Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

8. Phẩm Thọ Ký

22 Tháng Ba 201100:00(Xem: 9744)
8. Phẩm Thọ Ký

KINH BÁT CHU TAM MUỘI
Ðời Tùy Tam Tạng, Khất Ða và Cấp Ða
Việt dịch: HT Thích Minh Lễ

Quyển Thứ Hai 
Phẩm Thứ Tám - Thọ Ký

Khi ấy Bồ tát Hiền Hộ thưa:

Bạch Thế Tôn! Ngài rất là hy hữu đã vì hàng Bồ tát tại gia, xuất gia đức tin thuần thục hâm mộ diệu pháp dạy cho họ pháp vô thượng, để họ an trụ trong vô lượng pháp hành sau đó họ sẽ được quán sátgiảng giải tam muội nầy.

Bạch Thế Tôn! Sau khi ngài diệt độ môn tam muội nầy còn phổ biến trong cõi Diêm phù đề không?

Phật dạy:

Sau khi ta diệt độ khoảng bốn chục năm kinh tam muội nầy còn phổ biến trong cõi Diêm phù đề. Qua năm trăm năm sau lúc chánh pháp diệt, tỳ kheo tạo điều ác, lúc chánh pháp bị phỉ báng, lúc chánh pháp bị phá hoại, lúc ít người giữ giới hạnh, hạng phá giới tăng trưởng, lúc các nước đánh nhau. Vào khoảng trong vòng trăm năm nầy có chúng sanh nào thiện căn bền vững khi xưa đã từng gần gũi chư Phật cúng dường tu hành gieo hạt giống lành, nhờ vậy hàng trượng phu nầy được kinh điển như thế đem ra lưu hành và do đó kinh được phổ biến trở lại trong thế giới Diêm phù đề. Đây là nhờ oai thần của Phật nên khiến cho họ sau khi ta diệt độ được nghe kinh nầy rồi sanh vui mừng biên chép phổ biến, thọ trì đọc tụng, suy gẫm ý nghĩa, dạy bảo kẻ khác, thực hành như lời dạy.

Khi đó Bồ tát Hiền Hộ và chàng Ly Xa Bảo Đức vừa nghe Như Lai nói chánh pháp diệt thương khóc nước mắt rơi xuống như mưa mới cùng rời chỗ ngồi đứng dậy, sửa sang y phục ngay ngắn trịch áo bày vai mặt, gối mặt quỳ chấm đất cung kính thưa rằng:

Trong vòng trăm năm sau năm trăm năm đức Như Lai nhập Niết Bàn là lúc chánh pháp diệt, lúc các sa môn điên đảo, chánh pháp bị phỉ báng, phá hoại, kẻ giữ giới ít oi phá giới lại tăng, bậc hộ pháp hiếm hoi, kẻ sống phi pháp lại nhiều, chúng sanh chịu ly loạn, các nước đánh nhau, khi ấy chúng con sẽ đọc tụng thọ trì suy gẫm nghĩa lý kinh điển tam muội vi diệu nầy, lại còn đem giảng nói cho kẻ khác nghe. Tại sao chúng con hành động như vậy? Là vì tâm chúng con không nhàm chán, không tri túc đối với kinh điển Như Lai dạy bảo, vì chúng con có khả năng nghe nhận, biên chép phổ biến, đọc tụng thọ trì, suy gẫm nghĩa lý tu hành và giảng nói cho kẻ khác.

Khi ấy có các cư sĩ thuộc giới thương gia tên là Dà Ha Cấp Đa và Na La Đạt Đa Ma Nạp v.v... xót thương chánh pháp diệt nước mặt rơi đầm đìa cũng cùng đứng dậy thưa:

Bạch Thế Tôn! Chúng con nguyện bảo vệ kinh điển Như Lai nói và kẻ thọ trì kinh điển làm cho được tăng trưởng. Chúng con sẽ gìn giữ kinh điển vi diệu do Như Lai dạy được lưu hành phổ biếntồn tại lâu dài trên đời. Do vì kinh điển nầy đã từng trong vô lượng số kiếp đem lại nhiều quả trí giác vô thượng cho chúng sanh.

Bạch Thế Tôn! Chúng con được nghe pháp hy hữu xin nguyện hết lòng thọ trì suy gẫm ý nghĩa, đem dạy lại cho người để pháp được phổ biến.

Bạch Thế Tôn! Với pháp sâu xa tất cả thế gian khó có người tin, con sẽ vì chúng sanh trước tiên gây thiện căn cho họ sau đó sẽ giảng giải ý nghĩa.

Khi đó trong chúng có năm trăm tỳ kheo tỳ kheo ni cư sĩ nam cư sĩ nữ nghe đức Như Lai nói chánh pháp hoại diệt trong thời gian sắp đến lòng cảm thấy đau nhói nước mắt tuôn rơi, đều đứng dậy sửa sang y phục trịch áo bày vai mặt, gối mặt quỳ chấm đất cung kính chấp tay thưa:

Bạch Thế Tôn! Chúng con xin nguyện thọ trì chánh pháp của Như Lai. Còn các bậc đại sĩ thiện trượng phu vào lúc nầy đã làm bậc y chỉ cho chúng con, đã che chở dạy dỗ làm chúng con hiểu được ý nghĩa chơn thật của kinh điển sâu xaNhư Lai đã dạy và nhờ đó chúng con thực hành như Pháp. Cúi xin Thế Tôn ngài hãy thọ ký rõ ràng cho các thiện trượng phu và chúng con. Vì con và các ngài đó đủ có năng lực gìn giữ chánh pháp và người thọ trì.

Đức Thế Tôn liền mỉm cười từ miệng toát ra ánh sáng màu vàng ròng soi khắp mười phương các thế giới Phật, và ánh sáng trở về chỗ Phật, xoay quanh Như Lai ba vòng theo chiều mặt xoay lên đến đỉnh đầu thì biến mất.

Tôn giả A Nan thầm nghĩ lúc Thế Tôn cười chắc có việc gì lạ ta nên hỏi ngài gì cớ gì Ngài cười.

Nghĩ vậy xong, ngài đứng dậy sửa sang y phục lại, trịch áo bày vai mặt, gối mật chấm đất chấp tay hướng về Phật dùng kệ thưa: 

Tâm ngài trong sáng hạnh không nhơ 
đại oai đức, thần thông lớn 
Cao cả đáng tôn trọng cõi đời 
Hiển hiện khác gì ánh trăng trong. 
Thánh trí vô ngại, tâm giải thoát 
Tiếng Ca Lăng tối thượng cõi trời 
Tất cả dị luận không xao động 
Nay bỗng mỉm cười do duyên gì? 
Thông đạt chánh chơn vì con nói 
Đấng lưỡng túc đem nhiều lợi ích 
Nên nghe âm thinh vi diệu nầy 
Con sẽ hết lòng vui hớn hở. 
Chẳng lẽ Thế Tôn luống cười khan? 
Khi Phật phóng quang có người lành 
Thưa ai hôm nay được lợi lớn? 
Ai trong phút nầy được chứng chơn? 
Ai hiện giờ đây được quán đảnh? 
Ai phút bây giờ lên ngôi Phật? 
Ai hiện tại đem lợi cho đời? 
Ai sẽ nói hết kho Phật pháp? 
Ai hằng thường trụ trong Phật trí 
đức Thế Tôn hiện duyên cười? 
Phật liền dùng kệ đáp lại:

A Nan! Ông thấy Hiền Hộ không? 
Cùng năm trăm người ông giáo hóa 
Thân tâm vui vẻ lời thành thật 
Bọn họ tương lai được pháp nầy. 
Bọn họ nhứt tâm nhìn ngóng ta 
Bất cứ lúc nào cũng như vậy. 
Đối trước nơi ta phát đại nguyện
Họ sẽ tương lai đạt đạo nầy. 
Lại có tám chúng đứng dậy thưa 
Trong đó năm trăm là thượng thủ 
Họ sẽ ở vào đời pháp hoại 
Vì cả thế gian nói pháp nầy. 
Ta cũng bảo ông biết như vầy
Họ là kẻ có trí vô ngại 
Nào từng chỉ ở đời một Phật 
Đứng dậy chấp tay kính Thế Tôn
Ta quán khi xưa vô lượng đời 
Trải qua tám muôn các đức Phật 
Tám người đã từng đứng dậy thưa 
Lại cũng hộ trì diệu pháp nầy 
Trước đó tám muôn ức do tha 
Cũng gặp vô số Phật như thế 
Tâm được giải thoát, tiếng đồn xa. 
Lúc đó hạng nầy đã thọ trì 
Nay lại ở trong diệu pháp ta 
Làm thượng thủ hạng giữ lợi ích 
Bọn họ sau khi ta diệt độ 
Đem xá lợi ra để cúng dường
Khéo giữ các Phật sự của ta 
Đặt trong rương hộp khắp mười phương 
Xây tháp giữa đồng hay trên núi 
Dặn dò trời rồng và kim điểu: 
Các ông nương tựa kinh pháp nầy 
Mạng dứt sẽ đều lên cõi trời 
Sau đó trở lại chốn nhân gian 
Thường sanh vào nhà họ sang trọng 
Khéo gìn việc Bồ đề của ta 
Lại phát đại nguyện theo bổn tâm, 
Hoặc vì chánh pháp đến nước người 
Để tìm cầu kinh sâu như thế 
Đắc rồi lại truyền trao kẻ khác 
Do tâm vui vẻ không ganh tỵ
Cầu pháp tinh thành không biếng nhát 
Khinh tài nhẹ mạng há yêu thân! 
Hàng phục tất cả ngoại đạo luận 
Hằng đem chánh pháp ban cho họ. 
Lúc đó không ai thọ trì kinh 
Cũng không đọc tụng, dạy kẻ khác. 
Chỉ có năm trăm đấng hiền nầy 
Và tám đại Bồ tát như thế 
Tương lai miền Bắc truyền diệu pháp 
Phổ biến kinh điển rất sâu xa
Như thế tỳ kheoni chúng 
Các cư sĩ nam cư sĩ nữ
Trí khéo, không hiểm, lên pháp sư 
Sẽ thành bậc chánh giác đức lớn. 
Kẻ nầy từ đây đến khi chết 
Không bao giờ sa vào đường ác 
Trong các đời sanh được may mắn 
Gặp gỡ Bồ đề việc hy hữu 
Đã xa lìa hẳn các đường ác 
Lại tránh không gặp các nạn tai 
Công đức khó biết được ngằn mé 
Hưởng phước như thế nhiều vô cùng 
Sẽ gặp được Phật Di Lặc 
Tâm hằng tương xứng với Phật nầy 
Cúng Phật cung kính lợi chúng sanh 
Chỉ vì mong cầu trí Bồ đề 
Vào khoảng mạt thế lúc pháp diệt 
Họ cũng lại thường giữ gìn pháp 
Có thể ở vào khoảng Hiền kiếp 
Làm cho thế gian khắp sáng soi 
Bảo vệ kinh nầy cùng mọi nơi
Trụ chỗ không sợ giữa ba đời 
Tương lai số ức các đức Phật 
Khó thể tính lường và nghĩ suy 
Đều cúng dường hết, rộng tu hành 
Hằng giữ gìn các thắng Phật sự 
Nay đây Hiền Hộ đại Bồ tát 
Và ông Bảo đức, báu trong chúng 
Thương chủ Cấp Đa Dà Ma Da 
Sẽ được gặp Phật nhiều hằng sa 
Nghe và lãnh thọ kinh vô lượng 
Nếu có chúng sanh được nghe tên 
Hoặc lúc tỉnh táo hay ngủ nghỉ 
Hạng nầy được trời người tôn kính 
Nếu có chúng sanh vừa nghe tên 
Liền sanh kính tin và tùy hỷ 
Tất cả thành Phật không nghi ngờ 
Huống gì cúng dường với các Phật 
Họ được thọ ký khó nghĩ lường 
Sống lâu, pháp trụ cũng vô lượng 
Lợi ích rộng lớn không cùng tận 
Công đức trí huệ cũng khó biết. 
A Nan nếu người trì kinh nầy 
Biên chép đọc tụng và ghi nhớ 
Ông nên quyết định sanh kính mến 
Không nên xa họ năm trăm dặm, 
A Nan! Nếu người trình kinh nầy 
Tự siêng năng mong cầu bền vững 
Giữ giới trong sạch, bỏ ngủ nghỉ 
Chắc chắn đắc được diệu tam muội 
Trong luật ta dạy về Mộc Xoa 
Các hạng tỳ kheoLan nhã 
Thường hành đầu đà không xả bỏ 
Đắc được tam muội rất chắc chắn
Tất cả thỉnh riêng đều từ chối 
Dù là vị ngon cũng bỏ qua 
Coi thầy như Phật tâm cung kính 
Ai nói họ không chứng tam muội? 
Trước hết rõ cả tham sân si 
Xả bỏ ngã mạnganh tỵ 
Tình không nhơ bợn niệm vô vi 
Đọc tụng suy gẫm tam muội nầy 
Nếu có Bồ tát còn tại gia 
Tâm hằng bền vững việc xuất gia 
Thọ trì đọc tụng thành nghiệp miệng 
Tâm hằng nhớ học tam muội nầy, 
Luôn giữ gìn năm căn bản giới 
Cũng thường thọ trì bát quan trai 
Hằng xả tài sản cúng chùa tháp 
Đọc tụng quán sát môn tam muội
Không có mê say hàng thê thiếp 
Không đắm nữ sắctài sản
Giữ hạnh cư sĩ hằng hổ thẹn 
Chỉ một lòng nhớ tam muội nầy. 
Không khởi tâm hại các kẻ khác 
Chỉ nghỉ suy bỏ các chơi giỡn 
Không kẹt nơi nào, tâm an nhẫn 
Chỉ nhớ một môn tam muội nầy. 
Chớ nên ôm giữ các tài vật 
Hoa hương phấn thoa và vòng hoa 
Không đắm nơi nào, hằng an nhẫn 
Tam muội như thế luôn giữ gìn
Nếu tỳ kheo ni cầu kinh nầy 
Nên phải quy kính, bỏ ganh tỵ 
Bỏ đùa, cống caongã mạn 
Chứng được bồ đề nào khó gì. 
Nên phải siêng năng trừ mê ngủ 
Tất cả mong cầu đều bỏ lìa 
Tâm mến pháp, nuôi mạng trong sạch 
Chỉ đọc tụng kinh tam muội nầy, 
Hằng không hợp tác với tham dục 
Không nổi sân hận dày vò người 
Không đem dây ma trói chúng sanh 
Chỉ một lòng trì môn tam muội 
Không do nịnh hót mà hành động 
Không ham áo đẹp và hương xoa 
Không nói hai lưỡi chia cách người 
Chỉ biết môn tam muội phải trì. 
Tiếng sắc gái trai nào bợn tâm 
Tịch tịnh hết rối mối nghĩ bậy 
Kính thầy nào khác đức Phật đà 
Và chỉ thọ trì niệm tam muội
Sanh ra xa lìa các đường ác 
Trong biển Phật pháp nào tin suông 
Phá trừ các chướng trong ba cõi 
Mong muốn lãnh thọ tam ma đề.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11618)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11925)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11096)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11331)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 12056)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12546)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10750)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 17965)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11716)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9935)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10161)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12339)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15325)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11225)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14316)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12085)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15324)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 11988)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12387)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11148)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12072)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10596)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12546)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13149)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14780)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12650)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16530)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19627)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13099)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12645)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12239)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11823)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10882)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13478)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11933)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11832)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11620)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12751)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14495)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12587)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15652)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13597)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12878)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9853)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 17997)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11148)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 9059)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12158)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 13031)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10285)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12174)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15286)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16578)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12193)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11455)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14256)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19664)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14136)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24573)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10670)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant