Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

8. Phẩm Thọ Ký

22 Tháng Ba 201100:00(Xem: 9653)
8. Phẩm Thọ Ký

KINH BÁT CHU TAM MUỘI
Ðời Tùy Tam Tạng, Khất Ða và Cấp Ða
Việt dịch: HT Thích Minh Lễ

Quyển Thứ Hai 
Phẩm Thứ Tám - Thọ Ký

Khi ấy Bồ tát Hiền Hộ thưa:

Bạch Thế Tôn! Ngài rất là hy hữu đã vì hàng Bồ tát tại gia, xuất gia đức tin thuần thục hâm mộ diệu pháp dạy cho họ pháp vô thượng, để họ an trụ trong vô lượng pháp hành sau đó họ sẽ được quán sátgiảng giải tam muội nầy.

Bạch Thế Tôn! Sau khi ngài diệt độ môn tam muội nầy còn phổ biến trong cõi Diêm phù đề không?

Phật dạy:

Sau khi ta diệt độ khoảng bốn chục năm kinh tam muội nầy còn phổ biến trong cõi Diêm phù đề. Qua năm trăm năm sau lúc chánh pháp diệt, tỳ kheo tạo điều ác, lúc chánh pháp bị phỉ báng, lúc chánh pháp bị phá hoại, lúc ít người giữ giới hạnh, hạng phá giới tăng trưởng, lúc các nước đánh nhau. Vào khoảng trong vòng trăm năm nầy có chúng sanh nào thiện căn bền vững khi xưa đã từng gần gũi chư Phật cúng dường tu hành gieo hạt giống lành, nhờ vậy hàng trượng phu nầy được kinh điển như thế đem ra lưu hành và do đó kinh được phổ biến trở lại trong thế giới Diêm phù đề. Đây là nhờ oai thần của Phật nên khiến cho họ sau khi ta diệt độ được nghe kinh nầy rồi sanh vui mừng biên chép phổ biến, thọ trì đọc tụng, suy gẫm ý nghĩa, dạy bảo kẻ khác, thực hành như lời dạy.

Khi đó Bồ tát Hiền Hộ và chàng Ly Xa Bảo Đức vừa nghe Như Lai nói chánh pháp diệt thương khóc nước mắt rơi xuống như mưa mới cùng rời chỗ ngồi đứng dậy, sửa sang y phục ngay ngắn trịch áo bày vai mặt, gối mặt quỳ chấm đất cung kính thưa rằng:

Trong vòng trăm năm sau năm trăm năm đức Như Lai nhập Niết Bàn là lúc chánh pháp diệt, lúc các sa môn điên đảo, chánh pháp bị phỉ báng, phá hoại, kẻ giữ giới ít oi phá giới lại tăng, bậc hộ pháp hiếm hoi, kẻ sống phi pháp lại nhiều, chúng sanh chịu ly loạn, các nước đánh nhau, khi ấy chúng con sẽ đọc tụng thọ trì suy gẫm nghĩa lý kinh điển tam muội vi diệu nầy, lại còn đem giảng nói cho kẻ khác nghe. Tại sao chúng con hành động như vậy? Là vì tâm chúng con không nhàm chán, không tri túc đối với kinh điển Như Lai dạy bảo, vì chúng con có khả năng nghe nhận, biên chép phổ biến, đọc tụng thọ trì, suy gẫm nghĩa lý tu hành và giảng nói cho kẻ khác.

Khi ấy có các cư sĩ thuộc giới thương gia tên là Dà Ha Cấp Đa và Na La Đạt Đa Ma Nạp v.v... xót thương chánh pháp diệt nước mặt rơi đầm đìa cũng cùng đứng dậy thưa:

Bạch Thế Tôn! Chúng con nguyện bảo vệ kinh điển Như Lai nói và kẻ thọ trì kinh điển làm cho được tăng trưởng. Chúng con sẽ gìn giữ kinh điển vi diệu do Như Lai dạy được lưu hành phổ biếntồn tại lâu dài trên đời. Do vì kinh điển nầy đã từng trong vô lượng số kiếp đem lại nhiều quả trí giác vô thượng cho chúng sanh.

Bạch Thế Tôn! Chúng con được nghe pháp hy hữu xin nguyện hết lòng thọ trì suy gẫm ý nghĩa, đem dạy lại cho người để pháp được phổ biến.

Bạch Thế Tôn! Với pháp sâu xa tất cả thế gian khó có người tin, con sẽ vì chúng sanh trước tiên gây thiện căn cho họ sau đó sẽ giảng giải ý nghĩa.

Khi đó trong chúng có năm trăm tỳ kheo tỳ kheo ni cư sĩ nam cư sĩ nữ nghe đức Như Lai nói chánh pháp hoại diệt trong thời gian sắp đến lòng cảm thấy đau nhói nước mắt tuôn rơi, đều đứng dậy sửa sang y phục trịch áo bày vai mặt, gối mặt quỳ chấm đất cung kính chấp tay thưa:

Bạch Thế Tôn! Chúng con xin nguyện thọ trì chánh pháp của Như Lai. Còn các bậc đại sĩ thiện trượng phu vào lúc nầy đã làm bậc y chỉ cho chúng con, đã che chở dạy dỗ làm chúng con hiểu được ý nghĩa chơn thật của kinh điển sâu xaNhư Lai đã dạy và nhờ đó chúng con thực hành như Pháp. Cúi xin Thế Tôn ngài hãy thọ ký rõ ràng cho các thiện trượng phu và chúng con. Vì con và các ngài đó đủ có năng lực gìn giữ chánh pháp và người thọ trì.

Đức Thế Tôn liền mỉm cười từ miệng toát ra ánh sáng màu vàng ròng soi khắp mười phương các thế giới Phật, và ánh sáng trở về chỗ Phật, xoay quanh Như Lai ba vòng theo chiều mặt xoay lên đến đỉnh đầu thì biến mất.

Tôn giả A Nan thầm nghĩ lúc Thế Tôn cười chắc có việc gì lạ ta nên hỏi ngài gì cớ gì Ngài cười.

Nghĩ vậy xong, ngài đứng dậy sửa sang y phục lại, trịch áo bày vai mặt, gối mật chấm đất chấp tay hướng về Phật dùng kệ thưa: 

Tâm ngài trong sáng hạnh không nhơ 
đại oai đức, thần thông lớn 
Cao cả đáng tôn trọng cõi đời 
Hiển hiện khác gì ánh trăng trong. 
Thánh trí vô ngại, tâm giải thoát 
Tiếng Ca Lăng tối thượng cõi trời 
Tất cả dị luận không xao động 
Nay bỗng mỉm cười do duyên gì? 
Thông đạt chánh chơn vì con nói 
Đấng lưỡng túc đem nhiều lợi ích 
Nên nghe âm thinh vi diệu nầy 
Con sẽ hết lòng vui hớn hở. 
Chẳng lẽ Thế Tôn luống cười khan? 
Khi Phật phóng quang có người lành 
Thưa ai hôm nay được lợi lớn? 
Ai trong phút nầy được chứng chơn? 
Ai hiện giờ đây được quán đảnh? 
Ai phút bây giờ lên ngôi Phật? 
Ai hiện tại đem lợi cho đời? 
Ai sẽ nói hết kho Phật pháp? 
Ai hằng thường trụ trong Phật trí 
đức Thế Tôn hiện duyên cười? 
Phật liền dùng kệ đáp lại:

A Nan! Ông thấy Hiền Hộ không? 
Cùng năm trăm người ông giáo hóa 
Thân tâm vui vẻ lời thành thật 
Bọn họ tương lai được pháp nầy. 
Bọn họ nhứt tâm nhìn ngóng ta 
Bất cứ lúc nào cũng như vậy. 
Đối trước nơi ta phát đại nguyện
Họ sẽ tương lai đạt đạo nầy. 
Lại có tám chúng đứng dậy thưa 
Trong đó năm trăm là thượng thủ 
Họ sẽ ở vào đời pháp hoại 
Vì cả thế gian nói pháp nầy. 
Ta cũng bảo ông biết như vầy
Họ là kẻ có trí vô ngại 
Nào từng chỉ ở đời một Phật 
Đứng dậy chấp tay kính Thế Tôn
Ta quán khi xưa vô lượng đời 
Trải qua tám muôn các đức Phật 
Tám người đã từng đứng dậy thưa 
Lại cũng hộ trì diệu pháp nầy 
Trước đó tám muôn ức do tha 
Cũng gặp vô số Phật như thế 
Tâm được giải thoát, tiếng đồn xa. 
Lúc đó hạng nầy đã thọ trì 
Nay lại ở trong diệu pháp ta 
Làm thượng thủ hạng giữ lợi ích 
Bọn họ sau khi ta diệt độ 
Đem xá lợi ra để cúng dường
Khéo giữ các Phật sự của ta 
Đặt trong rương hộp khắp mười phương 
Xây tháp giữa đồng hay trên núi 
Dặn dò trời rồng và kim điểu: 
Các ông nương tựa kinh pháp nầy 
Mạng dứt sẽ đều lên cõi trời 
Sau đó trở lại chốn nhân gian 
Thường sanh vào nhà họ sang trọng 
Khéo gìn việc Bồ đề của ta 
Lại phát đại nguyện theo bổn tâm, 
Hoặc vì chánh pháp đến nước người 
Để tìm cầu kinh sâu như thế 
Đắc rồi lại truyền trao kẻ khác 
Do tâm vui vẻ không ganh tỵ
Cầu pháp tinh thành không biếng nhát 
Khinh tài nhẹ mạng há yêu thân! 
Hàng phục tất cả ngoại đạo luận 
Hằng đem chánh pháp ban cho họ. 
Lúc đó không ai thọ trì kinh 
Cũng không đọc tụng, dạy kẻ khác. 
Chỉ có năm trăm đấng hiền nầy 
Và tám đại Bồ tát như thế 
Tương lai miền Bắc truyền diệu pháp 
Phổ biến kinh điển rất sâu xa
Như thế tỳ kheoni chúng 
Các cư sĩ nam cư sĩ nữ
Trí khéo, không hiểm, lên pháp sư 
Sẽ thành bậc chánh giác đức lớn. 
Kẻ nầy từ đây đến khi chết 
Không bao giờ sa vào đường ác 
Trong các đời sanh được may mắn 
Gặp gỡ Bồ đề việc hy hữu 
Đã xa lìa hẳn các đường ác 
Lại tránh không gặp các nạn tai 
Công đức khó biết được ngằn mé 
Hưởng phước như thế nhiều vô cùng 
Sẽ gặp được Phật Di Lặc 
Tâm hằng tương xứng với Phật nầy 
Cúng Phật cung kính lợi chúng sanh 
Chỉ vì mong cầu trí Bồ đề 
Vào khoảng mạt thế lúc pháp diệt 
Họ cũng lại thường giữ gìn pháp 
Có thể ở vào khoảng Hiền kiếp 
Làm cho thế gian khắp sáng soi 
Bảo vệ kinh nầy cùng mọi nơi
Trụ chỗ không sợ giữa ba đời 
Tương lai số ức các đức Phật 
Khó thể tính lường và nghĩ suy 
Đều cúng dường hết, rộng tu hành 
Hằng giữ gìn các thắng Phật sự 
Nay đây Hiền Hộ đại Bồ tát 
Và ông Bảo đức, báu trong chúng 
Thương chủ Cấp Đa Dà Ma Da 
Sẽ được gặp Phật nhiều hằng sa 
Nghe và lãnh thọ kinh vô lượng 
Nếu có chúng sanh được nghe tên 
Hoặc lúc tỉnh táo hay ngủ nghỉ 
Hạng nầy được trời người tôn kính 
Nếu có chúng sanh vừa nghe tên 
Liền sanh kính tin và tùy hỷ 
Tất cả thành Phật không nghi ngờ 
Huống gì cúng dường với các Phật 
Họ được thọ ký khó nghĩ lường 
Sống lâu, pháp trụ cũng vô lượng 
Lợi ích rộng lớn không cùng tận 
Công đức trí huệ cũng khó biết. 
A Nan nếu người trì kinh nầy 
Biên chép đọc tụng và ghi nhớ 
Ông nên quyết định sanh kính mến 
Không nên xa họ năm trăm dặm, 
A Nan! Nếu người trình kinh nầy 
Tự siêng năng mong cầu bền vững 
Giữ giới trong sạch, bỏ ngủ nghỉ 
Chắc chắn đắc được diệu tam muội 
Trong luật ta dạy về Mộc Xoa 
Các hạng tỳ kheoLan nhã 
Thường hành đầu đà không xả bỏ 
Đắc được tam muội rất chắc chắn
Tất cả thỉnh riêng đều từ chối 
Dù là vị ngon cũng bỏ qua 
Coi thầy như Phật tâm cung kính 
Ai nói họ không chứng tam muội? 
Trước hết rõ cả tham sân si 
Xả bỏ ngã mạnganh tỵ 
Tình không nhơ bợn niệm vô vi 
Đọc tụng suy gẫm tam muội nầy 
Nếu có Bồ tát còn tại gia 
Tâm hằng bền vững việc xuất gia 
Thọ trì đọc tụng thành nghiệp miệng 
Tâm hằng nhớ học tam muội nầy, 
Luôn giữ gìn năm căn bản giới 
Cũng thường thọ trì bát quan trai 
Hằng xả tài sản cúng chùa tháp 
Đọc tụng quán sát môn tam muội
Không có mê say hàng thê thiếp 
Không đắm nữ sắctài sản
Giữ hạnh cư sĩ hằng hổ thẹn 
Chỉ một lòng nhớ tam muội nầy. 
Không khởi tâm hại các kẻ khác 
Chỉ nghỉ suy bỏ các chơi giỡn 
Không kẹt nơi nào, tâm an nhẫn 
Chỉ nhớ một môn tam muội nầy. 
Chớ nên ôm giữ các tài vật 
Hoa hương phấn thoa và vòng hoa 
Không đắm nơi nào, hằng an nhẫn 
Tam muội như thế luôn giữ gìn
Nếu tỳ kheo ni cầu kinh nầy 
Nên phải quy kính, bỏ ganh tỵ 
Bỏ đùa, cống caongã mạn 
Chứng được bồ đề nào khó gì. 
Nên phải siêng năng trừ mê ngủ 
Tất cả mong cầu đều bỏ lìa 
Tâm mến pháp, nuôi mạng trong sạch 
Chỉ đọc tụng kinh tam muội nầy, 
Hằng không hợp tác với tham dục 
Không nổi sân hận dày vò người 
Không đem dây ma trói chúng sanh 
Chỉ một lòng trì môn tam muội 
Không do nịnh hót mà hành động 
Không ham áo đẹp và hương xoa 
Không nói hai lưỡi chia cách người 
Chỉ biết môn tam muội phải trì. 
Tiếng sắc gái trai nào bợn tâm 
Tịch tịnh hết rối mối nghĩ bậy 
Kính thầy nào khác đức Phật đà 
Và chỉ thọ trì niệm tam muội
Sanh ra xa lìa các đường ác 
Trong biển Phật pháp nào tin suông 
Phá trừ các chướng trong ba cõi 
Mong muốn lãnh thọ tam ma đề.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 22060)
Năng Đoạn Kim Cương Bát-nhã Ba-la-mật Kinh, nguyên văn Sanskrit Devanagari hiện hành là: वज्रच्छेदिका नाम त्रिशतिका प्रज्ञापारमिता। Vajracchedikā nāma triśatikā prajñāpāramitā
(Xem: 15911)
Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập dịch từ Phạn sang Hán, Tỳ Kheo Thích Duy Lực Dịch Từ Hán Sang Việt
(Xem: 14931)
Pháp Hoakinh tối thượng của Phật giáo Đại thừa bởi vì cấu trúc của kinh rất phức tạp, ý nghĩa sâu sắc có lẽ vượt ra ngoài tầm tư duysuy luận của con người bình thường.
(Xem: 18782)
Chắc chắn dù có khen ngợi thì cũng không đủ nêu lên chỗ cao đẹp; dù có bài bác thì cũng chỉ càng mở rộng chỗ ảo diệu luận mà thôi. Luận Vật bất thiên của ngài Tăng Triệu...
(Xem: 14348)
Một thời, Đức Phật và một nghìn hai trăm năm mươi đại chúng tì-kheo cùng trụ ở tinh xá Mỹ Xưng phu nhân của trưởng giả Tu-đạt, rừng cây của thái tử Kì-đà, nước Xá-vệ.
(Xem: 18497)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 14299)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13452)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13441)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 11722)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13150)
Không khởi sinh cũng không hoại diệt, không thường hằng cũng không đứt đoạn. Không đồng nhất cũng không dị biệt, không từ đâu đến cũng không đi mất.
(Xem: 13568)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 13838)
công đức của Pháp tánh là không cùng tận, cho nên công đức của người ấy cũng giống như vậy, không có giới hạn.
(Xem: 13154)
Phật Thích Ca gọi cái pháp của Ngài truyền dạy là pháp bản trụ. Nói bản trụ nghĩa là xưa nay vốn sẵn có.
(Xem: 14917)
Thanh tịnh đạo có thể xem là bộ sách rất quý trong kho tàng văn học thế giới, không thể thiếu trong nguồn tài liệu Phật học bằng tiếng Việt.
(Xem: 16067)
Không và Hữu là hai giáo nghĩa được Đức Phật nói ra để phá trừ mê chấp của các đệ tử.
(Xem: 10988)
Đây là một bộ Đại Tạng đã được nhiều học giả và các nhà nghiên cứu về Phật Học chọn làm bộ Đại Tạng tiêu biểu so với những bộ khác như...
(Xem: 16321)
Đại Thừa Khởi Tín Luận là bộ luận quan trọng, giới thiệu một cách cô đọng và bao quát về triết học đại thừa.
(Xem: 11777)
Công trình biên soạn này trình bày một cách rõ ràng từ lịch sử hình thành và phát triển của hệ thống triết học Trung Quán cho đến khởi nguyên, cấu trúc, sự phát triển...
(Xem: 17470)
Hiện nay tôi giảng Phạm Võng Kinh Bồ Tát Giới Bổn để cho quý vị biết dù rằng muôn pháp đều không, nhưng lý nhân quả rõ ràng, không sai một mảy, cũng không bao giờ hư hoại.
(Xem: 12796)
Tâm hiếu thuậntâm từ bi giống nhau, vì hiếu thuận của Phật pháp không giống như hiếu thuận của thế gian.
(Xem: 13585)
Đức Phật ra đời suốt bốn mươi năm trời thuyết pháp, có đến hơn tám vạn bốn ngàn pháp môn. Pháp môn chính là phương pháp mở cửa tuệ giác tâm linh.
(Xem: 12788)
Nếu có duyên mà thọ và đắc từ Chư Phật và Bồ Tát thì sự thành tựu giới thể rất là vượt bực.
(Xem: 14777)
Trì Giớithực hành những luật lệđức Phật đặt ra cho Phật tử xuất gia thi hành trong khi tu hành, và cho Phật tử tại gia áp dụng trong cuộc sống để có đời sống đạo đức và hưởng quả báo tốt đẹp;
(Xem: 16249)
Chỉ tự quán thân, thiện lực tự nhiên, chánh niệm tự nhiên, giải thoát tự nhiên, vì sao thế? Ví như có người tinh tấn trực tâm, được giải thoát chân chánh, người như thế chẳng cầu giải thoátgiải thoát tự đến.
(Xem: 13027)
Trong nước mỗi mỗi báu ấy đều có sáu mươi ức hoa sen thất bửu. Mỗi mỗi hoa sen tròn đều mười hai do tuần.
(Xem: 12000)
Đối với Phật giáo, các nguồn gốc của mọi hành vi tác hại, thí dụ như ham muốn, thù hận và cảm nhận sai lầm được coi như là cội rể cho mọi sự xung đột của con người.
(Xem: 12661)
Năm Giới Tân Tu là cái thấy của đạo Bụt về một nền Tâm LinhĐạo Đức Toàn Cầu, mà Phật tử chúng ta trong khi thực tập có thể chia sẻ với những truyền thống khác trên thế giới
(Xem: 12788)
Nếu có nghe kinh này thọ trì đọc tụng giảng thuyết tu hành như lời, Bồ Tát này đã là cúng dường chư Phật ba đời rồi.
(Xem: 12692)
Các học giả Tây phương quan niệm hệ thống giáo lý Phật giáo từ các bản Pali, Sanskrit là kinh “gốc” và kinh sau thời đức Phật là kinh phát triển để...
(Xem: 14031)
Ở đây, chúng tôi chỉ cố gắng ghi lại nghĩa Việt theo khả năng học hiểu về cổ ngữ Sanskrit.
(Xem: 14023)
Chánh pháp quý giá của các ngài soi sáng khắp nơi và tuôn xuống như mưa cam-lộ. Tiếng nói của các ngài vi diệu đệ nhất.
(Xem: 16355)
Đây là một bộ kinh rất có ý nghĩalợi lạc vô cùng nếu được thường xuyên tụng đọc, hoặc giảng giải huyền nghĩa đến mọi người tín tâm.
(Xem: 12293)
Cần ban cho luật diện tiền liền ban cho luật diện tiền, cần ban cho luật ức niệm liền ban cho luật ức niệm,
(Xem: 14288)
Trong các pháp, tâm dẫn đầu, tâm làm chủ, tâm tạo tác ; Nếu nói hoặc làm với tâm ô nhiễm, sự khổ sẽ theo nghiệp kéo đến như bánh xe lăn theo chân con vật kéo.
(Xem: 11184)
Người đời thường nghiêng về hai khuynh hướng nhận thức, một là có, hai là không. Đây là hai quan niệm vướng mắc vào cái tri giác sai lầm.
(Xem: 10935)
Tâm bậc giác ngộ được nói là không còn bám trụ vào bất cứ gì trên đời (bất cứ đối tượng nào của thức)
(Xem: 13123)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức...
(Xem: 13800)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức
(Xem: 13066)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức...
(Xem: 12897)
Thế Tôn đã giảng đời sống phạm hạnh chi tiếtrõ ràng, toàn hảo, hoàn toàn tinh khiết.
(Xem: 13410)
Người không sầu muộn, không than vãn, không khóc lóc, không đập ngực, không rơi vào bất tỉnh, đây là hạng người bản tánh bị chết, không sợ hãi, không rơi vào run sợ khi nghĩ đến chết.
(Xem: 12603)
Đức Phật trình bày các điều bất thiện đều bắt nguồn từ tham, sân, si còn điều thiện là do lòng không tham, không sân, không si dẫn tới.
(Xem: 10125)
Đây nói về công đức của Bồ-tát sơ phát tâm, là để phân biệt với những gì đã nói về Nhị thừa...
(Xem: 13817)
Từ ngàn xưa chư Phật ra đời nhằm một mục đíchgiáo hóa chúng sinh với lòng bi nguyện thắm thiết đều muốn cho tất cả thoát ly mọi cảnh giới phiền não khổ đau
(Xem: 10137)
Bát Nhãtrí tuệ, nhưng không giống như trí tuệ thế gian, cho nên thường gọi là Trí Tuệ Bát Nhã.
(Xem: 13597)
Chữ “Viên giác bồ tát” – Viên GiácGiác viên mãn. Từ trước đến đây, Phật đã nhiều lần chỉ dạy phương pháp tu hành để phá trừ Vô minhchứng nhập Viên giác.
(Xem: 16166)
Phẩm Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn thường được gọi đơn giảnphẩm Phổ Môn nghĩa là cánh cửa phổ biến, cánh cửa rộng mở cho mọi loài đi vào.
(Xem: 11874)
Pháp ấn là khuôn dấu của chánh pháp. Khuôn dấu chứng thực tính cách chính thống và đích thực. Giáo lý đích thực của Bụt thì phải mang ba dấu ấn chứng nhận đó.
(Xem: 12875)
Những lời Như Lai thuyết giảng trước các đại đệ tử năm nào cách đây hai mươi lăm thế kỷ hiện nay vẫn hiện tiền cho những ai có cái tâm kính cẩn lắng nghe.
(Xem: 11558)
Xuất sinh pháp Phật không gì hơn Hiển bày pháp giới là bậc nhất Kim cương khó hoại, câu nghĩa hợp Tất cả Thánh nhân không thể nhập.
(Xem: 12580)
Nơi tâm rộng, hơn hết Tột cùng không điên đảo Lợi ích chốn ý lạc Thừa nầy công đức đủ.
(Xem: 10699)
Giáo lý đạo Phật đặt nền tảng trên con người, lấy hạnh phúc con người làm trung tâm điểm để phát huy lý tưởng Bồ-tát đạo.
(Xem: 10891)
Kinh Duy Ma là một tác phẩmgiá trị về mặt văn học. Đó là một văn bản có giá trị giải tỏa mọi ức chế về mặt tư tưởng, giải phóng sự gò bó trói buộc...
(Xem: 10860)
Kinh Duy Ma là cái nôi của Đại thừa Phật giáo, kiến giải giáo lý theo chân tinh thần Đại thừa “Mang đạo vào đời làm sáng đẹp cho đời, mà không bị đời làm ô nhiễm”.
(Xem: 11805)
Duy-ma-cật sở thuyết còn có một tên khác nữa là Bất tư nghị giải thoát. Đó là tên kinh mà cũng là tông chỉ của kinh.
(Xem: 12659)
Bộ Kinh này trình bày cảnh giới chứng nhập của Bồ Tát, có nhiều huyền nghĩa sâu kín nhiệm mầu, cao siêu...
(Xem: 10982)
Đức Phật thuyết Kinh Kim Cang là để dạy cho chúng ta làm thế nào để có được cuộc sống hạnh phúc, cảnh giới niết bàn.
(Xem: 12521)
Trong tập sách nầy gồm các bài giảng về giáo lý kinh Pháp Hoa cùng phân tích phẩm Tựa và phẩm Phương Tiện của kinh.
(Xem: 11232)
Tri kiến Phật là cái thấy biết không thuộc về kiến chấp ngã nơi thân, không thuộc về kiến chấp ngã nơi tâm (vọng tâm).
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant