Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Tôn giả Xá Lợi Phất

22 Tháng Ba 201100:00(Xem: 9172)
Tôn giả Xá Lợi Phất

GIẢNG GIẢI KINH DUY MA CẬT
Tác giả Lê Sỹ Minh Tùng

Chương Thứ Ba
Phẩm Đệ Tử
(The Disciples’ Reluctance to Visit Vimalakirti)
Hàng Thanh Văn


Tôn giả Xá Lợi Phất (Phạn ngữ: Sariputra): 
Vấn Đề Thiền.

Bấy giờ trưởng giả Duy Ma Cật tự nghĩ: nay mình nhuốm bệnh nằm một mình một giường và một thất, Đức Thế Tôn là bậc đại từ, lẽ đâu không đoái lòng thương xót. Phật biết thâm ý liền bảo ông Xá Lợi Phất rằng:

Xá Lợi Phất! Ông đi đến thăm bệnh ông Duy Ma Cật.

Xá Lợi Phất bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Con xin Thế Tôn thương cho. Con không kham lãnh trách nhiệm đến thăm bệnh ông ấy.

- Bạch Thế Tôn! Vì trước đây có một hôm con đang ở trong rừng ngồi thiền dưới một cội cây. Tình cờ ông Duy Ma Cật đến nói với con rằng:

Thưa Ngài Xá Lợi Phất! Ngài bất tất phải ngồi như thế mới là ngồi thiền! Vả chăng ngồi yên ở trong tam giới mà không hiện thân ý mới là ngồi thiền. Sinh hoạt trong oai nghi như hằng ngày mà không rời diệt tận định mới là ngồi thiền. Làm mọi việc như kẻ phàm phu mà không xao lãng đạo pháp mới là ngồi thiền. Tâm không cột vào trong mà cũng không tản mạn ra ngoài mới là ngồi thiền. Trước bao nhiêu tà kiến, bao nhiêu dị thuyết, bao nhiêu chuyện mê tín, hoang đườngtâm không lay động, không bị mê hoặc, cám dỗ, xiêu lòng, vững tâm trong 37 phần trợ đạo thế mới là ngồi thiền. Không khởi tâm đoạn trừ phiền nãovẫn có Niết bàn thế mới là ngồi thiền.

Ngồi được như thế thì đó là thứ thiền được Phật ngợi khenấn khả, thưa Ngài Xá Lợi Phất.

Xá Lợi Phất là một trong mười vị đại đệ tử của Phật. Ngài là người thông minh trí tuệ từ khi còn bé cho nên sau khi quy y theo Phật, Ngài nổi danh là đệ nhất trí tuệ trong hàng Thanh Văn. Đối với Phật giáo thì thiền là phương thức căn bản để định tâm. Chính ngày xưa Đức Phật đã ngồi thiền suốt 49 ngày đêm dưới cội Bồ-đề mới trở thành vô thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Tu mà không thiền cũng như ăn cơm mà không có muối. Dù có được ăn, nhưng càng ngày thân thể càng èo uột, dễ chết. Vì thế sau ngày Đức Phật nhập diệt thì các đệ tử vẫn tiếp tục duy trì truyền thống ngồi thiền để đạt được tâm thanh tịnh. Do đó khi ông Duy Ma Cật nói :”Bất tất phải ngồi thiền như thế mới là ngồi thiền” có mâu thuẩn giáo lý của Phật không? Tuy ngài Xá Lợi Phất là bậc thông minh xuất chúng, đệ nhất trí tuệ, nhưng vẫn thuộc hàng Thanh Văn. Đó là các ngài chỉ mới phá được chấp ngã tức là phá được cái Ta và những Tham-Sân-Si để tạo tác cho cái Ta mà chưa phá được chấp pháp tức là còn thấy có pháp để tu, có quả vị để chứng và chấp phải ngồi thiền thì tâm mới an, mới chứng quả A La hán. Lối nhìn của ông Xá Lợi Phất là đứng về Sự Tướng Tương Đối của thế gian còn tư tưởng của ông Duy Ma Cật là đứng về Chân Lý Thể Tánh Tuyệt Đối mà hành. Vì thế không có sự mâu thuẩn giữa tôn giả Xá Lợi Phấttrưởng giả Duy Ma Cậtdĩ nhiên cũng không có sự mâu thuẩn giữa hai lối tu thiền mà chỉ có sự khác nhau về tư tưởngthực hành giữa Sự và Lý hay Tướng và Tánh mà thôi. Ông Xá Lợi Phất thì chấp vào Tướng nên cứ phải ngồi yên lặng không nói năng mới là thiền còn ông Duy Ma Cật thì nhìn vào Bản Thể Chân Như bên trong nên đối với ông thì đi, đứng, nằm, ngồi đều là thiền, lúc nào cũng thiền, ở nhà cũng thiền, ở chợ cũng thiền ngay cả trong lúc ăn cơm, mặc áo, nói chuyện cũng thiền. Khi con người làm chủ được tâm của mình, giữ tâm an nhiên tự tại, không chạy theo vọng thức bằng cách sống trong Chánh Niệm, xa lìa sự quyến rủ của lục trần để kiềm chế Tham-Sân-Si làm cho Thân-Khẩu-Ý được thanh tịnh thì mới là tu thiền. Vậy đi, đứng, nằm đều là tu thiền chứ không nhất thiết chỉ có ngồi. Ngày xưa chính Lục Tổ Huệ Năng cũng nói rằng nếu có nhập thiền và có xuất thiền thì tâm chưa phải là đại định. Đối với tư tưởng Duy Ma Cật thì tất cả mọi sinh hoạt hằng ngày đều là thiền. Tu thiền là tu trong mọi sinh hoạt của cuộc sống cho nên khi gặp thuận cảnh thì lòng không tham đắm và lúc đối diện với nghịch cảnh thì tâm không dao động, sợ hãi, đau khổ hay chán chường. Vì thế không nhất định chỉ có buổi sáng hay ban đêm mới thiền mà trong 24 tiếng đồng hồ mỗi khi lục căn tiếp xúc với lục trần mà không cho vô minh vọng chấp dấy khởi làm Tham-Sân-Si không có cơ hội phát tác khiến tâm được thanh tịnh thì mới là thiền.

Bồ-tát Văn Thù Sư Lợi tay cầm lưỡi gươm đang bốc lửa chính là lưỡi gươm vàng trí tuệ để chặt đứt những xiềng xích bó buộc của vô minh phiền não. Vì tầm quan trọng đó mà chính Đức Phật cũng dạy rằng:

- Thanh kiếm trí tuệ không bao giờ rời tay, đó mới là chiến sĩ. Một chiến sĩ vào trận mà bỏ kiếm, đi tay không thì sẽ bị giặc (phiền não) bắt ngay.

Không riêng gì Bồ-tát Văn Thù Sư Lợi cầm trên tay thanh gươm trí tuệ mà tất cả chúng ta nếu muốn diệt vô minh vọng chấp thì cũng phải trang bị cho mình thanh gươm quý báu nầy. Nếu có người làm ta bất bình nổi nóng mà chúng ta vẫn trầm tỉnh an vui là trên tay còn thanh kiếm báu. Nếu đối diện với cuộc sống mà còn buồn phiền, lo lắng, đau khổ, tật đố là thanh kiếm trí tuệ bị bỏ rơi xuống đất rồi. Còn thản nhiên bình tĩnh thì tay vẫn còn cầm thanh kiếm. Vì thế thiền là giữ đừng cho tâm chạy tán loạn mà sanh ra vọng tưởng. Đa số con người có bệnh “lo ra”. Ngồi ở đây mà cứ lo nghĩ chuyện ở bên Tàu, bên Tây. Do đó muốn tâm được tự tại thì tới giờ ăn thì chỉ lo ăn chớ đừng tính toán việc sinh kế nầy nọ. Khi đi ngủ thì cứ đi ngủ, đừng có nghĩ chuyện lời lỗ, hơn thua. Tập được như vậy là chúng ta tập làm chủ tâm mình. Đây chính là yếu tố chính để chúng ta thành công trong mọi lãnh vực.

Việt Nam Trần Thánh Tông là vua thứ hai của nhà Trần vì nghe danh Trần Quốc Tảng là bậc đại sĩ nên nhà vua tôn ông làm sư huynh và tặng hiệu là Tuệ Trung Thượng Sĩ. Thượng Sĩ là con đầu của Trần Liễu và là anh cả của Hoàng Thái Hậu. Trần Cảnh là em của Trần Liễu sau lấy vua Lý Chiêu Hoàng lúc mới tám tuổi, được vợ nhường ngôi trở thành Trần Thái Tông. Khi Lý Chiêu Hoàng được 19 tuổi mà không con nên Trần Cảnh lấy vợ của Trần Liễu là Thuận Thiên tức là chị dâu lúc đó đang mang thai và phong làm Hoàng hậu làm cho Trần Liễu phẩn uất nổi loạn. Thượng Sĩ là thầy của Thái tử Trần Khâm tức vua Trần Nhân Tông. Sau khi thắng quân Mông Cổ, vua Trần Nhân Tông lên núi Yên Tử xuất gia và lập ra phái Trúc Lâm. Tuy là một cư sĩ nhưng ông rất tinh thông giáo pháptu hành đến chỗ vô phân biệt. Một hôm, Thái tử Trần Khâm hỏi Tuệ Trung Thượng Sĩ:

- Bạch Thượng Sĩ! Thế nào là chủ yếu của người tu thiền?

Thượng Sĩ đọc một câu thơ:

- Phản quan tự kỷ bổn phận sự, bất tùng tha đắc.

Câu nầy có nghĩa là người tu thiền phải biết quay lại soi sáng mình thì đó là phận sự chính chớ không phải từ ngoài mà được.

Ngồi yên ở trong tam giới mà không hiện thân ý mới là ngồi thiền.

Người ngồi thiền thì yên lặng, chăm chú quán hơi thở nên miệng không nói vì thế trong bộ ba Thân-Khẩu-Ý thì khẩu đã tịnh nên chỉ cần giữ thêm thân và ý. Không hiện thân ý là đừng quan tâm, chú ý tới thân và ý mà hảy quên mình sống vì người để đạt đến trạng thái vô ngã. Luôn sống với Chánh Niệm và khi làm việc gì thì chủ tâm để ý đến việc ấy chớ đừng để tâm chạy tới chạy lui làm vọng thức mê lầm có cơ hội phát sinh. Nếu chúng ta đọc sách thì chỉ nên để tâm vào cuốn sách, nếu đang lái xe thì đừng quan tâm đến chuyện ở nhà và nếu nấu cơm mà để tâm lo trả lời điện thoại thì ăn cơm cháy là chắc. Bây giờ ngồi yên trong tam giới mà không hiện thân ý có nghĩa là con người tuy sống trong tam giới mà tâm và ý không chạy theo tam giới tức là không tạo nghiệp, không dính mắc trong ba cõi để khỏi phải chịu sinh tử luân hồi. Thân và tâm không động thì đó mới thật là ngồi yên.

Diệt Tận ĐịnhPhạn ngữ là Nirodha Samapatti là phương pháp tu Định để diệt hết hai uẩn Thọ và Tưởng nên thân tâm không còn cảm xúctư tưởng. Vì thế khi các vị A La Hán nhập Diệt Tận Định thì tuy thân còn chút hơi ấm mà không còn hơi thở và họ ngồi lặng lẽ như chết. Vào thời Đức Phật, một hôm vào mùa hè oi bức Đức Phật đang tọa thiền trong lều của những người làm ruộng. Khi ấy có cơn mưa giông rất lớn tạo ra sấm sét đánh chết người và trâu nhưng Ngài không hề hay biết. Khi Đức Phật xả thiền thì thấy mọi người xôn xao mổ trâu để làm thịt. Đức Phật mới hỏi lý do thì họ hỏi Ngài:

- Lúc nãy mưa to, sét đánh chết người chết trâu. Khi ấy, Ngài ngồi ở đâu?

Đức Phật trả lời:

Như Lai ngồi trong lều cỏ nầy.

- Ngài ngủ hay thức?

Như Lai không ngủ.

- Không ngủ sao Ngài không nghe.

Thì ra lúc đó Ngài đang nhập định (Diệt Tận Định) nên quên hết mọi chuyện bên ngoài.

Do đó khi đứng dậy hay đi đứng thì phải xả Diệt Tận Định, nhưng ở đây ông Duy Ma Cật muốn phá cái chấp ngồi yên mới là thiền nên cho dù không cần xả Diệt Tận Định mà tất cả mọi hành động như đi, đứng, nằm, ngồi thì mọi cảm xúctư tưởng vẫn như như bất động, không còn khởi vọng. Con người làm chủ thân tâm chứ không chạy theo trần cảnh bên ngoài. Đừng chấp có Định phải chứng và cũng đừng chấp có Thọ, Tưởng phải diệt mà cứ an vui tự tại trong mọi sinh hoạt hàng ngày miễn sao tâm đừng ô nhiễm thì đây chính là Như Lai thiền vậy. Như Lai thiền thì không nhất thiết phải ngồi mới có thiền mà tất cả mọi hoạt động như đi, đứng, nằm, ngồi đều là thiền cả.

Trong thế gian việc làm của kẻ phàm phu là họ làm bất cứ việc gì cũng đều có tính toán lời lỗ trong đó. Buôn bán thì muốn buôn may bán đắc để được giàu. Làm công sở thì muốn được thăng quan tiến chức…nhưng ông Duy Ma Cật nói rằng làm mọi việc như kẻ phàm phu mà không xao lãng đạo phápcon người có thể làm bất cứ việc gì mà lúc nào cũng giữ Chánh niệm, không để tâm chạy theo trần cảnh mà bị ô nhiễm. Thí dụ như khi đi làm công sở thì cứ tận tâm làm việc, hoàn thành công việc thật hoàn mãn mà đừng đặt nhiều tham vọng vào việc thăng quan tiến chức thì thân tâm sẽ an vui tự tại. Việc đến sẽ đến nếu ta xứng đáng thì có ngày sẽ được thăng quan. Không hại người để lợi cho mình, giàu mà không tham và nghèo mà không than khổ là sống theo đạo pháp vậy. Vì thế một lần nữa con người có thể làm bất cứ việc gì mà đừng để tâm một nơi khác, không tham đắm ngũ dục lạc thì đây mới gọi là ngồi thiền.

Tâm không cột vào trong mà cũng không tản mạn ra ngoài mới là ngồi thiền.

Thông thường con người có hai trạng thái. Một là tâm ở trong, hai là thấy tâm chạy ra ngoài. Tâm mà thấy còn trụ ở chỗ nầy hay chỗ kia thì không phải là tâm thật. Còn tâm thật thì nó phải trùm hết chứ không phải chỉ có ở trong hay ở ngoài. Vì thế nếu tâm không cột vào trong mà cũng không tản mạn ra ngoài chính là sống với chơn tâm, với Phật tính, với tự tánh thanh tịnh của mình. Đây mới chính là ngồi thiền vậy. Cũng như trong kinh Lăng Nghiêm, khi nói về Chơn Tâm, Phật gạn hỏi ông A Nan bảy lần về nơi thường trụ của tâm. Tôn giả A Nan nói tâm ở trong, tâm ở ngoài, tâm ở chính giữa, tâm núp trong con mắt, tâm là sự suy nghĩ, ngay cả tâm là cái không dính mắc…thì Phật bảo rằng ông nói sai. Con người vì có bệnh chấp nên nói tâm phải thường trụ một chỗ nào nhất định nên đây không phải là tâm thật. Khi bệnh chấp đã hết thì không còn thấy tâm trụ ở một chỗ nào mà nó bao trùm tất cả thì đây mới là chơn tâm. Vì chơn tâm là vô hình vô tướng, bao trùm, lan tỏa khắp mọi nơi thì làm sao thấy biết được mà nói là ở chỗ nầy hay chỗ kia.

Trước bao nhiêu tà kiến, bao nhiêu dị thuyết, bao nhiêu chuyện mê tín, hoang đườngtâm không lay động, không bị mê hoặc, cám dỗ, xiêu lòng, vững tâm trong 37 phần trợ đạo thế mới là ngồi thiền. Không khởi tâm đoạn trừ phiền nãovẫn có Niết bàn thế mới là ngồi thiền.

Đối với hàng Thanh Văn thì Tứ Diệu Đế là chiếc thuyền vững chắc đưa họ từ bờ mê sang bến giác. Muốn đạt đến Thánh đạo hàng Thanh Văn phải loại bỏ cho hết tà kiến, xóa tan những dị thuyết mê tín dị đoan, tu theo 37 phần trợ đạo để tâm được thanh tịnhchứng quả Niết bàn. Các vị A La Hán còn thấy có phiền não khổ đau nên mới cầu chứng đắc Niết bàn vì họ còn tâm phân biệt phiền nãoNiết bàn là hai. Bây giờ ông Duy Ma Cật dùng Chân Lý Bất Nhị để giúp họ quay về sống với Lý Tánh Tuyệt Đối của nhân sinh vũ trụ mà thấy rằng phiền não tức Bồ-đề và sinh tử tức Niết bàn. Dựa theo Chân Lý nầy thì người tu thiền không cần lìa bỏ thế gian mà vẫn được giải thoát giác ngộ bởi vì đạo và đời vốn không hai tức là bất nhị. Không một ai sống trong thế gian nầy ngay cả Đức Phật có thể tách rời đạo và đời được. Một chén cơm chúng ta ăn, bộ quần áo chúng ta mặc, chiếc xe chúng ta lái, cái nhà chúng ta ở là từ xã hội mà có. Ngay cả những nhà tu khổ hạnh lên tận núi tuyết sơn nếu họ không có người cung cấp thực phẩm, dụng cụ thì làm sao sống nổi để tu. Do đó chân lý bất nhị của ông Duy Ma Cật là đạo và đời tuy hai nhưng mà một, bất khả phân ly. Cái nầy tương trợ cho cái kia, trong hai thiếu một thì cuộc sống thiếu thăng bằng. Vì thế Phật mới dạy rằng:”Vì có phiền não nên có Bồ-đề, có sanh tử mới có Niết Bàn, có luân hồi mới có giải thoát, có chúng sinh mới có Phật”. Một khi chúng sinh không còn chấp có phiền não phải diệt, Niết bàn phải chứng mà cứ tự tại tu hành thì tâm địnhtrí tuệ sẽ sáng soi. Lúc ấy phiền não tự diệt và Niết bàn tự hiện bày.

Vì thế thiền định là quay vào bên trong để nghe rõ tiếng nói của Tâm tức là phản quan tự kỷ. Mà con người chỉ có thể nghe được những âm thanh huyền diệu nầy khi thân và tâm đã hoàn toàn thanh tịnh, trí tuệ sáng suốt không còn Tham-Sân-Si quấy phá. Tâm định thì trí tuệ Bát nhã sẽ phát sinh và lúc đó con người sẽ thấy mình và chúng sinh không còn sự khác biệt nữa. Mình và chúng sinh bây giờ cùng một Thể tức là một thì mới có thể vào thế gian để cứu đời, độ đời, thực hành Bồ-tát đạo sống đời vị tha vô ngã.

Bạch Thế Tôn! Ông Xá Lợi Phất thưa. Sau khi con nghe những lời như thế, con lặng người ra gần như sảng sốt, chẳng trả lời được với ông Duy Ma Cật câu nào. Vì vậy con không dám lãnh trách nhiệm đi thăm bệnh.

Tôn giả Xá Lợi Phất tu theo Sự Tướng Tương Đối nên bị cư sĩ Duy Ma Cật đem Lý Tánh Bản Thể Tuyệt Đối ra chất vấn nên không trả lời được. Mặc dù ông Xá Lợi Phấttrí tuệ đệ nhất của hàng Thanh Văn cũng không thể nào sánh bằng trí tuệ của Bồ-tát được. Hàng Thanh Văn tuy đã phá được chấp ngã nhưng họ vẫn còn kẹt trong vòng tương đối của chấp pháp. Đó là còn chấp có phiền não phải diệt, có Niết bàn phải chứng, có pháp môn để tu…nên chưa đạt đến Lý Tánh Tuyệt Đối tức là không còn chấp Có, chấp Không, tuy hai nhưng mà một, là bản Thể Chân Như, là tự tánh thanh tịnh muôn đời.

Vì những lý do nầy mà tôn giả Xá Lợi Phất không dám lãnh trách nhiệm đi thăm bệnh cư sĩ Duy Ma Cật.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 33149)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(Xem: 6529)
Phật Đà Thập Đại Đệ Tử Tán - Hòa thượng Tuyên Hóa giảng thuật, Nguyễn Minh Tiến Việt dịch
(Xem: 11251)
Các tác phẩm của Thầy phần lớn được dịch từ Hán tạng, gồm giới kinh và các nguồn văn học Phật giáo Đại thừa với tư tưởng uyên thâm về triết họctâm lý học.
(Xem: 30391)
Đã phát khởi chí nguyện Đại thừa, lại kiên quyết thực hiện chí nguyện ấy, đó thực sự là cung cách hùng dũng của con sư tử đang vươn mình, và do đó phải được nhìn đến bằng cung cách của con voi chúa.
(Xem: 30427)
Vua và phu nhân gởi thơ cho Thắng Man, đại lược ca ngợi công đức vô lượng của Như Lai, rồi sai kẻ nội thị tên Chiên Đề La đem thư đến nước A Du Xà... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 7966)
Tất cả các nhà đạo học và thế học muốn thành tựu kết quả tốt đẹp trong cuộc đời, thì trước hết, họ phải trải qua quá trình kham nhẫn, nỗ lực, tu, học, rèn luyện tự thân, giúp đỡ, và đem lại lợi ích cho tha nhân.
(Xem: 12162)
Bảy Đức Thế Tôn quá khứ từ Thế Tôn Tỳ Bà Thi, Thế Tôn Thích Ca, và chư Thế Tôn vị lai đều chứng ngộ Vô Thượng Bồ Đề từ sự chứng ngộ sự thật Duyên khởi.
(Xem: 12236)
Trong các bản Kinh Pháp Cú, phổ biến nhất hiện nay là Kinh Pháp Cú Nam Truyền, tức là Kinh Pháp Cú dịch theo Tạng Pali.
(Xem: 11583)
Có lần Đức Phật sống tại Rajagaha (Vương Xá) trong Khu Rừng Tre gần Nơi Nuôi Những Con Sóc. Lúc bấy giờ, vị Bà La Môn tên là Akkosa Bharadvaja đã nghe người ta đồn đãi như sau:
(Xem: 12789)
Tôi nghe như vầy. Có lần Đức Phật, trong khi đi hoằng pháp ở nước Kosala nơi có một cộng đồng rất đông Tỳ Kheo, ngài đi vào một tỉnh nhỏ nơi cư trú của người Kalama
(Xem: 34727)
Quy Sơn Cảnh Sách Học Giải - Tác Giả: Thiền Sư Quy Sơn Linh Hựu; Thích Thiện Trí (Thánh Tri) Phỏng Việt Dịch và Viết Bài Học Giải
(Xem: 9830)
Kinh này khởi đầu bằng lời người Bà La Môn hỏi rằng làm thế nào người ta có thể tự thanh tịnh hóa khi nhìn thấy một vị Thượng nhân đã Thanh tịnh,
(Xem: 52246)
Nguyên xưa ngài Quán Nguyệt Pháp sư đem hai thời kinh khóa tụng: Mai đóng chung và chiều nhập chung lại làm một đại thể làm một tập lớn. - Chú giải: Ngài Quán Nguyệt; Dịch giả: HT Thích Khánh Anh
(Xem: 10727)
Tôi nghe như vậy: Một thời, đức Thế Tôn trú tại thành phố Śrāvastī (Xá-vệ), nơi rừng cây Jeta (Kì-đà), vườn của Ông Anāthapiṇḍada (Cấp-cô-độc),
(Xem: 10494)
Bài kinh này trong đoạn cuối (bài kệ 787), câu “không nắm giữ gì, cũng không bác bỏ gì” được Thanissaro Bhikkhu ghi chú rằng ...
(Xem: 10698)
Lúc bấy giờ, Bồ tát Đại sĩ Akṣayamatir[1] từ chỗ ngồ đứng dậy, vắt thượng y[2] qua một bên vai, chắp hai tay[3] hướng về đức Thế Tôn và thưa rằng:
(Xem: 10452)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào?
(Xem: 13062)
Đại ý bài kinh này Đức Phật dạy chúng đệ tử không nên truy tìm quá khứ, không nên ước vọng tương lai vì quá khứ đã đoạn tận.
(Xem: 16248)
Evaṃ me sutaṃ, “như vầy tôi nghe”, là lời Ngài Ananda bắt đầu mỗi bài kinh mà có lẽ không Phật tử nào là không biết.
(Xem: 21816)
Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538), thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm.
(Xem: 9603)
Phật dạy giới này áp dụng chung cho tất cả các Phật tử tại gia, không phân biệt Phật tử này thuộc thành phần hay đẳng cấp xã hội nào.
(Xem: 7110)
Sa-môn Thích Đàm Cảnh dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, vào thời Tiêu-Tề (479-502). Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn, tại Canada, năm 2018.
(Xem: 10378)
Đức Phật A Di Đà tự thân có ánh sáng vô lượng, chiếu khắp cả mười phương mà không có vật gì có thể ngăn che. Vì vậy nên Phật A Di Đà có nghĩa là Vô Lượng Quang Phật.
(Xem: 12723)
Nguyên tác Hán văn: Tì-kheo Linh Diệu, tông Thiên Thai soạn - Dịch sang tiếng Việt: Thích Thọ Phước
(Xem: 12764)
Ngài Buddhaghosa sanh ra và lớn lên nước Magadha, thuộc Trung Ấn Độ, vào thế kỷ thứ V trong ngôi làng Ghosa, gần địa danh nơi đức Phật thành đạo Bodhigaya
(Xem: 16215)
Nghiên Cứu Về Kinh A Hàm (Ãgama, Sanscrist)
(Xem: 16514)
Ai nói như sau, này các Tỷ-kheo: "Người này làm nghiệp như thế nào, như thế nào, người ấy cảm thọ như vậy, như vậy".
(Xem: 13839)
Đây là những điều tôi nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Cấp Cô Độc trong vườn cây Kỳ Đà ở thành Vương Xá.
(Xem: 16564)
Vào thời Đức Thích-ca-mâu-ni, không có hệ thống chữ viết được phổ biếnẤn Độ. Do đó, những thuyết giảng của Ngài được ghi nhớ và ...
(Xem: 12098)
"Lại nữa, lúc bấy giờ Mahāmati thưa rằng: “Bạch Thế Tôn, ngài đã từng dạy rằng: từ lúc Như Lai chứng nghiệm giác ngộ cho đến...
(Xem: 13790)
Kinh Địa Tạng là một trong các kinh Đại thừa được phổ biến rộng rãi trong quần chúng Việt Nam từ hơn nửa thế kỷ nay song song với các kinh Kim Cương, Di Đà, Phổ Môn...
(Xem: 14306)
Nguyên tác: Tôn giả Thế Thân (Acarya Vasubandhu) - Hán dịch: Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng; Việt dịch: Tỳ khưu Tâm Hạnh
(Xem: 9181)
No. 1613 - Nguyên tác: Tôn giả An Huệ; Dịch Hán: Tam Tạng Pháp sư Địa-bà-ha-la; Dịch Việt: Tâm Hạnh
(Xem: 11732)
Duy thức nhị thập luận, do bồ tát Thế Thân soạn, ngài Huyền trang dịch vào đời Đường... được thu vào Đại chính tạng, tập 31, No.1590.
(Xem: 11250)
Bồ-tát Trần Na tạo luận. Tam tạng Pháp sư Huyền Trang phụng chiếu dịch. Việt dịch: Quảng Minh
(Xem: 16285)
Nghe như vầy, một thời Đức Phật ở nước Xá Vệ ở vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc cùng chúng đại Tỳ Kheo năm trăm vị. Bấy giờ các thầy Tỳ Kheo...
(Xem: 14328)
No. 699; Hán dịch: Đời Đại Đường, Trung Thiên Trúc, Tam tạng Pháp sư Địa bà ha la, Đường dịch là Nhật Chiếu
(Xem: 16187)
Đức Phật Thích-Ca Mưu-Ni, bắt đầu chuyển pháp-luân, độ cho năm vị Tỳ-Khưu là Tôn-giả Kiều-Trần-Như v.v... Sau cùng, Ngài thuyết pháp độ cho ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 12684)
Kinh Phạm Võng nằm trong Đại Chánh Tạng, tập 24, ký hiệu 1484, gọi đủ là Phạm võng kinh Lô xá na Phật thuyết bồ tát tâm địa giới phẩm đệ thập
(Xem: 12072)
Phật thuyết-giảng Kinh Phạm-Võng để dạy về giới-luật, và các pháp cao-siêu vượt thoát được sáu mươi hai kiến-chấp vốn là các tà-kiến đã...
(Xem: 11789)
Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi, tại Jetavana, vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Độc). Ở đây,,,
(Xem: 15652)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434; Dịch Phạn - Hán: Tam Tạng Cát-ca-dạ, Dịch Hán - Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ; Hiệu đính: HT Thích Như Điển
(Xem: 11498)
Đời Đường, Thận Thủy Sa Môn Huyền Giác Soạn; Thánh Tri dịch nghĩa Việt và viết bài học giải...
(Xem: 14014)
Phật giáo được khai sáng ở Ấn-độ vào năm 589 trước kỉ nguyên tây lịch (năm đức Thích Ca Mâu Ni thành đạo), và đã tồn tại liên tục, phát triển không ngừng trên ...
(Xem: 12000)
Trong truyền thống Phật giáo Bắc truyền, Dược Sư là một bản kinh thường được trì tụng nhằm mục đích giải trừ tật bệnh, cầu nguyện bình an...
(Xem: 12613)
Thích-ca là phiên âm của tiếng Phạn. Phiên âm Hán Việt là Năng Nhân. Tức là họ của đấng hóa Phật ở cõi Ta-bà...
(Xem: 14984)
Kinh chuyển Pháp luân là bài thuyết Pháp đầu tiên của Đức Phật Thích-ca sau khi Ngài đã đắc đạo.
(Xem: 11950)
Ba Ngàn Oai Nghi Của Vị Đại Tỳ Kheo - Được xếp vào tập T24 - Kinh số 1470 - Tổng cộng kinh này có 2 quyển
(Xem: 13120)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 14520)
Satipatthana Sutta là một bản kinh quan trọng làm nền tảng cho một phép thiền định chủ yếu trong Phật giáo là Vipassana...
(Xem: 20663)
Kinh Tứ Thập Nhị Chương là một bài Kinh được truyền bá khá rộng rải ở các Tồng Lâm Tự Viện của Trung QuốcViệt Nam từ xưa đến nay.
(Xem: 13203)
Bản dịch này được trích ra từ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh Vol. 48, No. 2010. Bởi vì lời dạy của Tổ Tăng Xán quá sâu sắc, súc tích, và bao hàm trong 584 chữ Hán,
(Xem: 10929)
Dịch từ Phạn sang Tạng: Kluḥi dbaṅ-po, Lhaḥi zla-ba; Dịch Tạng sang Việt: Phước Nguyên
(Xem: 20679)
Trí Phật là trí Kim – cang, Thân Phật là thân Kim – Sắc, cõi Phật là cõi Hoàng – kim, lời Phật tất nhiên là lời vàng.
(Xem: 14339)
Bấy giờ Hòa Thượng Vakkali nhìn thấy Đức Phật đang đi đến từ xa, và ông đã cố gắng ngồi dậy.
(Xem: 20352)
Xin dâng hết lên Tam Bảo chứng minh và xin Quý Ngài cũng như Quý Vị tùy nghi xử dụng in ấn tiếp tục hay trì tụng cũng như cho dịch ra những ngôn ngữ khác...
(Xem: 17640)
Niệm Phật Tâm Muội do HT Hư Vân soạn, Sa môn Hiển Chơn dịch; Tọa Thiền Dụng Tâm Ký do Viên Minh Quốc Sư soạn, HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 14005)
Khi Bồ-tát Quán Tự Tại hành sâu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, ngài soi thấy năm uẩn đều KHÔNG, liền qua hết thảy khổ ách.
(Xem: 31850)
Viết ra các bài Phật học thường thức này, chúng tôi không có tham vọng giới thiệu toàn bộ Phật pháp và chỉ cốt giúp cho các bạn sơ cơ hiểu được một cách đúng đắn, đạo lý năm thừa trong Phật giáo mà thôi.
(Xem: 12009)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, Kinh văn số 1675. Tác giả: Long Thọ Bồ Tát; Sa Môn Sắc Tử dịch Phạn sang Hán; HT Thích Như Điển dịch Việt
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant