Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

15. Phẩm An Lạc - Happiness (197-208)

16 Tháng Ba 201100:00(Xem: 10557)
15. Phẩm An Lạc - Happiness (197-208)

KINH PHÁP CÚ (DHAMMAPADA)
Đa ngữ: Việt - Anh - Pháp - Đức
Dịch Việt: Hòa thượng Thích Thiện Siêu
Bản dịch Anh ngữ: Hòa thượng NARADA, Colombo, Sri Lanka, 1963, 1971
TỊNH MINH dịch Việt/ thể kệ - Sài Gòn, PL. 2539 - TL. 1995
Sưu tập và hiệu đính: Nguyên Định Mùa Phật Đản PL. 2550, 2006

Phẩm XV
SUKHA VAGGA - HAPPINESS - PHẨM AN LẠC (122)
CT (122): Nhật bản dịch là An vui.

197. Sung sướng thay chúng ta(123) sống không thù oán giữa những người thù oán; Giữa những người thù oán, ta sống không thù oán.

CT (123): Phật tự xưng.

Ah, happily do we live without hate 
amongst the hateful;
amidst hateful men 
we dwell unhating. -- 197 

197. Lành thay ta vui sống,
Từ ái giữa oán thù,
Giữa những người oán thù,
Ta sống không thù oán.

197 - Heureux vivons-nous sans haine parmi les haineux ; au milieu des hommes qui haïssent nous demeurons sans haine.

197. Wie überaus glücklich leben wir, frei von Feindseligkeit unter denen, die feindselig sind; Unter feindseligen Menschen, frei von Feindseligkeit, weilen wir.

198. Sung sướng thay chúng ta sống không tật bệnh giữa những người tật bệnh (124) ; Giữa những người tật bệnh, ta sống không tật bệnh.

CT (124): Tật bệnh đây chỉ các phiền não thống khổ.

Ah, happily do we live in good health 
amongst the ailing;
amidst ailing men 
we dwell in good health. -- 198 

198. Lành thay ta vui sống,
Khỏe mạnh giữa yếu đau,
Giữa những người yếu đau,
Ta sống không đau yếu.

198 - Heureux vivons-nous en santé parmi les souffrants (des souillures) ; au milieu des souffrants nous demeurons en santé.

198. Wie überaus glücklich leben wir, frei von Elend unter denen, die sich elend fühlen; Unter elenden Menschen, frei von Elend, weilen wir.

199. Sung sướng thay chúng ta sống không tham dục giữa những người tham dục; Giữa những người tham dục, ta sống không tham dục.

Ah, happily do we live without yearning 
(for sensual pleasures)
amongst those who yearn (for them);
amidst those who yearn (for them) 
we dwell without yearning. -- 199

199. Lành thay ta vui sống,
Vô dục giữa khát khao,
Giữa những người khát khao,
Ta sống không khao khát.

199 - Heureux vivons-nous sans languir (pour les plaisir sensuels), parmi ceux qui languissent ; Au milieu de ceux qui languissent nous demeurons sans languir.

199. Wie überaus glücklich leben wir, frei von Begierden unter denen, die begierig sind; Unter begierigen Menschen, frei von Begierden weilen wir.

200. Sung sướng thay chúng ta sống không bị điều gì chướng ngại(125); Ta thường sống với những điều hỷ lạc như những vị trời Quang âm(126).

CT (125): Không còn các phiền não chướng như tham, sân, si v.v…
CT (126): Lúc Phật ở tạm nơi thôn của một Bà la môn tên Ngũ ta la (Pancasala), một hôm Ngài vô xóm làng khất thực, không gặp ai cúng dường, một kẻ Ma vương đứng ở cửa làng thấy Phật mang bát đi về không, mới cười chọc nói rằng : “Ngài chưa được thực phẩm, ắt phải đi vào thôn xóm khất thực để giải quyết sự đói “. Nhân đó Phật nói bài này.

Ah, happily do we live, 
we who have no impediments.
Feeders of joy shall we be 
even as the gods of the Radiant Realm. -- 200 

200. Lành thay ta vui sống,
Không chướng ngại ngấm ngầm,
Tận hưởng nguồn hỷ lạc,
Như chư thiên Quang Âm.

200 - Heureux vivons nous, nous qui n'avons pas d'attachements mondains, nous sommes nourris de joie extrême, comme les Dieux radieux. 

200. Wie überaus glücklich leben wir, wir die kein Anhaften haben. Wir werden uns von Verzückung ernähren wie die Strahlenden und Erschallenden Götter.

201. Thắng lợi bị thù oán, thất bại bị đau khổ ; Chẳng màng tới thắng bại, sẽ sống hòa hiếu an vui.

Victory breeds hatred.
The defeated live in pain.
Happily the peaceful live,
giving up victory and defeat. -- 201 

201. Chiến thắng gây thù hận,
Thất bại chuốc khổ đau,
Từ bỏ mọi thắng bại,
An tịnh liền theo sau.

201 - La victoire engendre la haine, le vaincu vit dans la souffrance ; Le paisible vit heureux, abandonnant victoire et défaite. 

201. Gewinnen schafft Feindseligkeit; Verlieren führt dazu, daß man sich kummervoll niederlegt; Die zur Ruhe Gekommenen legen sich glücklich nieder; sie haben Gewinnen und Verlieren beiseite gelegt.

202. Không lửa nào bằng lửa tham dục; Không ác nào bằng ác sân hận; Không khổ nào bằng khổ ngũ uẩn; Không vui nào bằng vui Niết bàn.

There is no fire like lust,
no crime like hate.
There is no ill like the body,
no bliss higher than Peace (Nibbaana). -- 202

202. Lửa nào bằng lửa tham.
Ác nào bằng ác hận.
Khổ nào bằng khổ thân.
Vui nào bằng Tịch tịnh.

202 - Il n'y a pas de feu comparable à la convoitise ; Pas de crime comparable à la haine ; il n'y a pas de mal comparable au corps ; pas de bonheur plus haut que la Paix durable Nirvana.

202. Es gibt kein Feuer gleich der Leidenschaft, keinen Verlust gleich dem Zorn, keinen Schmerz gleich den Körperleiden, keine Freude außer dem ewigen Frieden.

203. Đói là chứng bệnh lớn, vô thường(127) là nỗi khổ lớn ; biết được đúng như thế, đạt đến Niết bàn là vui tối thượng.

CT (127): Nguyên văn : Sankhara dịch là hành, tức là pháp hữu visanh diệt, trong Pali chú thích uẩn (khandha).

Hunger is the greatest disease.
Aggregates are the greatest ill.
Knowing this as it really is,
(the wise realize) Nibbaana, bliss supreme. -- 203 

203. Ðói bụng, bịnh tối trọng.
Thân xác, khổ vô vàn.
Hiểu đúng sự thật ấy,
Ðạt vô thượng Niết bàn.

203 - La faim est la plus grande des maladies, le corps le plus grand mal. 
Sachant ceci comme il en est réellement, le sage réalise Nirwana, le suprême bonheur.

203. Hunger ist die höchste Krankheit; Körper ist das höchste Leid; Jemand, der diese Wahrheit so erkennt, wie sie wirklich ist, hat die höchste Befreiung (Nirwana) erreicht.

204. Không bệnh là điều rất lợi, biết đủ là kẻ rất giàu, thành tín là nơi chí thân, Niết bàn là vui tối thượng.

Health is the highest gain.
Contentment is the greatest wealth.
The trusty are the best kinsmen.
Nibbaana is the highest bliss. -- 204 

204. Sức khỏelợi ích.
Biết đủ là giàu sang.
Thành tínhọ hàng.
Niết bànhạnh phúc.

204 - La santé est le plus haut des gains ; le contentement est la plus grande richesse ; les parents de confiance sont les meilleurs ; Nirvana est le suprême bonheur.

204. Gesundheit ist der höchste Gewinn; Zufriedenheit ist der höchste Reichtum; Vertrauen ist die höchste Verwandtschaft; Nirwana ist die höchste Freude.

205. Ai từng nếm mùi độc cư, ai từng nếm mùi tịch tịnh, người ấy còn ưa nếm mùi pháp vị, xa lìa mọi tội ác, sợ hãi.

Having tasted the flavour of seclusion
and the flavour of appeasement,
free from anguish and stain becomes he,
imbibing the taste of the joy of the Dhamma. -- 205 

205. Ai nếm mùi tịch tịnh,
Hưởng hương vị độc cư,
Thoát âu lo cấu nhiễm,
Pháp hỷ được cả người.

205 - Ayant goûté la saveur de la parfaite retraite et de la Paix, il est sans chagrin ni tache, savourant le goût de la haute joie du Dhamma. 

205. Wenn man den Labsal trinkt, den Geschmack von Abgeschiedenheit und Ruhe , ist man befeit von Schlechtem, ohne Leid, erquickt vom Labsal der Verzückung von Dhamma.

206. Gặp được bậc Thánh nhơn là rất quí, vì sẽ chung hưởng sự vui lành; Bởi không gặp kẻ ngu si, nên người kia thường hoan hỷ.

Good is the sight of the Ariyas:
their company is ever happy.
Not seeing the foolish,
one may ever be happy. -- 206 

206. Lành thay gặp thánh nhân,
Phúc thay được kết thân,
Không gặp kẻ ngu muội,
Thực an lạc muôn phần.

206 - Excellente est la rencontre avec des saints Ariya; leur compagnie est toujours bénéfique ; ne voyant pas les fous, on sera toujours heureux . 

206. Es ist angenehm, Edle zu treffen; In ihrer Gesellschaft ist man immer glücklich; Dadurch, daß man keine Narren trifft , ist man glücklich auf Dauer.

207. Đi chung với người ngu, chẳng lúc nào không lo buồn ; Ở chung với kẻ ngu, khác nào ở chung với quân địch; Ở chung với người trí, vui như hội ngộ với người thân.

Truly he who moves in company with fools 
grieves for a long time.
Association with the foolish 
is ever painful as with a foe.
Happy is association with the wise, 
even like meeting with kinsfolk. -- 207

207. Sống với kẻ si mê,
Ắt bốn bề sầu tủi.
Gần gũi người ngu muội,
Khổ như gần kẻ thù.
Thân cận bậc trí tu,
Vui như gặp thân thuộc.

207 - En vérité, celui qui marche en compagnie des fous s’attriste pour longtemps, l'association avec les fous est toujours douloureuse, telle l'association avec un ennemi; heureuse est l'association avec un sage (dhira), comme est la rencontre avec des parents. 

207. Wenn man mit einem Narren zusammen lebt, hat man lange Kummer; Der Umgang mit Narren ist leidvoll, so wie mit einem Feind fast immer; Glücklich ist man im Umgang mit Weisen, so wie in einer Begegnung mit Verwandten.

208. Đúng thật như vậy(128) : Người hiền trí, người đa văn, người trì giới chân thành và bậc Thánh giả, được đi theo những bậc thiện nhân, hiền tuệ ấy, khác nào mặt trăng đi theo quỹ đạo tinh tú.

CT (128): Câu này là câu tiếp liền 2 câu trên .

Therefore:- With the intelligent, the wise, the learned,
the enduring, the dutiful and the Ariya -
with a man of such virtue and intellect 
should one associate,
as the moon (follows) the starry path. -- 208 

208. Nên gần bậc hiền trí,.
Bậc trì giới đa văn,
Bậc đạo hạnh, thánh tăng,
Bậc thiện nhơn, túc trí,
Thân cận vậy thật quí,
Như trăng theo đường sao.

208 - En vérité, il faut suivre les Ariya, qui sont intelligents, sages, instruits, sincères et respectueux, comme la lune suit le chemin des étoiles.

208. Deswegen folgt dem weisen Mensch, der klug, gelehrt, duldend, pflichtbewußt, edel, intelligent, rechtschaffend ist, wie der Mond dem Kurs der Sterne des Tierkreiszeichens folgt.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 188619)
Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo đám mây hương Phưởng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi tam-bảo
(Xem: 43773)
Theo phép thọ Bát quan trai giới, người thọ giới phải đến chùa cầu một thầy Tỳ kheo trai giới thanh tịnh truyền cho. Về nghi thức có thầy truyền giới thì thứ lớp rất nhiều.
(Xem: 25025)
Con đường của Đức Phật không phải chỉ có chánh niệm, các pháp hành thiền Chỉthiền Quán, nhưng bao gồm các Giới đức, bắt đầu bằng năm giới căn bản.
(Xem: 30798)
"Quán Tự Tại Bồ Tát hành thâm bát nhã ba la mật đa thời chiếu kiến ngã uẩn giai không độ nhất thiết khổ ách. Xá Lợi Tử, sắc bất dị không, không bất dị sắc, sắc tức thị không, không tức thị sắc..."
(Xem: 21015)
Từ trước đến nay, nhiều người đã giảng rộng về Kinh Đại Bi Tâm Đà La Ni, nhưng chưa có vị nào giảng giải về chú Đại Bi. Thực vậy, rất khó giảng giải về chú Đại Bi.
(Xem: 38734)
Phật giáo được sáng lập trên cơ sự tự giác của đức Thích Ca, tuy có chỗ siêu việt các tư tưởng nhất ban, nhưng cũng có nhiều điểm thừa thụ nền tư tưởng cố hữu của Ấn Độ mà phát đạt...
(Xem: 27353)
Thắng Man Phu nhân điển hình cho phụ nữ thực hành Bồ tát đạo bằng cung cách trang nhã, từ ái, khiêm cung. Môi trường thực hành bao gồm từ giới hạn thân thuộc...
(Xem: 31079)
Kinh Pháp Cú (Kinh Lời Vàng), The Path of Truth - Việt dịch: Hòa Thượng Thích Minh Châu - Họa sĩ: Mr. P. Wickramanayaka (vẽ theo bản tiếng Anh mà HT Thích Minh Châu dịch) - Vi tính: Tâm Tịnh
(Xem: 33091)
Tích truyện Pháp Cú - Thiền viện Viên Chiếu - Nguyên tác: "Buddhist Legends", Eugène Watson Burlingame
(Xem: 23950)
Sau 45 năm thuyết pháp, những lời giảng daỵ của Đức Phật không những không bị quên lãng, thất lạc mà còn được lưu giữ, truyền bá mãi đến ngày nay...
(Xem: 16961)
Người học luật mà không hành trì, khó mà hiểu hết những điều được học có nghĩa lý gì. Trì luật, không phải chỉ sống thanh bạch một mình trên núi rừng với nai với khỉ...
(Xem: 20494)
Sự tập thành của Hoa nghiêm (Gaṇḍavyūha) có lẽ là do ở một cuộc biến chuyển đã thành hình trong tâm trí của Phật tử đối với cuộc sống, với cõi đời, và nhất là với đức Phật.
(Xem: 31891)
Kể từ khi đạo Phật truyền vào nước ta, hàng Phật tử tại gia trong bất cứ thời đại nào và hoàn cảnh nào cũng đã có những đóng góp thiết thực trong sứ mạng hộ trìhoằng dương chánh pháp...
(Xem: 18078)
Mục tiêu của đạo đứchạnh phúc, hay nói cách khác, muốn sống có hạnh phúc thì phải sống có đạo đức. Đạo đức phải được xây dựng trên cơ sở những tiêu chuẩn phù hợp...
(Xem: 20534)
Mặc dầu hư vọng phân biệt là một khái niệm liên quan mật thiết với đối cảnh sở duyên của chỉ quán, nhưng thực ra, hư vọng phân biệt là thức và thức là duyên sinh...
(Xem: 27004)
Đời nhà Đường, ngài Tam Tạng pháp sư tên là Huyền Trang tạo ra bài luận này. Ngài Huyền Trang sau khi dịch kinh luận về Duy Thức tôn, lại tạo ra Duy Thức luận...
(Xem: 18036)
Giới bát quan trai được Phật thuyết cho các Thánh đệ tử; những người tuy sống đời tại gia, hưởng thụ ngũ dục của thế gian, nhưng tâm tư đã vững chắc trên Thánh đạo.
(Xem: 25540)
Ta Bà là chốn tạm ở thôi Cửa không mau phải hồi đầu lại Hai sáu nguyện vương tiêu tai chướng Ba ngàn hoá Phật chứng lòng thành
(Xem: 26622)
Cuộc đối thoại đầy đạo vị hứng thú dĩ nhiên được truyền tụng khắp nơi trong giới Phật giáo cũng như ngoài nhân gian. Về sau, vào thế kỷ đầu sau Tây lịch, sợ để khẩu truyền lâu ngày
(Xem: 36560)
Ở phương Ðông cách đây hơn mười căn dà sa cõi Phậtmột thế giới tên là Tịnh Lưu Ly. Ðức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai
(Xem: 28040)
Kinh Thập Thiện tuy ngắn gọn, nhưng rất thiết yếu đối với người tu tại gia cũng như người xuất gia. Cư sĩ tại gia khi thọ Tam qui và nguyện giữ Ngũ giới
(Xem: 27269)
Lúc Đức Phật Thích-ca chứng đắc, Chuyển bánh xe chánh pháp độ sanh, Kiều-trần-như được duyên lành, Năm anh em họ viên thành lý chân,
(Xem: 30316)
Phật Thùy Ban Niết Bàn Lược Thuyết Giáo Giới Kinh (Kinh Di Giáo) - Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0389 - Cưu Ma La Thập dịch Hán; HT. Thích Trí Quang dịch Việt
(Xem: 37078)
Đạo Phật là đạo giác ngộ, toàn bộ giáo lý của Phật dạy đều nhằm đánh thức con người sớm được giác ngộ. Mê lầm là cội nguồn đau khổ, chỉ có giác ngộ mới cứu được mọi khổ đau của chúng sanh.
(Xem: 37227)
Một thời Ðức Phật ở nước Xá Vệ, trong vườn Cấp Cô Ðộc, cây của thái tử Kỳ Ðà, cùng với các đại Tỳ Kheo Tăng... Thích Minh Định dịch
(Xem: 23858)
Đây là những điều tôi được nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Kỳ Thọ Cấp Cô Độc gần thành Xá Vệ, với đại chúng khất sĩ gồm một ngàn hai trăm năm mươi vị. Hôm ấy vào giờ khất thực, Bụt mặc áo và ôm bát đi vào thành Xá Vệ.
(Xem: 32269)
Nhóm 1: 8 pháp Ba la di Nhóm 2: 17 pháp Tăng tàn Nhóm 3: 30 pháp Xả đọa Nhóm 4: 178 tám pháp Đọa Nhóm 5: 8 pháp Hối quá Nhóm 6: 100 pháp Chúng học Nhóm 7: 7 pháp Diệt tránh.
(Xem: 55112)
Hệ Bát-nhã là một bộ phận trọng yếu trong Tam tạng Thánh giáo, cánh cửa thật tướng mở toang từ đó, chân trời Tánh Không, kho tàng pháp bảo cũng toàn bày nơi đó...
(Xem: 36888)
Khuyến phát Bồ Đề Tâm văn; Âm Hán Việt: Cổ Hàng Phạm Thiên Tự Sa môn Thật Hiền soạn; Dịch: Sa môn Thật Hiền chùa Phạm Thiên Cổ Hàng soạn
(Xem: 27551)
Ngũ Bách Danh Quán Thế Âm Kinh - Năm trăm Danh Hiệu Phật và Bồ Tát Quán Thế Âm
(Xem: 28289)
Công Phu Khuya
(Xem: 37930)
Ngày nay tai nạn binh lửa lan tràn khắp thế giới, đó là do nghiệp sát của chúng sanh chiêu cảm. Vì thế nên cổ đức đã bảo: "Tất cả chúng sanh không nghiệp sát. Lo gì thế giới động đao binh!"
(Xem: 25384)
Giới học là một trong ba học: Giới, Định, Tuệ. Ba học còn được gọi là ba vô lậu học. Gọi là vô lậu học là vì ba học này đưa đến đoạn trừ các lậu hoặc, đưa đến giải thoát...
(Xem: 24123)
Nói một cách vắn tắt, sự xuất hiện của Duy-ma-cật là xu hướng khẳng định vai trò tích cực của chúng đệ tử tại gia trong giáo pháp của Phật, về các mặt hành đạo cũng như hóa đạo.
(Xem: 11218)
Sắc Tu Bách Trượng Thanh Quy
(Xem: 14485)
Đại Bát Niết Bàn Kinh Trực Chỉ Đề Cương - HT Thích Từ Thông biên soạn
(Xem: 10612)
Tác giả: Bồ tát Long Thọ (Nàgàrjuna) Hán dịch: Tam tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập Việt dịch: Thích Viên Lý
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant