Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

2. Phẩm Tư Duy

22 Tháng Ba 201100:00(Xem: 10331)
2. Phẩm Tư Duy

KINH BÁT CHU TAM MUỘI
Ðời Tùy Tam Tạng, Khất Ða và Cấp Ða
Việt dịch: HT Thích Minh Lễ

Quyển Thứ Nhất
Phẩm Thứ Hai - Tư Duy

Khi đó đức Thế Tôn lại bảo Bồ tát Hiền Hộ:

Nầy Hiền Hộ! Hãy lắng tai nghe cho kỹ và ghi nhớ cho rành rẽ ta phân tích giải thích rõ ràng đối với những lời như ông vừa hỏi:

Hiền Hộ thưa:

Bạch Thế Tôn! Như vậy hay lắm! Con hết sức ưa thích lời dạy bảo của Như Lai.

Phật dạy:

Thế nào lại đặt tên là tam muội Bồ tát niệm tất cả chư Phật hiện tiền? Nầy Hiền Hộ! Nếu có vị Bồ tát nào cầu trí giác vô thượng siêng năng dõng mãnh mang trọng trách cứu độ chúng sanh, hầu hạ cung cấp những nhu yếu cho bậc thiện tri thức, thường tu tập hạnh hướng nội suy gẫm diệt sạch phiền não, xa lìa bạn ác dứt trừ các lời lẽ thế tục thu thúc sáu giác quan. Đầu hôm giữa đêm sớm mai đều giảm bớt sự ngủ nghỉ, không tham đắm nơi y phục món ăn uống thuốc thang nhà cửa phòng xá địa vị, luôn ưa thícha lan nhã nơi thanh vắng. Không tiếc rẻ tự thân, không trọng tánh mạng không trau chuốc hình dáng bên ngoài, không buông lung tâm thu thúc lại bằng tình thương cao cả hằng mong đem lại an vui cho chúng sanh, đối với chúng sanh lúc nào cũng vui vẻ xả bỏ xí xóa, phá vỡ phiền não thành tựu thiền định. Không đắm say vị suy tư, quán sát sắc tưởng nhưng tâm lại rỗng rang không loạn động chánh niệm, không chấp giữ các ấm, không đam mê nơi các giác quan (căn), không nghĩ tưởng các giới. Không đam mê chỗ sanh, chế phục mình không tự cao ngã mạn. Không ganh tỵ tài sản của kẻ khác, hằng đem lại nhiều sự lợi ích cho thế gian. Đối với các chúng sanh tâm luôn luôn bình đẳng kính xem họ như cha mẹ hoặc thương xót coi như đứa con độc nhứt. Với tất cả pháp khôngtư tưởng đối nghịch. Dù có trì giới nhưng không chấp trước. Luôn an trụ trong thiền định nhưng lại không đam mê. Ưa thích học rộng nghe nhiều lại không sanh khởi sự phân biệt. Không thiếu xót giới hạnh, thiền định không bị xao động, trí không còn hư vọng. Không còn mối hoài nghi nào đối với các pháp. Không đối nghịch với các đức Phật, không hủy báng chánh pháp, không phá hoại chư Tăng. Tu tập thấm nhuần năm pháp giải thoát diệt trừ được mười việc ác, nghĩ nhớ đến mười điều thiện. Dứt sạch được chín món não hại của chúng sanh, trong tâm không xả ly môn quán cửu tưởng, nghĩ cách xả bỏ tám thứ giải đãi, chuyên tâm tu tập tám điều giác ngộ của bực đại nhân. Không nghĩ mình học rộng nên ngã mạn đã trừ. Quán sát dục vọng như đờm mũi, hết sức thích hạnh xuất gia thuận theo lời Phật dạy, khuyên nhũ chúng sanh nên thực hành công đức. Ở trong ba cõi nhưng không ô nhiễm. Thấy tất cả Phật đều hiện ra trước mắt. Thọ tất cả thân đều xem như ảo mộng, suy gẫm sự vận hành lại không thấy quá khứ, vị lai hiện tại. Bình đẵng đối với tất cả pháp không đối nghịch với tất cả thế gian, hành động cần thi hành không có mâu thuẫn. Thông đạt pháp mười hai nhơn duyên sâu xa, đi hết con đường của tất cả Như Lai trải qua, đắc sức nhẫn tối thượng, thể nhập chơn pháp giới, nhìn chúng sanh giới bản tánh không sanh không diệt thấy Niết Bàn giới bổn lai hiện tiền Huệ nhãn thanh tịnh thấy pháp không có hai tướng, tâm Bồ đề không có chặng giữa không có bờ mé tất cả các đức Phật thể tánh vốn không sai biệt. Thể nhập cửa trí huệ thanh tịnh vô ngại thấu rõ trí giác bồ đề tự nhiên, tập họp các Phật công đức không bao giờ cùng tận.

Nầy Hiền Hộ! Nếu có Bồ tát nào muốn thành tựu tam muội Bồ tát niệm chư Phật hiện tiền trước tiên hết cần nên hoàn mãn các công đức như trên. Hiền Hộ! Ông nên biết lại còn có vô lượng công đức cũng do từ tam muội nầy sanh ra. Nếu như có ai hỏi do tam muội gì lại sanh công đức như thế? Ông có thể trả lời đó chính là tam muội Bồ tát niệm chư Phật hiện tiền sanh ra công đức như vậy.

Lại nầy Hiền Hộ! Thế nào gọi là tam muội Bồ tát niệm chư Phật hiện tiền?

Nầy Hiền Hộ! Nếu có tỳ kheo tỳ kheo ni cư sĩ nam cư sĩ nữ giữ giới trong sạch các công hạnh đã hoàn mãn, ở một mình tại chỗ vắng vẻ suy tưởng như thế này: Ở khắp mọi chỗ bất cứ phương nào chẳng hạn như phương tây có đức A Di Đà Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng Giác. Người nầy vừa nghe được danh hiệu lập tức tưởng nghĩ như vậy: Như ta vừa nghe danh hiệu đức A Di Đà Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẵng Giác hiện nay ngài ngự ở thế giới chư Phật. Thế giới của ngài tên là Cực Lạc ngài thường ngự vào các pháp hội của các Bồ tát để nói pháp và giáo hóa. Rồi người nghe y theo chỗ nghe được chuyên tinh tưởng nhớ quán sát không ngừng nghỉ cho đến khi hình ảnh trên hiện rõ ràng trong trí sau cùng được thấy Đức A Di Đà Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẵng Giác.

Lại nầy Hiền Hộ! Thí dụ như trong thế gian có kẻ trai hay gái lúc nằm chiêm bao thấy các vật báu như vàng bạc của cải, kho lúa hoặc thấy bạn bè hạng người quen biết hay đang lúccảm thấy tâm không ưa thích. Người nằm mộng nầy đối với cảnh được thấy hoặc chống đối hay xuôi theo, hoặc buồn lo hay vui thích. Sau khi người nầy tỉnh dậy nhớ lại cảnh vừa thấy trong giấc mộng bèn hồi tưởng để kể cho người khác nghe và cảm thấy trong lòng có phần vui thích. Cũng như thế, nầy Hiền Hộ! Thiện nam thiện nữ ngồi ngay ngắn tinh thành chuyên chú tưởng nhớ đức Phật A Di Đà tướng tốt vẻ đẹp, oai nghi của ngài như thế, pháp hội như thế, ngài thuyết pháp như thế.... tùy theo sự kiện nghe được hết lòng tưởng nhớ nhứt tâm liên tục có thứ lớp không tạp loạn trải qua một ngày hay một đêm như thế hoặc đến bảy ngày đêm tưởng nhớ liên tục theo như lời diễn tả về đức Phật ấy. Người nầy chắc chắn sẽ được thấy đức A Di Đà Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng Giác, nếu như không thấy được ngài giữa ban ngày thì cũng được thấy trong đêm hay trong giấc mộng đức Phật A Di Đà hiện ra rõ ràng trước mắt.

Nầy Hiền Hộ! Như người trai hay gái trong thế gian nầy mắc phải công việc gì đó phải đi sang xứ khác, trong đêm mơ thấy quê nhà. Đang lúcthật không biết đó là đêm hay ngày hoặc trong hay ngoài hình ảnh chốn quê nhà hiện ra rõ ràng trước mắt không ngăn sông cách núi và cũng không bị trở ngại bởi tối tăm hôn ám.

Hiền Hộ! Tâm của đại Bồ tát không bị chướng ngại cũng giống như thế. Đương lúc chánh niệm dù ngay trước mắt bị thế giới Phật án ở khoảng giữa, tất cả núi tu di, núi thiết vi, núi đại thiết vi và các dãy hắc sơn ngăn chận nhưng tất cả đều không thể che lấp được tâm nầy, không ngăn trở sự thấy của nhãn quan. Người nầy thật ra chưa đắc thiên nhãn nhưng có thể thấy được Phật, chưa có thiên nhĩ lại nghe được lời Phật nói pháp, không có thần thông để bay qua thế giới Cực Lạc lại cũng không ẩn mất tại thế giới nầy rồi sanh qua trước mặt Phật ở thế giới kia, nhưng thật ra chỉ ở tại thế giới này do sức tu tập tưởng nhớ đã lâu nên hình ảnh đức Phật A Di Đàthế giới phương tây hiển hiện rõ ràng trong trí, vì thế rốt ráo thấy được đức A Di Đà Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng GiácTăng chúng cùng các vị Bồ tát ngồi vây quanh ngài, hoặc thấy tự thân ở pháp hội đó nghe Phật nói pháp, nghe chi nhớ nấy rồi thể theo lời dạy thực tập thọ trì. Hoặc có lúc được thân cận cung kính lễ bái cúng dường đức Phật A Di Đà, sau đó xuất ra khỏi tam muội nầy, lần lượt nhớ lại hết những gì vừa nghe đem ra dạy cho kẻ khác.

Nầy Hiền Hộ! Như trong nước Ma Kiệt Đà có ba gả hào hoa, chàng thứ nhất nghe ở thành Tỳ Da Ly có nàng dâm nữ tên là Tu Ma Na. Chàng thứ hai nghe được một dâm nữ khác tên Yểm La Ba Ly, còn chàng thứ ba lại nghe tên nàng Liên Hoa Sắc cũng là một dâm nữ. Cả ba chàng nghe được như vậy lòng luôn khát khao tìm đủ mọi cách để gặp các nàng cho được, tâm lúc nào cũng tưởng nhớ không phút nào thôi. Nhưng cả ba chưa từng gặp các nàng kia chỉ nghe lóm thôi, tâm nổi dục vọng mơ tưởng liên tục, sau đó nằm mộng mơ thấy gặp được các nàng cùng hành dục sự tại thành Vương Xá. Dục sự đã xong tâm mong cầu dứt hy vọng cũng hết liền bừng tỉnh dậy. Sau khi tỉnh, nhớ lại các việc đã xảy ra trong giấc mộng liền qua đến chỗ ông thuật lại các việc đã nghe, kinh nghiệm, ghi nhớ như thế. Ông nên đem phương pháp khéo léo tùy thuận giáo hóa nói pháp làm cho họ được trụ địa vị bất thối chuyển, cuối cùng thành tựu trí giác vô thượng. Cả ba chàng đó trong tương lai sẽ thành Phật hiệu là Thiện Giác Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng Giác, Minh Hành Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn. Cả ba chàng nầy đã trụ được bực bất thối chuyển nhớ lại chuyện xưa rõ ràng phân minh.

Nầy Hiền Hộ! Thiện nam thiện nữ nào muốn thành tựu được tam muội Đại Bồ tát niệm chư Phật hiện tiền, thân người nầy thường ở thế giới đây vừa nghe danh hiệu đức Phật A Di Đà lại có khả năng nhiếp tâm tưởng nhớ liên tục rành rẽ không hề tạp loạn được thấy đức Phật A Di Đà rõ ràng đó là Bồ tát tưởng nhớ hoàn mãn thành tựu tam muội nầy thấy được Phật A Di Đà nên liền thưa thỉnh với Phật:

Bạch Thế Tôn! Các hàng Bồ tát thành tựu pháp gì để được sanh về thế giới Cực Lạc đây?

Phật A Di Đà đáp lời vị Bồ tát:

Nếu có người nào phát tâm cầu sanh về thế giới Cực Lạc nầy nên luôn luôn nhiếp tâm tưởng nhớ Phật A Di Đà giữ gìn chánh niệm liên tục liền sẽ được vãng sanh. Người đã được sanh về rồi, đức Thế Tôn biết rõ tâm địa của hắn cũng nghĩ nhớ tới hắn nên hắn mới được thấy đức Phật Thế Tôn. Nầy Hiền Hộ! Ngay lúc đó đức Phật A Di Đà lại dạy thêm cho vị Bồ tát rằng: Thiện nam tử! Ông nên giữ chánh niệm siêng năng tinh chuyên tu tập, phát tâm rộng lớn nhứt quyết sẽ được sanh về Cực Lạc.

Nầy Hiền Hộ! Khi ấy vị Bồ tát nầy lại thưa:

Bạch Thế Tôn! Như thế nào là niệm Phật siêng năng tu tập phát tâm rộng lớn để được sanh về thế giới Cực Lạc?

Phật A Di Đà lại dạy:

Nầy Thiện nam tử! Giờ đây ông muốn làm kẻ chơn chánh niệm Phật nên niệm như thế nầy: Đứa A Di Đà Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn đủ ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp thân sắc sáng vàng như chất vàng ròng tỏa ra ánh sáng vĩ đại ngự trên tòa sư tử trang trí bằng nhiều loại châu báu nói pháp cho chúng sa môn nghe. Ngài dạy rằng: Tất cả pháp bổn lai không biến hoại cũng không bị hủy hoại, như các ấm sắc bất hoại... cho đến thức cũng bất hoại, năm trần sắc bất hoại... cho đến xúc cũng bất hoại, Phạm thiên bất hoại, tất cả thế chủ cũng bất hoại. Như thế cho đến mức không niệm đức Như Lai cũng không được Như Lai niệm, kẻ nầy niệm Như Lai như thế lần lần đắc được không tam muội. Thiện nam tử! Đó là tam muội chánh niệm chư Phật hiện tiền.

Nầy Hiền Hộ! Sau đó Bồ tát nầy xuất ra khỏi tam muội có đến nơi ông hỏi về tướng trạng của tam muội, khi ấy ông nên vì vị ấy nói pháp tùy thuận giáo hóa làm cho vị nầy được bất thối chuyển nơi trí giác vô thượng. Nầy Hiền Hộ! Ta ngay lúc đó cũng thọ ký cho vị nầy đương lai sẽ thành Phật hiệu là Đức Quang Minh Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri... Phật Thế Tôn.

Nầy Hiền Hộ! Ai đã chứng biết tam muội nầy? Đó là ông Ma Ha Ca Diếp, Bồ tát Đế Thích Đức, Thiên tử Thiên Đức và vô lượng Bồ tát tu tam muội Không nầy, đó là chứng. Làm thế nào chứng Không tam muội nầy? Nầy Hiền Hộ! Ta nhớ lại thuở xưa có đức Phật Thế Tôn hiệu là Tu Ba Nhật, vào thời đó có một người đi lạc vào rừng, đói khát khốn khổ mệt lã, người nầy mới nằm ngủ thiếp bên đường mơ thấy dự một buổi tiệc đầy những thức ăn ngon ngọt, ăn no nê xong vừa khi đói lại, mơ đến đây tỉnh dậy vẫn cảm thấy đói khát như cũ, người nầy mới nghĩ rằng các pháp đều không chẳng thật, giống như cảnh vật thấy trong giấc chiêm bao không phải thật hữu, quán sát như thế ngộ được vô sanh nhẫn đắc bất thối chuyển nơi Vô thượng bồ đề.

Nầy Hiền Hộ! Cũng giống như vậy, nếu có vị Bồ tát hoặc tại gia hay xuất gia nghe tên các đức Phật theo phương hướng ngài hiện đang ngự liền hướng về đó chí tâm đảnh lễ trong lòng khát khao mong mỏi được thấy Phật nên chuyên tinh tưởng nhớ đến ngài như thế. Lại nữa cũng nên quán sát sắc tướng như thế nghĩ tưởnghư không, sau đó thành tựu được hư không tưởng rồi an trụ trong chánh tư duy như vậy, kế đó sẽ được thấy Phật với thân thể ngài sáng ngời như lưu ly trong trắng, hình tướng đoan chánh như cây cột thuần vàng.

Lại nữa nầy Hiền Hộ! Thí dụ như có người bỗng nhiên phải rời quê nhà để đến xứ khác, dù ở xứ người nhưng lòng hằng mong nhớ đến quê hương nơi chôn nhau cắt rún. Như những gì được thấy, nghe, nghĩ nhớ, biết được như vậy tưởng nhớ quá lâu ngày nên trong giấc chiêm bao mơ thấy rõ ràng tự thân ở quê xưa, dạo chơi những chỗ như đã từng thấy từng nghe in hệt như trước không khác.

Nầy Hiền Hộ! Cũng như thế đó Bồ tát tại gia hay xuất gia được nghe kẻ khác nói về danh hiệu đức Phật, tùy theo nơi ngài ngự hướng về đó chí tâm đảnh lễ mong muốn được thấy ngài, giữ chánh niệm không để xao động. Tương ứng với niệm sẽ được thấy Phật, hình tượng, hoặc thân như lưu ly hay thân thuần sắc vàng.

Nầy Hiền Hộ! Thí dụ như có vị tỳ kheo tu pháp quán bất tịnh nhìn thây mới chết màu da vừa đổi hoặc hóa ra xanh, vàng, đen, đỏ rồi tới lúc sình chương lên, thối rả máu mủ tuôn chảy dầm dề, cầm thú chim chóc tới rỉa thịt ăn còn trơ lại xương trắng sắc như màu ngọc. Quán như thế mãi cho đến khi xương tan rã ra mà xương thịt kia không từ đâu đến cũng không đi về đâu, từ tâm hiển hiện trở lại thấy tự tâm. Cũng không như thế, Bồ tát muốn thành tựu tam muội chư Phật hiện tiền nên tùy theo nơi Phật ngự trước tiên hết hướng về nơi đó tưởng nhớ mong mỏi thấy Phật, theo hướng tưởng nhớ tức được thấy Như Lai. Tại sao vậy? Vì có ba nhơn duyên được thấy Phật A Di Đà: một là nhờ nơi năng lực tam muội nầy, hai là nhờ Phật gia hộ, ba là do tự thiện căn thuần thục, Hoàn mãn ba nhơn duyên nầy nên thấy được Phật rõ ràng phân minh.

Nầy Hiền Hộ! Như người trai tráng vóc dạng cân đối vẻ mặt cương nghị muốn nhìn vẻ mặt mình đẹp hay xấu mới lấy thau đựng đầy nước hay dầu xanh hoặc lấy thủy tinh hay gương, dùng bốn vật nầy để soi bóng mình, vẻ mặt đẹp hay xấu ảnh hiện lên rõ ràng. Hiền Hộ! Chuyện nầy có ý gì? Hình bóng của kẻ đó ở trong dầu, nước, thủy tinh, gương là vốn sẳn có trước phải không?

Hiền Hộ đáp:

Thưa không phải. 
Vốn là không? 
Thưa không phải. 
Nó nằm ở trong? 
Thưa không phải. 
Vậy thì hình bóng ấy ở bên ngoài?

Thưa không, bạch Thế Tôn! Chỉ do dầu, nước thủy tinh, gương các vật nầy trong sáng không bợn nên hình bóng của hắn ảnh hiện lên, nhưng hình bóng nầy không phải từ bốn vật đó sanh ra cũng không phải từ chỗ khác đến, cũng không phải tự nhiên có không phải do ai làm ai, nên biết hình bóng nầy không từ đâu đến cũng không đi về đâu, vô sanh vô diệt không có nơi căn cứ.

Phật đáp:

Đúng như thế! Đúng như thế! Đúng như lời ông vừa trả lời do các vật thanh tịnh sáng chói nên bóng dáng tự hiện không cần nhiều công. Bồ tát cũng vậy nhứt tâm tưởng nhớ sẽ thấy các Như Lai thấy rồi an trụ trong tam muội, trong khi an trụ mới hỏi các ý nghĩa với đức Như Lai được ngài giải thích rành rẽ, lòng vui mừng mới nghĩ: Phật nầy từ đâu đến và thân ta lại từ đâu ra? Quán sát kỹ Như Lai không từ đâu đến cũng không về đâu, thân ta cũng vậy vốn không xuất xứ làm gì có trở lại. Kế đó cũng nên nghĩ: Tam giới duy tâm nên hiện hữu tại sao theo Tâm nghĩ nhớ lại thấy Tâm? Nay ta từ Tâm thấy Phật, Tâm ta làm Phật, Tâm ta là Phật, Tâm không biết Tâm, Tâm không thấy Tâm, Tâm có tưởng niệm tức thành sanh tử, Tâm không tưởng niệm tức là Niết Bàn, các pháp không chơn thật chỉ do tư tưởng duyên khởi, đối tượng bị nghĩ liền diệt chủ thể năng tưởng cũng không. Hiền Hộ! Ông nên biết các Bồ tát nhơn tam muội nầy chứng được trí giác vĩ đại.


Ý kiến bạn đọc
16 Tháng Sáu 201700:58
Khách
xin chào các quý thầy, quý cô ạ, chân thành khẩn cầu quý thầy quý cô hoan hỷ giúp đở con 1 việc tại có phật tử xin bộ Kinh Bát Chú Tam Muội mà con tiemf hoài không có, mua cũng không tiềm ra, hôm nay có duyên được trên đây lòng vui mừng phát nguyện xin theo sức ấn tống bộ kinh này. tha thiết khẩn xin xu thầy, quý cô, cho con xin 1 bộ để làm mẫu, hoạc cho con xin file word hoạc file PDF để con tiện bề ấn tống ạ, cầu xin tha thiết mong quý thầy quý cô hoan hỷ giúp đở ạ (địa chỉ gửi kinh 42/44 trần đại nghĩa - phường tân tạo A - quận bình tân - Tp. hồ chí minh) số điện thoại của con: 0987093401
29 Tháng Mười 201510:05
Khách
KÍNH CHÚC MỌI NGƯỜI TRÊN THẾ GIAN NÀY CÓ SỨC KHỎE TỐT, ĐỀU THÀNH PHẬT ĐẠO.NAM MÔ BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12493)
Ấn là chiếc ấn hay khuôn dấu. Pháp có nghĩa là chánh pháp hay toàn bộ hệ thống tư tưởng trong lời dạy của Đức Phật được ghi lại trong ba tạng thánh điển. Pháp ấn có nghĩa là khuôn dấu của chánh pháp
(Xem: 10364)
Đây là Kinh thứ 16 của Nghĩa Túc Kinh và cũng có chủ đề “Mâu Ni”: Một vị mâu ni thấy như thế nào và hành xử như thế nào khi đứng trước tình trạng bạo động và sợ hãi?
(Xem: 12332)
Các nhà học giả Tây phương cũng như Đông phương đều công nhận hệ thống Bát-nhã là cổng chính yếu dẫn vào Đại thừa.
(Xem: 11639)
Mỗi khi nói về vấn đề niềm tin trong đạo Phật, chúng ta thường hay dẫn chứng những lời Phật dạy trong kinh Kalama.
(Xem: 28801)
Kinh Quán Thế Âm bồ tát cứu khổ nằm trong Vạn tự chánh tục tạng kinh, ta quen gọi là tạng chữ Vạn, quyển1, số 34. Kinh này là một trong những kinh Ấn Độ soạn thuật, thuộc Phương đẳng bộ.
(Xem: 12047)
Trong Kinh Kim Cang có câu, “Nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai.” Nghĩa là, nếu thấy các tướng đều xa lìa tướng, tức là thấy Phật.
(Xem: 13002)
Kinh Kim Cương (hay Kim Cang), tên đầy đủ là Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Đa (Vajracchedika-prajñaparamita), là một trong những bài kinh quan trọng nhất của Phật giáo Đại Thừa
(Xem: 11440)
Trong sách Nhật Tụng Thiền Môn, chúng ta có Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 12370)
Kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật là một bộ kinh hoằng dương rất thịnh, phổ biến rất rộng trong các kinh điển đại thừa.
(Xem: 17436)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 53022)
Phương pháp sám hối Từ bi đạo tràng Mục Liên Sám Pháp - Nghi Thức Tụng Niệm
(Xem: 35481)
Từ bi Đạo Tràng, bốn chữ ấy là danh hiệu của pháp sám hối nầy... Thích Viên Giác dịch
(Xem: 21387)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 10676)
Năm 1984 khi bắt đầu lạy kinh Ngũ Bách Danh bằng âm Hán Việt thuở ấy, tôi không để ý mấy về ngữ nghĩa. Vì lúc đó lạy chỉ để lạy theo lời nguyện của mình.
(Xem: 19233)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 12403)
Một trong những bộ kinh quan trọng nhất của hệ tư tưởng Phật giáo Bắc truyền, không những có ảnh hưởng to lớn đối với tín đồ Phật giáo mà còn lôi cuốn được sự quan tâm của giới nghiên cứu, học giả Đông Tây, là Kinh Diệu Pháp Liên Hoa.
(Xem: 26034)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 13311)
Tác phẩm này có thể là hành trang cần thiết cho những ai muốn thực hành Bồ Tát giới theo đúng lời Phật dạy. Vì vậy, tôi trân trọng giới thiệu đến Tăng, Ni, Phật tử.
(Xem: 14375)
Nguyên tác Phạn ngữ Abhidharmakośa của Thế Thân, Bản dịch Hán A-tỳ-đạt-ma-câu-xá luận của Huyền Trang - Việt dịch: Đạo Sinh
(Xem: 16071)
Vào khoảng thời gian Phật ngự tại nước Tỳ Xá Ly, gần đến giờ thọ trai Ngài mới vào thành khất thực. Bấy giờ trong thành Tỳ Xá Ly có một chàng ly xa tên là Tỳ La Tứ Na (Dõng Quân).
(Xem: 13726)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp, Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ, Ngã kim kiến văn đắc thọ trì, Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa.
(Xem: 16827)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ Ngã kim kiến văn đắc thọ trì Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa
(Xem: 17569)
Vào khoảng 150 năm sau khi Bụt nhập Niết bàn, đạo Bụt chia thành nhiều bộ phái, kéo dài mấy trăm năm. Thời kỳ này gọi là thời kỳ Đạo Bụt Bộ Phái.
(Xem: 13114)
Nói đến kinh Pháp Hoa, các vị danh Tăng đều hết lòng ca ngợi. Riêng tôi, từ sơ phát tâm đã có nhân duyên đặc biệt đối với bộ kinh này.
(Xem: 12517)
A-hàm có thể đẩy tan những dục vọng phiền não đang thiêu đốt chúng ta và nuôi lớn giới thân tuệ mạng thánh hiền của chúng ta...
(Xem: 11606)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni sanh ở Ấn Độ, nên thuyết pháp đều dùng Phạn ngữ, Kinh điển do người sau kiết tập cũng bằng Phạn văn. Những bổn Kinh Phật bằng Trung văn đều từ Phạn văn mà dịch lại.
(Xem: 11599)
Có rất nhiều công trình thâm cứu có tính cách học giả về tác phẩm nầy dưới dạng Anh ngữ, Nhật ngữ và Hoa ngữ liên quan đến đời sống, khái niệm nồng cốt của tư tưởng Trí Khải Đại Sư trong mối tương quan với Phật giáo Trung Quán
(Xem: 14500)
Luật học hay giới luật học là môn học thuộc về hành môn, nhằm nghiên cứuthực hành về giới luật do đức Phật chế định cho các đệ tử
(Xem: 20460)
Quyển sách “Giáo Trình Phật Học” quý độc giả đang cầm trên tay là được biên dịch ra tiếng Việt từ quyển “Buddhism Course” của tác giả Chan Khoon San.
(Xem: 18985)
Tam Tạng Thánh Điển là bộ sưu tập Văn Chương Pali lớn trong đó tàng chứa toàn bộ Giáo Pháp của Đức Phật Gotama đã tuyên thuyết trong suốt bốn mươi lăm năm từ lúc ngài Giác Ngộ đến khi nhập Niết Bàn.
(Xem: 19555)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18644)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 12179)
Kinh này dịch từ kinh Pháp Ấn của tạng Hán (kinh 104 của tạng kinh Đại Chính) do thầy Thi Hộ dịch vào đầu thế kỷ thứ mười.
(Xem: 12295)
Đại Chánh Tân Tu số 0158 - 8 Quyển: Hán dịch: Mất tên người dịch - Phụ vào dịch phẩm đời Tần; Việt dịch: Linh-Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
(Xem: 13853)
Là Bộ Luật trong hệ thống Luật-Tạng do Bộ Phái Nhất Thiết Hữu thuộc hệ Thượng Tọa Bộ Ấn Độ kiết tập...Đại Tạng No. 1451
(Xem: 15018)
“Triệu Luận” là một bộ luận Phật Giáo do Tăng Triệu, vị học giả Bát nhã học, bậc cao tăng nổi tiếng đời Hậu Tần Trung Quốc, chủ yếu xiển thuật giáo nghĩa Bát nhã Phật Giáo.
(Xem: 15034)
Bộ chú giải này là một trong năm bộ luận giải thích về luật trong Luật bộ thuộc Hán dịch Bắc truyền Đại tạng kinh lưu hành tại Trung quốc và được đưa vào Đại chính tân tu Đại tạng kinh N.1462, tập 24 do Nhật bản biên tập.
(Xem: 13987)
Dịch theo bản in lần thứ nhất của Hoa Tạng Phật Giáo Đồ Thư Quán, Đài Bắc, tháng 2, năm Dân Quốc 81 - 1992
(Xem: 15508)
Hữu Bộ là một trường phái Phật Giáo quan trọng. Nếu không kể Thượng Toạ Bộ (Theravada, Sthaviravada) thì Hữu Bộbộ phái Phật Giáo duy nhất có được một hệ thống giáo lý gần như nguyên thuỷ...
(Xem: 11391)
Tôi nghe như vầy vào khoảng thời gian đức Phật ngự tại tinh xá Kỳ Hoàn thuộc nước Xá Vệ có ngàn vị tỳ theo tăng và mười ngàn đại Bồ tát theo nghe pháp.
(Xem: 17185)
Biện chứng Phá mê Trừ khổ - Prajnaparamita Hrdaya Sutra (Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm kinh); Thi Vũ dịch và chú giải
(Xem: 14971)
Là 2 bản Kinh: Kinh Phật Thuyết A Di Đà No. 366 và Kinh Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ No. 367
(Xem: 20188)
Bát-nhã tâm kinh (prajñāpāramitāhṛdayasūtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát-nhã ba-la-mật (prajñā-pāramitā). Trong bản Hán dịch của Huyền Trang, kinh gồm 262 chữ.
(Xem: 14609)
Như thật tôi nghe một thuở nọ Phật cùng các Tỳ kheo vân tập tại vườn cây của Trưởng giả Cấp cô ĐộcThái tử Kỳ Đà ở nước Xá Vệ.
(Xem: 13836)
Kinh này dịch từ kinh số 301 trong bộ Tạp A Hàm của tạng Hán. Tạp A Hàm là kinh số 99 của tạng kinh Đại Chính.
(Xem: 11703)
Đây là những điều tôi đã được nghe: Hồi ấy, có những vị thượng tọa khất sĩ cùng cư trú tại vườn Lộc Uyển ở Isipatana thành Vārānasi. Đức Thế tôn vừa mới nhập diệt không lâu.
(Xem: 15053)
Kinh Mục Kiền Liên hỏi năm trăm tội khinh trọng trong Giới Luật; Mất tên người dịch sang Hán văn, Thích Nguyên Lộc dịch Việt
(Xem: 12994)
Hán dịch: Hậu Hán, Tam tạng An Thế Cao người nước An Tức; Việt dịch: Tì-kheo Thích Nguyên Chơn.
(Xem: 22867)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434;, dịch Phạn sang Hán: Nguyên Ngụy Thiên Trúc Tam Tạng Cát-ca-dạ; Dịch Hán sang Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ...
(Xem: 14552)
Người giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không. Giảng tại: Tịnh Tông Học Hội Singapore. Người dịch: Vọng Tây cư sĩ. Biên tập: Phật tử Diệu Hương, Phật tử Diệu Hiền
(Xem: 11646)
Kinh này là kinh thứ mười trong Nghĩa Túc Kinh, nhưng lại là kinh thứ mười một trong Atthaka Vagga, kinh tương đương trong tạng Pali.
(Xem: 13164)
Có thể xem đây là "tập sách đầu giường" hay "đôi tay tỳ-kheo"; rất cần thiết cho mỗi vị Tỳ-kheo mang theo bên mình để mỗi ngày mở ra học tụng cho nhuần luật nghi căn bản.
(Xem: 16882)
Không Sát Sanh là giới thứ nhất trong Ngũ Giới. Chúng ta đang sống trong một thế giới bất toàn, mạnh hiếp yếu, lớn hiếp nhỏ, giết chóc tràn lan khắp nơi.
(Xem: 18337)
Kể từ khi đạo Phật truyền vào nước ta, hàng Phật tử tại gia trong bất cứ thời đại nào và hoàn cảnh nào cũng đã có những đóng góp thiết thực trong sứ mạng hộ trìhoằng dương chánh pháp.
(Xem: 11936)
Tạng Luật (Vinayapiṭaka) thuộc về Tam Tạng (Tipiṭaka) là những lời dạy và quy định của đức Phật về các vấn đềliên quan đến cuộc sống...
(Xem: 11493)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, Trưởng lão Māhakassapa (Ma-ha Ca-diếp) triệu tập 500 vị Tỳ-khưu A-la-hán để trùng tụng Pháp và Luật.
(Xem: 15844)
Bồ Tát Long Thọ - Cưu Ma La Thập Hán dịch; Chân Hiền Tâm Việt dịch & Giải thích; Xuất Bản 2007
(Xem: 12868)
Ngài Long Thọ, tác giả Trung Quán Luận và những kinh sách khác, được chư thiền đức xưng tán là Đệ nhị Thích Ca, đã vạch ra thời kỳ chuyển pháp lần thứ hai.
(Xem: 18903)
Vị Tăng, lấy Phật làm tính, lấy Như-Lai làm nhà, lấy Pháp làm thân, lấy Tuệ làm mệnh, lấy Thiền-duyệt làm thức ăn.
(Xem: 18415)
Trong Vi Diệu Pháp cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant