Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

07. Phẩm A La Hán - The Worthy (90-99)

16 Tháng Ba 201100:00(Xem: 10002)
07. Phẩm A La Hán - The Worthy (90-99)

KINH PHÁP CÚ (DHAMMAPADA)
Đa ngữ: Việt - Anh - Pháp - Đức
Dịch Việt: Hòa thượng Thích Thiện Siêu
Bản dịch Anh ngữ: Hòa thượng NARADA, Colombo, Sri Lanka, 1963, 1971
TỊNH MINH dịch Việt/ thể kệ - Sài Gòn, PL. 2539 - TL. 1995
Sưu tập và hiệu đính: Nguyên Định Mùa Phật Đản PL. 2550, 2006

Phẩm VII
ARAHANTA VAGGA - THE WORTHY - PHẨM A-LA-HÁN (64)

CT (64): A la hán (Arahant) tức là bậc thánh đã dứt hết phiền não
chứng Niết bàn, không bị sanh tử nữa.

90. Người đã giải thoát hết thảy, đã dứt hết thảy buộc ràng(65), là người đi đường đã đến đích(66), chẳng còn chi lo sợ khổ đau.

CT (65): Trói buộc (Gantha) có bốn thứ : Tham (Abhijjha), sân (Vijjapada), giới cấm thủ (Sibbhataparomasà), kiến thủ (Idan saccabhinivesa).
CT (66): Con đường hữu vi lậu nghiệp đã đi cùng. Có chỗ gọi là “các lậu đã dứt sạch, việc tu hành đã xong, phạm hạnh đã thành lập”.

For him who has completed the journey,
for him who is sorrowless,
for him who from everything is wholly free,
for him who has destroyed all ties,
the fever (of passion) exists not. -- 90

90. Ai đi đường đến đích,
Diệt trừ hết ưu sầu,
Giải thoát mọi ràng buộc,
Tham dục chẳng còn đâu.

90 - Pour celui qui a achevé le voyage ; pour celui qui est sans chagrin ; pour celui qui est entièrement libéré de toutes choses ; pour celui qui a détruit toutes les attaches, la fièvre de la passion n'existe pas .

90. Bei dem, der den ganzen Weg gegangen ist, frei von Leid ist, völlig befreit ist in jeglicher Hinsicht, alle Fesseln abgeworfen hat: bei ihm wird kein Fieber der sinnlichen Begierde gefunden.

91. Kẻ dũng mãnh chánh niệm, tâm không ưa thích tại gia ; ví như con ngỗng trời, khi ra khỏi ao, chúng bỏ lại cái ao hồ không chút nhớ tiếc(67).

CT (67): Con ngỗng mỗi khi ra khỏi ao thì chẳng còn nghĩ tưởng đến mồi, cỏ, nước trong ao là của mình. Vị A la hán đã xuất gia rồi thì không còn luyến tưởng tới gia tài của cải nữa.

The mindful exert themselves.
To no abode are they attached.
Like swans that quit their pools,
home after home they abandon (and go). -- 91 

91. Ai nỗ lực chánh niệm,
Không lưu luyến nơi nào,
Như ngỗng trời rời ao,
Từ bỏ mọi chỗ trú.

91 - Les attentifs s'exercent sur eux-mêmes, à aucune demeure ils ne sont attachés ; Comme des cygnes quittent leur étang, ils abandonnent abri après abri sans regret.

91. Die Achtsamen mühen sich ständig, sind an nichts gebunden; Sie geben jedes Zuhause auf, wie Schwäne, die von einem See ohne Wehmut abheben.

92. Những vị A la hán không chất chứa tài sản(68) , biết rõ mục đích sự ăn uống(69), tự tại đi trong cảnh giới "không, vô tướng, giải thoát"(70), như chim bay giữa hư không, khó tìm thấy dấu vết.

CT (68): Chẳng còn hoạt động theo nghiệp lực.
CT (69): Biết rõ sự ăn uống là cốt để duy trì tánh mạng mà tu hành.
CT (70): Chứng được Niết bàn gọi là giải thoát (Vimokha) ; lại gọi là không (Sinnàta), vì không còn tham, sân, si, phiền não ; lại gọi là vô tướng (Animitta) vì từ nay đã được tự tại không còn đắm trước tưởng tham dục.

They for whom there is no accumulation,
who reflect well over their food,
who have Deliverance, which is Void and Signless, 
as their object
- their course like that of birds in the air, 
cannot be traced. -- 92 

92. Ai từ bỏ tích lũy,
Quán tưởng khi uống ăn,
Không - vô tướng - giải thoát,
Theo hướng đó tu hành,
Như giữa trời chim lượn,
Tìm đâu ra mối manh!

92 - Ceux qui n'accumulent pas les activités karmiques et les possessions, qui sont bien attentifs durant les repas, méditent sur la Vacuité, le Sans-Forme, la Délivrance, leur chemin ne peut être tracé, comme celui des oiseaux dans l'air.

92. Sie horten Habseligkeiten nicht, sie bewahren Achtsamkeit beim Essen, meditieren über Leerheit, Formlosigkeit und Befreiung; Demnach kann ihre Spur, wie die der Vögel durch die Luft, nicht verfolgt werden.

93. Những vị A la hán đã dứt sạch các lậu hoặc(71), không tham đắm uống ăn, tự tại đi trong cảnh giới "không, vô tướng, giải thoát" như chim bay giữa hư không, khó tìm thấy dấu vết.

CT (71): Lậu có bốn thứ : dục lậu (Kamasava), hữu lậu (Bhavasava), kiến lậu (Ditthasava), vô minh lậu (Avijjasava).

He whose corruptions are destroyed,
he who is not attached to food,
he who has Deliverance, which is Void and Signless, 
as his object
- his path, like that of birds in the air, 
cannot be traced. -- 93 

93. Ai dứt trừ lậu hoặc,
Ăn uống chẳng tham tranh,
Không - vô tướng - giải thoát,
Theo hướng đó tu hành,
Như giữa trời chim lượn,
Tìm đâu ra mối manh!

93 - Celui dont les Purulences sont détruites, qui n’est pas attaché à la nourriture, dont l'objet est la Vacuité, le Sans-Forme, la Délivrance, son chemin ne peut être tracé, comme celui des oiseaux dans l'air.

93. Sie beenden Unreinheiten, bewahren Mässigkeit beim Essen, meditieren über Leerheit, Formlosigkeit und Befreiung; Demnach kann ihre Spur, wie die der Vögel durch die Luft, nicht verfolgt werden.

94. Những vị A la hán đã tịch tịnh được các căn như tên kỵ mã đã điều luyện được ngựa lành, nên không còn phiền não ngã mạn, được hàng nhơn thiên kính mộ.

He whose senses are subdued,
like steeds well-trained by a charioteer,
he whose pride is destroyed 
and is free from the corruptions,
- such a steadfast one even the gods hold dear. -- 94 

94. Ai nhiếp hộ các căn,
Như chiến mã thuần thục,
Mạn trừ, lậu hoặc dứt,
Chư thiên cũng kính phục.

94 - Celui dont les sens sont contrôlés, tels des coursiers bien entraînés par le conducteur de char, celui dont l'orgueil est détruit et qui est libre de Purulences , de tels hommes fermes, même les Dieux les tiennent pour chers. 

94. Er, dessen Sinne gezügelt sind wie Pferde, die der Wagenlenker gut trainiert hat, dessen Hochmut aufgegeben ist, frei von Unreimheiten, wird sogar von den Göttern verehrt.

95. Những vị A la hán đã bỏ hết sân hận, tâm như cõi đất bằng, chí thành kiên cố như nhân đà yết la(72), như ao sâu không bùn, nên chẳng còn bị luân hồi xoay chuyển.

CT (72): Nhân đà yết la (Indakhila), nhiều bản dịch là môn hạn (chấn cửa) tức là đặt một tảng đá giữa chổ cửa lớn, dùng chấn then cửa để đóng cho chắc. Có một chỗ nói indakhila theo Phạn tự là indra-khila tức là cái trụ của Nhân đà la (Đế thích). Ở tại chỗ tiến vào thành, dựng một cái trụ lớn để tượng trưng chỗ ở của Nhân đà la (thần bảo hộ của dân Ấn Độ). Chính ngày xưa đã dịch là cái tràng kiên cố, là bảy tràng Đế Thích, là đài tọa.

Like the earth a balanced
and well-disciplined person resents not.
He is comparable to an Indakhiila.
Like a pool unsullied by mud, is he;
to such a balanced one
life's wanderings do not arise. -- 95 

95. Như đất không hiềm hận,
Như trụ chấn kiên trì,
Như hồ không vẩn đục,
Luân hồi hết chuyển di.

95 - Comme la terre, comme un poteau d’Indra, une personne vertueuse et ferme n'est pas ébranlée, elle est comme un étang non souillé par la boue ; Pour un tel être qui ne peut changer, il n'y a plus d'errance.

95. Wie Erde reagiert er nicht mit Hass, beständig wie ein INDRAS Pfeiler, wie ein See ohne Schlamm; Für ihn gibt es kein Weitervegetieren.

96. Những vị A la hán ý nghiệp thường vắng lặng, ngữ nghiệp, hành nghiệp thường vắng lặng, lại có chánh trí giải thoát, nên được an ổn luôn.

Calm is his mind, calm is his speech, calm is his action,
who, rightly knowing, is wholly freed,
perfectly peaceful, and equipoised. -- 96 

96. Người tâm thường an tịnh,
Ngôn hành đều tịnh an,
Chánh trí, chơn giải thoát,
An tịnh thế hoàn toàn.

96 - Calme est son mental, calme est sa parole, calme son action, de celui qui, ayant la parfaite connaissance, est pleinement libre, parfaitement paisible et équilibré. 

96. Ruhig ist sein Geist, ruhig seine Rede, ruhig seine Tat; Jemand, der durch rechtes Wissen befreit ist, ist somit ganz befriedet. 

97. Những vị A la hán chẳng còn phải tin ai(73), đã thấu hiểu đạo vô vi, dứt trừ vĩnh viễn nguyên nhân(74) cùng quả báo ràng buộc(75), lòng tham dục cũng xa lìa; Thật là bậc Vô thượng sĩ.

CT (73): Vô tín (Assaddha) hoặc dịch là bất tín, ý nói vị Thánh nhân tự mình chứng biết chứ không phải do ai làm cho giác ngộ.
CT (74): Các nghiệp thiện, nghiệp ác trong vòng hữu lậu thế gian.
CT (75): Sanh tử luân hồi.

The man who is not credulous,
who understands the Uncreate(Nibbaana),
who has cut off the links,
who has put an end to occasion (of good and evil),
who has all eschewed all desires,
he indeed, is a supreme man. -- 97 

97. Không tin nơi người khác,
Thông đạt lý vô sanh,
Cắt đứt mọi hệ lụy,
Triệt tiêu các mối manh,
Tận diệt mọi tham ái,
Bậc thượng sĩ tu hành.

97 - L'homme qui n'est pas crédule, qui connaît le non-fait (Nirvana), qui a coupé les liens des naissances et des morts, qui a mis fin à toutes occasions de mal et de bien, qui a renoncé à tout désir, celui là est vraiment l'homme suprême.

97. Der Mensch ist nicht leichtgläubig, hat das Ungeschaffene erkannt, alle Beziehungen abgeschnitten, hat Abhängigkeiten beendet; so ist der hervorragendste Mensch auf dem Weg der Vervollkommung.

98. Dù ở xóm làng, dù ở núi rừng, dù ở đất bằng, dù ở ngõ trũng(76), bất cứ ở chốn nào mà có vị A la hán thì ở đấy đầy cảnh tượng yên vui.
CT (76): Nguyên văn chép : Nina là chỗ thấp, Thala là chỗ cao.

Whether in village, or in forest,
in vale or on hill,
wherever Arahants dwell,
-delightful, indeed, is that spot. -- 98 

98. Làng mạc hay núi rừng,
Thung lũng hay đồi cao,
La hán trú chỗ nào,
Nơi ấy được an lạc.

98 - Que ce soit dans un village ou dans une forêt, dans la vallée ou sur la colline, où que les saints Arahants demeurent, délicieux, vraiment, est ce lieu .

98. In Dörfern, der Wildnis, Tälern oder Ebenen: Der Ort ist schön, wo Arhats weilen.

99. Lâm dã là cảnh rất vui đối với vị A la hán, nhưng người đời chẳng ưa thích ; trái lại, dục lạc là cảnh ưa thích đối với người đời, vị A la hán lại lánh xa.

Delightful are the forests where worldlings delight not;
the passionless will rejoice (therein),
(for) they seek no sensual pleasures. -- 99 

99. Phàm phu không ưa thích,
An trú giữa núi rừng,
Bậc ly tham vui mừng,
Vì không tìm dục lạc.

99 - Délicieuses sont les forêts, qui ne plaisent pas aux mondains ; Ceux qui sont sans passions s'y réjouiront, car ils n'y cherchent pas les plaisirs sensuels.

99. Schöne Wildnis, wo es die Masse nicht schön findet, finden es die, die frei von Begierde sind schön, da sie nicht nach Sinnesvergnügungen suchen.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 188635)
Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo đám mây hương Phưởng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi tam-bảo
(Xem: 43779)
Theo phép thọ Bát quan trai giới, người thọ giới phải đến chùa cầu một thầy Tỳ kheo trai giới thanh tịnh truyền cho. Về nghi thức có thầy truyền giới thì thứ lớp rất nhiều.
(Xem: 25028)
Con đường của Đức Phật không phải chỉ có chánh niệm, các pháp hành thiền Chỉthiền Quán, nhưng bao gồm các Giới đức, bắt đầu bằng năm giới căn bản.
(Xem: 30800)
"Quán Tự Tại Bồ Tát hành thâm bát nhã ba la mật đa thời chiếu kiến ngã uẩn giai không độ nhất thiết khổ ách. Xá Lợi Tử, sắc bất dị không, không bất dị sắc, sắc tức thị không, không tức thị sắc..."
(Xem: 21017)
Từ trước đến nay, nhiều người đã giảng rộng về Kinh Đại Bi Tâm Đà La Ni, nhưng chưa có vị nào giảng giải về chú Đại Bi. Thực vậy, rất khó giảng giải về chú Đại Bi.
(Xem: 38735)
Phật giáo được sáng lập trên cơ sự tự giác của đức Thích Ca, tuy có chỗ siêu việt các tư tưởng nhất ban, nhưng cũng có nhiều điểm thừa thụ nền tư tưởng cố hữu của Ấn Độ mà phát đạt...
(Xem: 27358)
Thắng Man Phu nhân điển hình cho phụ nữ thực hành Bồ tát đạo bằng cung cách trang nhã, từ ái, khiêm cung. Môi trường thực hành bao gồm từ giới hạn thân thuộc...
(Xem: 31081)
Kinh Pháp Cú (Kinh Lời Vàng), The Path of Truth - Việt dịch: Hòa Thượng Thích Minh Châu - Họa sĩ: Mr. P. Wickramanayaka (vẽ theo bản tiếng Anh mà HT Thích Minh Châu dịch) - Vi tính: Tâm Tịnh
(Xem: 33093)
Tích truyện Pháp Cú - Thiền viện Viên Chiếu - Nguyên tác: "Buddhist Legends", Eugène Watson Burlingame
(Xem: 23952)
Sau 45 năm thuyết pháp, những lời giảng daỵ của Đức Phật không những không bị quên lãng, thất lạc mà còn được lưu giữ, truyền bá mãi đến ngày nay...
(Xem: 16962)
Người học luật mà không hành trì, khó mà hiểu hết những điều được học có nghĩa lý gì. Trì luật, không phải chỉ sống thanh bạch một mình trên núi rừng với nai với khỉ...
(Xem: 20494)
Sự tập thành của Hoa nghiêm (Gaṇḍavyūha) có lẽ là do ở một cuộc biến chuyển đã thành hình trong tâm trí của Phật tử đối với cuộc sống, với cõi đời, và nhất là với đức Phật.
(Xem: 31892)
Kể từ khi đạo Phật truyền vào nước ta, hàng Phật tử tại gia trong bất cứ thời đại nào và hoàn cảnh nào cũng đã có những đóng góp thiết thực trong sứ mạng hộ trìhoằng dương chánh pháp...
(Xem: 18078)
Mục tiêu của đạo đứchạnh phúc, hay nói cách khác, muốn sống có hạnh phúc thì phải sống có đạo đức. Đạo đức phải được xây dựng trên cơ sở những tiêu chuẩn phù hợp...
(Xem: 20534)
Mặc dầu hư vọng phân biệt là một khái niệm liên quan mật thiết với đối cảnh sở duyên của chỉ quán, nhưng thực ra, hư vọng phân biệt là thức và thức là duyên sinh...
(Xem: 27004)
Đời nhà Đường, ngài Tam Tạng pháp sư tên là Huyền Trang tạo ra bài luận này. Ngài Huyền Trang sau khi dịch kinh luận về Duy Thức tôn, lại tạo ra Duy Thức luận...
(Xem: 18037)
Giới bát quan trai được Phật thuyết cho các Thánh đệ tử; những người tuy sống đời tại gia, hưởng thụ ngũ dục của thế gian, nhưng tâm tư đã vững chắc trên Thánh đạo.
(Xem: 25540)
Ta Bà là chốn tạm ở thôi Cửa không mau phải hồi đầu lại Hai sáu nguyện vương tiêu tai chướng Ba ngàn hoá Phật chứng lòng thành
(Xem: 26622)
Cuộc đối thoại đầy đạo vị hứng thú dĩ nhiên được truyền tụng khắp nơi trong giới Phật giáo cũng như ngoài nhân gian. Về sau, vào thế kỷ đầu sau Tây lịch, sợ để khẩu truyền lâu ngày
(Xem: 36561)
Ở phương Ðông cách đây hơn mười căn dà sa cõi Phậtmột thế giới tên là Tịnh Lưu Ly. Ðức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai
(Xem: 28040)
Kinh Thập Thiện tuy ngắn gọn, nhưng rất thiết yếu đối với người tu tại gia cũng như người xuất gia. Cư sĩ tại gia khi thọ Tam qui và nguyện giữ Ngũ giới
(Xem: 27273)
Lúc Đức Phật Thích-ca chứng đắc, Chuyển bánh xe chánh pháp độ sanh, Kiều-trần-như được duyên lành, Năm anh em họ viên thành lý chân,
(Xem: 30317)
Phật Thùy Ban Niết Bàn Lược Thuyết Giáo Giới Kinh (Kinh Di Giáo) - Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0389 - Cưu Ma La Thập dịch Hán; HT. Thích Trí Quang dịch Việt
(Xem: 37079)
Đạo Phật là đạo giác ngộ, toàn bộ giáo lý của Phật dạy đều nhằm đánh thức con người sớm được giác ngộ. Mê lầm là cội nguồn đau khổ, chỉ có giác ngộ mới cứu được mọi khổ đau của chúng sanh.
(Xem: 37229)
Một thời Ðức Phật ở nước Xá Vệ, trong vườn Cấp Cô Ðộc, cây của thái tử Kỳ Ðà, cùng với các đại Tỳ Kheo Tăng... Thích Minh Định dịch
(Xem: 23858)
Đây là những điều tôi được nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Kỳ Thọ Cấp Cô Độc gần thành Xá Vệ, với đại chúng khất sĩ gồm một ngàn hai trăm năm mươi vị. Hôm ấy vào giờ khất thực, Bụt mặc áo và ôm bát đi vào thành Xá Vệ.
(Xem: 32270)
Nhóm 1: 8 pháp Ba la di Nhóm 2: 17 pháp Tăng tàn Nhóm 3: 30 pháp Xả đọa Nhóm 4: 178 tám pháp Đọa Nhóm 5: 8 pháp Hối quá Nhóm 6: 100 pháp Chúng học Nhóm 7: 7 pháp Diệt tránh.
(Xem: 55112)
Hệ Bát-nhã là một bộ phận trọng yếu trong Tam tạng Thánh giáo, cánh cửa thật tướng mở toang từ đó, chân trời Tánh Không, kho tàng pháp bảo cũng toàn bày nơi đó...
(Xem: 36888)
Khuyến phát Bồ Đề Tâm văn; Âm Hán Việt: Cổ Hàng Phạm Thiên Tự Sa môn Thật Hiền soạn; Dịch: Sa môn Thật Hiền chùa Phạm Thiên Cổ Hàng soạn
(Xem: 27553)
Ngũ Bách Danh Quán Thế Âm Kinh - Năm trăm Danh Hiệu Phật và Bồ Tát Quán Thế Âm
(Xem: 28290)
Công Phu Khuya
(Xem: 37930)
Ngày nay tai nạn binh lửa lan tràn khắp thế giới, đó là do nghiệp sát của chúng sanh chiêu cảm. Vì thế nên cổ đức đã bảo: "Tất cả chúng sanh không nghiệp sát. Lo gì thế giới động đao binh!"
(Xem: 25387)
Giới học là một trong ba học: Giới, Định, Tuệ. Ba học còn được gọi là ba vô lậu học. Gọi là vô lậu học là vì ba học này đưa đến đoạn trừ các lậu hoặc, đưa đến giải thoát...
(Xem: 24123)
Nói một cách vắn tắt, sự xuất hiện của Duy-ma-cật là xu hướng khẳng định vai trò tích cực của chúng đệ tử tại gia trong giáo pháp của Phật, về các mặt hành đạo cũng như hóa đạo.
(Xem: 11219)
Sắc Tu Bách Trượng Thanh Quy
(Xem: 14487)
Đại Bát Niết Bàn Kinh Trực Chỉ Đề Cương - HT Thích Từ Thông biên soạn
(Xem: 10612)
Tác giả: Bồ tát Long Thọ (Nàgàrjuna) Hán dịch: Tam tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập Việt dịch: Thích Viên Lý
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant