng (Tipiṭaka) là những lời dạy và quy định của đức Phật về các vấn đềliên quan đến cuộc sống...
(Xem: 11482)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, Trưởng lão Māhakassapa (Ma-ha Ca-diếp) triệu tập 500 vị Tỳ-khưu A-la-hán để trùng tụng Pháp và Luật.
(Xem: 15818)
Bồ Tát Long Thọ - Cưu Ma La Thập Hán dịch; Chân Hiền Tâm Việt dịch & Giải thích; Xuất Bản 2007
(Xem: 12856)
Ngài Long Thọ, tác giả Trung Quán Luận và những kinh sách khác, được chư thiền đức xưng tán là Đệ nhị Thích Ca, đã vạch ra thời kỳ chuyển pháp lần thứ hai.
(Xem: 18877)
Vị Tăng, lấy Phật làm tính, lấy Như-Lai làm nhà, lấy Pháp làm thân, lấy Tuệ làm mệnh, lấy Thiền-duyệt làm thức ăn.
(Xem: 18383)
Trong Vi Diệu Pháp cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant