Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

8. Phẩm Thọ Ký

22 Tháng Ba 201100:00(Xem: 9764)
8. Phẩm Thọ Ký

KINH BÁT CHU TAM MUỘI
Ðời Tùy Tam Tạng, Khất Ða và Cấp Ða
Việt dịch: HT Thích Minh Lễ

Quyển Thứ Hai 
Phẩm Thứ Tám - Thọ Ký

Khi ấy Bồ tát Hiền Hộ thưa:

Bạch Thế Tôn! Ngài rất là hy hữu đã vì hàng Bồ tát tại gia, xuất gia đức tin thuần thục hâm mộ diệu pháp dạy cho họ pháp vô thượng, để họ an trụ trong vô lượng pháp hành sau đó họ sẽ được quán sátgiảng giải tam muội nầy.

Bạch Thế Tôn! Sau khi ngài diệt độ môn tam muội nầy còn phổ biến trong cõi Diêm phù đề không?

Phật dạy:

Sau khi ta diệt độ khoảng bốn chục năm kinh tam muội nầy còn phổ biến trong cõi Diêm phù đề. Qua năm trăm năm sau lúc chánh pháp diệt, tỳ kheo tạo điều ác, lúc chánh pháp bị phỉ báng, lúc chánh pháp bị phá hoại, lúc ít người giữ giới hạnh, hạng phá giới tăng trưởng, lúc các nước đánh nhau. Vào khoảng trong vòng trăm năm nầy có chúng sanh nào thiện căn bền vững khi xưa đã từng gần gũi chư Phật cúng dường tu hành gieo hạt giống lành, nhờ vậy hàng trượng phu nầy được kinh điển như thế đem ra lưu hành và do đó kinh được phổ biến trở lại trong thế giới Diêm phù đề. Đây là nhờ oai thần của Phật nên khiến cho họ sau khi ta diệt độ được nghe kinh nầy rồi sanh vui mừng biên chép phổ biến, thọ trì đọc tụng, suy gẫm ý nghĩa, dạy bảo kẻ khác, thực hành như lời dạy.

Khi đó Bồ tát Hiền Hộ và chàng Ly Xa Bảo Đức vừa nghe Như Lai nói chánh pháp diệt thương khóc nước mắt rơi xuống như mưa mới cùng rời chỗ ngồi đứng dậy, sửa sang y phục ngay ngắn trịch áo bày vai mặt, gối mặt quỳ chấm đất cung kính thưa rằng:

Trong vòng trăm năm sau năm trăm năm đức Như Lai nhập Niết Bàn là lúc chánh pháp diệt, lúc các sa môn điên đảo, chánh pháp bị phỉ báng, phá hoại, kẻ giữ giới ít oi phá giới lại tăng, bậc hộ pháp hiếm hoi, kẻ sống phi pháp lại nhiều, chúng sanh chịu ly loạn, các nước đánh nhau, khi ấy chúng con sẽ đọc tụng thọ trì suy gẫm nghĩa lý kinh điển tam muội vi diệu nầy, lại còn đem giảng nói cho kẻ khác nghe. Tại sao chúng con hành động như vậy? Là vì tâm chúng con không nhàm chán, không tri túc đối với kinh điển Như Lai dạy bảo, vì chúng con có khả năng nghe nhận, biên chép phổ biến, đọc tụng thọ trì, suy gẫm nghĩa lý tu hành và giảng nói cho kẻ khác.

Khi ấy có các cư sĩ thuộc giới thương gia tên là Dà Ha Cấp Đa và Na La Đạt Đa Ma Nạp v.v... xót thương chánh pháp diệt nước mặt rơi đầm đìa cũng cùng đứng dậy thưa:

Bạch Thế Tôn! Chúng con nguyện bảo vệ kinh điển Như Lai nói và kẻ thọ trì kinh điển làm cho được tăng trưởng. Chúng con sẽ gìn giữ kinh điển vi diệu do Như Lai dạy được lưu hành phổ biếntồn tại lâu dài trên đời. Do vì kinh điển nầy đã từng trong vô lượng số kiếp đem lại nhiều quả trí giác vô thượng cho chúng sanh.

Bạch Thế Tôn! Chúng con được nghe pháp hy hữu xin nguyện hết lòng thọ trì suy gẫm ý nghĩa, đem dạy lại cho người để pháp được phổ biến.

Bạch Thế Tôn! Với pháp sâu xa tất cả thế gian khó có người tin, con sẽ vì chúng sanh trước tiên gây thiện căn cho họ sau đó sẽ giảng giải ý nghĩa.

Khi đó trong chúng có năm trăm tỳ kheo tỳ kheo ni cư sĩ nam cư sĩ nữ nghe đức Như Lai nói chánh pháp hoại diệt trong thời gian sắp đến lòng cảm thấy đau nhói nước mắt tuôn rơi, đều đứng dậy sửa sang y phục trịch áo bày vai mặt, gối mặt quỳ chấm đất cung kính chấp tay thưa:

Bạch Thế Tôn! Chúng con xin nguyện thọ trì chánh pháp của Như Lai. Còn các bậc đại sĩ thiện trượng phu vào lúc nầy đã làm bậc y chỉ cho chúng con, đã che chở dạy dỗ làm chúng con hiểu được ý nghĩa chơn thật của kinh điển sâu xaNhư Lai đã dạy và nhờ đó chúng con thực hành như Pháp. Cúi xin Thế Tôn ngài hãy thọ ký rõ ràng cho các thiện trượng phu và chúng con. Vì con và các ngài đó đủ có năng lực gìn giữ chánh pháp và người thọ trì.

Đức Thế Tôn liền mỉm cười từ miệng toát ra ánh sáng màu vàng ròng soi khắp mười phương các thế giới Phật, và ánh sáng trở về chỗ Phật, xoay quanh Như Lai ba vòng theo chiều mặt xoay lên đến đỉnh đầu thì biến mất.

Tôn giả A Nan thầm nghĩ lúc Thế Tôn cười chắc có việc gì lạ ta nên hỏi ngài gì cớ gì Ngài cười.

Nghĩ vậy xong, ngài đứng dậy sửa sang y phục lại, trịch áo bày vai mặt, gối mật chấm đất chấp tay hướng về Phật dùng kệ thưa: 

Tâm ngài trong sáng hạnh không nhơ 
đại oai đức, thần thông lớn 
Cao cả đáng tôn trọng cõi đời 
Hiển hiện khác gì ánh trăng trong. 
Thánh trí vô ngại, tâm giải thoát 
Tiếng Ca Lăng tối thượng cõi trời 
Tất cả dị luận không xao động 
Nay bỗng mỉm cười do duyên gì? 
Thông đạt chánh chơn vì con nói 
Đấng lưỡng túc đem nhiều lợi ích 
Nên nghe âm thinh vi diệu nầy 
Con sẽ hết lòng vui hớn hở. 
Chẳng lẽ Thế Tôn luống cười khan? 
Khi Phật phóng quang có người lành 
Thưa ai hôm nay được lợi lớn? 
Ai trong phút nầy được chứng chơn? 
Ai hiện giờ đây được quán đảnh? 
Ai phút bây giờ lên ngôi Phật? 
Ai hiện tại đem lợi cho đời? 
Ai sẽ nói hết kho Phật pháp? 
Ai hằng thường trụ trong Phật trí 
đức Thế Tôn hiện duyên cười? 
Phật liền dùng kệ đáp lại:

A Nan! Ông thấy Hiền Hộ không? 
Cùng năm trăm người ông giáo hóa 
Thân tâm vui vẻ lời thành thật 
Bọn họ tương lai được pháp nầy. 
Bọn họ nhứt tâm nhìn ngóng ta 
Bất cứ lúc nào cũng như vậy. 
Đối trước nơi ta phát đại nguyện
Họ sẽ tương lai đạt đạo nầy. 
Lại có tám chúng đứng dậy thưa 
Trong đó năm trăm là thượng thủ 
Họ sẽ ở vào đời pháp hoại 
Vì cả thế gian nói pháp nầy. 
Ta cũng bảo ông biết như vầy
Họ là kẻ có trí vô ngại 
Nào từng chỉ ở đời một Phật 
Đứng dậy chấp tay kính Thế Tôn
Ta quán khi xưa vô lượng đời 
Trải qua tám muôn các đức Phật 
Tám người đã từng đứng dậy thưa 
Lại cũng hộ trì diệu pháp nầy 
Trước đó tám muôn ức do tha 
Cũng gặp vô số Phật như thế 
Tâm được giải thoát, tiếng đồn xa. 
Lúc đó hạng nầy đã thọ trì 
Nay lại ở trong diệu pháp ta 
Làm thượng thủ hạng giữ lợi ích 
Bọn họ sau khi ta diệt độ 
Đem xá lợi ra để cúng dường
Khéo giữ các Phật sự của ta 
Đặt trong rương hộp khắp mười phương 
Xây tháp giữa đồng hay trên núi 
Dặn dò trời rồng và kim điểu: 
Các ông nương tựa kinh pháp nầy 
Mạng dứt sẽ đều lên cõi trời 
Sau đó trở lại chốn nhân gian 
Thường sanh vào nhà họ sang trọng 
Khéo gìn việc Bồ đề của ta 
Lại phát đại nguyện theo bổn tâm, 
Hoặc vì chánh pháp đến nước người 
Để tìm cầu kinh sâu như thế 
Đắc rồi lại truyền trao kẻ khác 
Do tâm vui vẻ không ganh tỵ
Cầu pháp tinh thành không biếng nhát 
Khinh tài nhẹ mạng há yêu thân! 
Hàng phục tất cả ngoại đạo luận 
Hằng đem chánh pháp ban cho họ. 
Lúc đó không ai thọ trì kinh 
Cũng không đọc tụng, dạy kẻ khác. 
Chỉ có năm trăm đấng hiền nầy 
Và tám đại Bồ tát như thế 
Tương lai miền Bắc truyền diệu pháp 
Phổ biến kinh điển rất sâu xa
Như thế tỳ kheoni chúng 
Các cư sĩ nam cư sĩ nữ
Trí khéo, không hiểm, lên pháp sư 
Sẽ thành bậc chánh giác đức lớn. 
Kẻ nầy từ đây đến khi chết 
Không bao giờ sa vào đường ác 
Trong các đời sanh được may mắn 
Gặp gỡ Bồ đề việc hy hữu 
Đã xa lìa hẳn các đường ác 
Lại tránh không gặp các nạn tai 
Công đức khó biết được ngằn mé 
Hưởng phước như thế nhiều vô cùng 
Sẽ gặp được Phật Di Lặc 
Tâm hằng tương xứng với Phật nầy 
Cúng Phật cung kính lợi chúng sanh 
Chỉ vì mong cầu trí Bồ đề 
Vào khoảng mạt thế lúc pháp diệt 
Họ cũng lại thường giữ gìn pháp 
Có thể ở vào khoảng Hiền kiếp 
Làm cho thế gian khắp sáng soi 
Bảo vệ kinh nầy cùng mọi nơi
Trụ chỗ không sợ giữa ba đời 
Tương lai số ức các đức Phật 
Khó thể tính lường và nghĩ suy 
Đều cúng dường hết, rộng tu hành 
Hằng giữ gìn các thắng Phật sự 
Nay đây Hiền Hộ đại Bồ tát 
Và ông Bảo đức, báu trong chúng 
Thương chủ Cấp Đa Dà Ma Da 
Sẽ được gặp Phật nhiều hằng sa 
Nghe và lãnh thọ kinh vô lượng 
Nếu có chúng sanh được nghe tên 
Hoặc lúc tỉnh táo hay ngủ nghỉ 
Hạng nầy được trời người tôn kính 
Nếu có chúng sanh vừa nghe tên 
Liền sanh kính tin và tùy hỷ 
Tất cả thành Phật không nghi ngờ 
Huống gì cúng dường với các Phật 
Họ được thọ ký khó nghĩ lường 
Sống lâu, pháp trụ cũng vô lượng 
Lợi ích rộng lớn không cùng tận 
Công đức trí huệ cũng khó biết. 
A Nan nếu người trì kinh nầy 
Biên chép đọc tụng và ghi nhớ 
Ông nên quyết định sanh kính mến 
Không nên xa họ năm trăm dặm, 
A Nan! Nếu người trình kinh nầy 
Tự siêng năng mong cầu bền vững 
Giữ giới trong sạch, bỏ ngủ nghỉ 
Chắc chắn đắc được diệu tam muội 
Trong luật ta dạy về Mộc Xoa 
Các hạng tỳ kheoLan nhã 
Thường hành đầu đà không xả bỏ 
Đắc được tam muội rất chắc chắn
Tất cả thỉnh riêng đều từ chối 
Dù là vị ngon cũng bỏ qua 
Coi thầy như Phật tâm cung kính 
Ai nói họ không chứng tam muội? 
Trước hết rõ cả tham sân si 
Xả bỏ ngã mạnganh tỵ 
Tình không nhơ bợn niệm vô vi 
Đọc tụng suy gẫm tam muội nầy 
Nếu có Bồ tát còn tại gia 
Tâm hằng bền vững việc xuất gia 
Thọ trì đọc tụng thành nghiệp miệng 
Tâm hằng nhớ học tam muội nầy, 
Luôn giữ gìn năm căn bản giới 
Cũng thường thọ trì bát quan trai 
Hằng xả tài sản cúng chùa tháp 
Đọc tụng quán sát môn tam muội
Không có mê say hàng thê thiếp 
Không đắm nữ sắctài sản
Giữ hạnh cư sĩ hằng hổ thẹn 
Chỉ một lòng nhớ tam muội nầy. 
Không khởi tâm hại các kẻ khác 
Chỉ nghỉ suy bỏ các chơi giỡn 
Không kẹt nơi nào, tâm an nhẫn 
Chỉ nhớ một môn tam muội nầy. 
Chớ nên ôm giữ các tài vật 
Hoa hương phấn thoa và vòng hoa 
Không đắm nơi nào, hằng an nhẫn 
Tam muội như thế luôn giữ gìn
Nếu tỳ kheo ni cầu kinh nầy 
Nên phải quy kính, bỏ ganh tỵ 
Bỏ đùa, cống caongã mạn 
Chứng được bồ đề nào khó gì. 
Nên phải siêng năng trừ mê ngủ 
Tất cả mong cầu đều bỏ lìa 
Tâm mến pháp, nuôi mạng trong sạch 
Chỉ đọc tụng kinh tam muội nầy, 
Hằng không hợp tác với tham dục 
Không nổi sân hận dày vò người 
Không đem dây ma trói chúng sanh 
Chỉ một lòng trì môn tam muội 
Không do nịnh hót mà hành động 
Không ham áo đẹp và hương xoa 
Không nói hai lưỡi chia cách người 
Chỉ biết môn tam muội phải trì. 
Tiếng sắc gái trai nào bợn tâm 
Tịch tịnh hết rối mối nghĩ bậy 
Kính thầy nào khác đức Phật đà 
Và chỉ thọ trì niệm tam muội
Sanh ra xa lìa các đường ác 
Trong biển Phật pháp nào tin suông 
Phá trừ các chướng trong ba cõi 
Mong muốn lãnh thọ tam ma đề.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12502)
Ấn là chiếc ấn hay khuôn dấu. Pháp có nghĩa là chánh pháp hay toàn bộ hệ thống tư tưởng trong lời dạy của Đức Phật được ghi lại trong ba tạng thánh điển. Pháp ấn có nghĩa là khuôn dấu của chánh pháp
(Xem: 10384)
Đây là Kinh thứ 16 của Nghĩa Túc Kinh và cũng có chủ đề “Mâu Ni”: Một vị mâu ni thấy như thế nào và hành xử như thế nào khi đứng trước tình trạng bạo động và sợ hãi?
(Xem: 12347)
Các nhà học giả Tây phương cũng như Đông phương đều công nhận hệ thống Bát-nhã là cổng chính yếu dẫn vào Đại thừa.
(Xem: 11651)
Mỗi khi nói về vấn đề niềm tin trong đạo Phật, chúng ta thường hay dẫn chứng những lời Phật dạy trong kinh Kalama.
(Xem: 28812)
Kinh Quán Thế Âm bồ tát cứu khổ nằm trong Vạn tự chánh tục tạng kinh, ta quen gọi là tạng chữ Vạn, quyển1, số 34. Kinh này là một trong những kinh Ấn Độ soạn thuật, thuộc Phương đẳng bộ.
(Xem: 12055)
Trong Kinh Kim Cang có câu, “Nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai.” Nghĩa là, nếu thấy các tướng đều xa lìa tướng, tức là thấy Phật.
(Xem: 13013)
Kinh Kim Cương (hay Kim Cang), tên đầy đủ là Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Đa (Vajracchedika-prajñaparamita), là một trong những bài kinh quan trọng nhất của Phật giáo Đại Thừa
(Xem: 11447)
Trong sách Nhật Tụng Thiền Môn, chúng ta có Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 12383)
Kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật là một bộ kinh hoằng dương rất thịnh, phổ biến rất rộng trong các kinh điển đại thừa.
(Xem: 17449)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 53069)
Phương pháp sám hối Từ bi đạo tràng Mục Liên Sám Pháp - Nghi Thức Tụng Niệm
(Xem: 35493)
Từ bi Đạo Tràng, bốn chữ ấy là danh hiệu của pháp sám hối nầy... Thích Viên Giác dịch
(Xem: 21403)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 10679)
Năm 1984 khi bắt đầu lạy kinh Ngũ Bách Danh bằng âm Hán Việt thuở ấy, tôi không để ý mấy về ngữ nghĩa. Vì lúc đó lạy chỉ để lạy theo lời nguyện của mình.
(Xem: 19242)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 12409)
Một trong những bộ kinh quan trọng nhất của hệ tư tưởng Phật giáo Bắc truyền, không những có ảnh hưởng to lớn đối với tín đồ Phật giáo mà còn lôi cuốn được sự quan tâm của giới nghiên cứu, học giả Đông Tây, là Kinh Diệu Pháp Liên Hoa.
(Xem: 26048)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 13322)
Tác phẩm này có thể là hành trang cần thiết cho những ai muốn thực hành Bồ Tát giới theo đúng lời Phật dạy. Vì vậy, tôi trân trọng giới thiệu đến Tăng, Ni, Phật tử.
(Xem: 14384)
Nguyên tác Phạn ngữ Abhidharmakośa của Thế Thân, Bản dịch Hán A-tỳ-đạt-ma-câu-xá luận của Huyền Trang - Việt dịch: Đạo Sinh
(Xem: 16092)
Vào khoảng thời gian Phật ngự tại nước Tỳ Xá Ly, gần đến giờ thọ trai Ngài mới vào thành khất thực. Bấy giờ trong thành Tỳ Xá Ly có một chàng ly xa tên là Tỳ La Tứ Na (Dõng Quân).
(Xem: 13730)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp, Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ, Ngã kim kiến văn đắc thọ trì, Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa.
(Xem: 16850)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ Ngã kim kiến văn đắc thọ trì Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa
(Xem: 17588)
Vào khoảng 150 năm sau khi Bụt nhập Niết bàn, đạo Bụt chia thành nhiều bộ phái, kéo dài mấy trăm năm. Thời kỳ này gọi là thời kỳ Đạo Bụt Bộ Phái.
(Xem: 13134)
Nói đến kinh Pháp Hoa, các vị danh Tăng đều hết lòng ca ngợi. Riêng tôi, từ sơ phát tâm đã có nhân duyên đặc biệt đối với bộ kinh này.
(Xem: 12539)
A-hàm có thể đẩy tan những dục vọng phiền não đang thiêu đốt chúng ta và nuôi lớn giới thân tuệ mạng thánh hiền của chúng ta...
(Xem: 11613)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni sanh ở Ấn Độ, nên thuyết pháp đều dùng Phạn ngữ, Kinh điển do người sau kiết tập cũng bằng Phạn văn. Những bổn Kinh Phật bằng Trung văn đều từ Phạn văn mà dịch lại.
(Xem: 11619)
Có rất nhiều công trình thâm cứu có tính cách học giả về tác phẩm nầy dưới dạng Anh ngữ, Nhật ngữ và Hoa ngữ liên quan đến đời sống, khái niệm nồng cốt của tư tưởng Trí Khải Đại Sư trong mối tương quan với Phật giáo Trung Quán
(Xem: 14513)
Luật học hay giới luật học là môn học thuộc về hành môn, nhằm nghiên cứuthực hành về giới luật do đức Phật chế định cho các đệ tử
(Xem: 20488)
Quyển sách “Giáo Trình Phật Học” quý độc giả đang cầm trên tay là được biên dịch ra tiếng Việt từ quyển “Buddhism Course” của tác giả Chan Khoon San.
(Xem: 18996)
Tam Tạng Thánh Điển là bộ sưu tập Văn Chương Pali lớn trong đó tàng chứa toàn bộ Giáo Pháp của Đức Phật Gotama đã tuyên thuyết trong suốt bốn mươi lăm năm từ lúc ngài Giác Ngộ đến khi nhập Niết Bàn.
(Xem: 19580)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18661)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 12189)
Kinh này dịch từ kinh Pháp Ấn của tạng Hán (kinh 104 của tạng kinh Đại Chính) do thầy Thi Hộ dịch vào đầu thế kỷ thứ mười.
(Xem: 12322)
Đại Chánh Tân Tu số 0158 - 8 Quyển: Hán dịch: Mất tên người dịch - Phụ vào dịch phẩm đời Tần; Việt dịch: Linh-Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
(Xem: 13866)
Là Bộ Luật trong hệ thống Luật-Tạng do Bộ Phái Nhất Thiết Hữu thuộc hệ Thượng Tọa Bộ Ấn Độ kiết tập...Đại Tạng No. 1451
(Xem: 15032)
“Triệu Luận” là một bộ luận Phật Giáo do Tăng Triệu, vị học giả Bát nhã học, bậc cao tăng nổi tiếng đời Hậu Tần Trung Quốc, chủ yếu xiển thuật giáo nghĩa Bát nhã Phật Giáo.
(Xem: 15038)
Bộ chú giải này là một trong năm bộ luận giải thích về luật trong Luật bộ thuộc Hán dịch Bắc truyền Đại tạng kinh lưu hành tại Trung quốc và được đưa vào Đại chính tân tu Đại tạng kinh N.1462, tập 24 do Nhật bản biên tập.
(Xem: 13996)
Dịch theo bản in lần thứ nhất của Hoa Tạng Phật Giáo Đồ Thư Quán, Đài Bắc, tháng 2, năm Dân Quốc 81 - 1992
(Xem: 15527)
Hữu Bộ là một trường phái Phật Giáo quan trọng. Nếu không kể Thượng Toạ Bộ (Theravada, Sthaviravada) thì Hữu Bộbộ phái Phật Giáo duy nhất có được một hệ thống giáo lý gần như nguyên thuỷ...
(Xem: 11405)
Tôi nghe như vầy vào khoảng thời gian đức Phật ngự tại tinh xá Kỳ Hoàn thuộc nước Xá Vệ có ngàn vị tỳ theo tăng và mười ngàn đại Bồ tát theo nghe pháp.
(Xem: 17199)
Biện chứng Phá mê Trừ khổ - Prajnaparamita Hrdaya Sutra (Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm kinh); Thi Vũ dịch và chú giải
(Xem: 14983)
Là 2 bản Kinh: Kinh Phật Thuyết A Di Đà No. 366 và Kinh Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ No. 367
(Xem: 20210)
Bát-nhã tâm kinh (prajñāpāramitāhṛdayasūtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát-nhã ba-la-mật (prajñā-pāramitā). Trong bản Hán dịch của Huyền Trang, kinh gồm 262 chữ.
(Xem: 14627)
Như thật tôi nghe một thuở nọ Phật cùng các Tỳ kheo vân tập tại vườn cây của Trưởng giả Cấp cô ĐộcThái tử Kỳ Đà ở nước Xá Vệ.
(Xem: 13847)
Kinh này dịch từ kinh số 301 trong bộ Tạp A Hàm của tạng Hán. Tạp A Hàm là kinh số 99 của tạng kinh Đại Chính.
(Xem: 11712)
Đây là những điều tôi đã được nghe: Hồi ấy, có những vị thượng tọa khất sĩ cùng cư trú tại vườn Lộc Uyển ở Isipatana thành Vārānasi. Đức Thế tôn vừa mới nhập diệt không lâu.
(Xem: 15066)
Kinh Mục Kiền Liên hỏi năm trăm tội khinh trọng trong Giới Luật; Mất tên người dịch sang Hán văn, Thích Nguyên Lộc dịch Việt
(Xem: 13000)
Hán dịch: Hậu Hán, Tam tạng An Thế Cao người nước An Tức; Việt dịch: Tì-kheo Thích Nguyên Chơn.
(Xem: 22888)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434;, dịch Phạn sang Hán: Nguyên Ngụy Thiên Trúc Tam Tạng Cát-ca-dạ; Dịch Hán sang Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ...
(Xem: 14561)
Người giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không. Giảng tại: Tịnh Tông Học Hội Singapore. Người dịch: Vọng Tây cư sĩ. Biên tập: Phật tử Diệu Hương, Phật tử Diệu Hiền
(Xem: 11661)
Kinh này là kinh thứ mười trong Nghĩa Túc Kinh, nhưng lại là kinh thứ mười một trong Atthaka Vagga, kinh tương đương trong tạng Pali.
(Xem: 13174)
Có thể xem đây là "tập sách đầu giường" hay "đôi tay tỳ-kheo"; rất cần thiết cho mỗi vị Tỳ-kheo mang theo bên mình để mỗi ngày mở ra học tụng cho nhuần luật nghi căn bản.
(Xem: 16890)
Không Sát Sanh là giới thứ nhất trong Ngũ Giới. Chúng ta đang sống trong một thế giới bất toàn, mạnh hiếp yếu, lớn hiếp nhỏ, giết chóc tràn lan khắp nơi.
(Xem: 18351)
Kể từ khi đạo Phật truyền vào nước ta, hàng Phật tử tại gia trong bất cứ thời đại nào và hoàn cảnh nào cũng đã có những đóng góp thiết thực trong sứ mạng hộ trìhoằng dương chánh pháp.
(Xem: 11948)
Tạng Luật (Vinayapiṭaka) thuộc về Tam Tạng (Tipiṭaka) là những lời dạy và quy định của đức Phật về các vấn đềliên quan đến cuộc sống...
(Xem: 11506)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, Trưởng lão Māhakassapa (Ma-ha Ca-diếp) triệu tập 500 vị Tỳ-khưu A-la-hán để trùng tụng Pháp và Luật.
(Xem: 15858)
Bồ Tát Long Thọ - Cưu Ma La Thập Hán dịch; Chân Hiền Tâm Việt dịch & Giải thích; Xuất Bản 2007
(Xem: 12892)
Ngài Long Thọ, tác giả Trung Quán Luận và những kinh sách khác, được chư thiền đức xưng tán là Đệ nhị Thích Ca, đã vạch ra thời kỳ chuyển pháp lần thứ hai.
(Xem: 18922)
Vị Tăng, lấy Phật làm tính, lấy Như-Lai làm nhà, lấy Pháp làm thân, lấy Tuệ làm mệnh, lấy Thiền-duyệt làm thức ăn.
(Xem: 18429)
Trong Vi Diệu Pháp cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant